Phật Thuyết Kinh Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn - Phẩm Mười Năm - Phẩm Thọ Ký Thiên Tử Hiện Bất Thoái Chuyển

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT KINH

TRÌ TÂM PHẠM THIÊN SỞ VẤN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẨM MƯỜI NĂM

PHẨM THỌ KÝ THIÊN TỬ

HIỆN BẤT THOÁI CHUYỂN  

Bấy giờ, Trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ví như ở nơi nào có ngọc báu thì mọi người ở nơi ấy đều thấy được ánh sáng của nó.

Bạch Thế Tôn! Các bậc Chánh Sĩ thực hành đầy đủ các pháp không thể nghĩ bàn cũng như vậy. Bất cứ ở đâu, chư vị cũng đều được tự tại, dùng ánh sáng quý báu của pháp để chiếu soi đầy đủ, ngay khi tu tập liền đạt được bản tế, luôn dùng biện tài tự tại để diễn nói pháp.

Chư vị tự tại đối với các pháp nên không có đối tượng duyên dựa, không chấp vào ngã và ngã sở.

Chư vị được biện tài vô ngại nên không thể bị hỏi vặn cũng chẳng điên đảo, luôn được tự tại.

Người biện tài vô ngại nên thanh tịnh đối với quá khứ, không thủ đắc ở vị lai, cũng chẳng thấy có hiện tại.

Người biện tài vô ngại khiến cho người chưa từng có lòng tin phát khởi lòng tin, người chưa được giải thoát liền được giải thoát.

Người biện tài vô ngại phá trừ các kiêu mạn, giáo hóa cho những người ngã mạn, khiến họ trừ sạch tâm ấy.

Người biện tài vô ngại thì các ma không thể quấy phá, làm cho người nghe pháp tỉnh thức, thoát khỏi những việc của ma.

Người biện tài vô ngại khuyến khích cho người chưa phát khởi các pháp lành được sinh khởi, người đã sinh khởi pháp lành khiến được tăng trưởng, không hề bỏ mất nếu có các phiền não thì khiến họ đoạn trừ sạch, phiền não chưa sinh khởi khiến không sinh khởi.

Người biện tài vô ngại làm cho hàng Bồ Tát chưa mặc áo giáp oai đức khiến được mặc, người đã mặc thì không hề thoái lui.

Người biện tài vô ngại không đoạn trừ chánh pháp mà luôn hộ trì chánh pháp.

Người nào được biện tài như vậy thì có thể hàng phục tất cả ngoại đạo.

Vì sao?

Vì các loài thú nhỏ không thể chịu nổi tiếng gầm của sư tử, thấy sư tử thì không dám bước tới huống nữa là dám vào hang hoặc ở dưới gốc cây.

Bạch Thế Tôn! Cũng vậy, tất cả các hàng ngoại đạo không thể chịu nổi tiếng gầm của bậc Sư Tử vô thượng.

Bấy giờ, Thiên Tử hiện bất thoái chuyển hỏi Trời Đế Thích: Thưa nhân giả Câu Dực! Vừa rồi nhân giả nói về tiếng gầm ấy, vậy thế nào là tiếng gầm của Sư Tử?

Trời Đế Thích đáp: Nếu đối với các pháp mà không chấp giữ cũng chẳng có ngôn thuyết, đây gọi là tiếng gầm của Sư Tử, vì không có đối tượng duyên dựa nên gọi là tịch tĩnh.

Nếu có sự chấp giữ để thực hành theo tịch tĩnh thì không phải là tiếng gầm của Sư Tử, mà là tiếng kêu của loài cáo, vì còn chấp vào nẻo bình đẳng và có đôi tượng được thuyết pháp.

Này Thiên Tử! Thiên Tử nên nói lại, thế nào là tiếng gầm của Sư Tử?

Thiên Tử đáp: Thưa nhân giả Câu Dực! Nếu không tham chấp đối với Đức Như Lai, cũng chẳng có ngôn thuyết, huống nữa là các pháp khác, đó gọi là giảng pháp như tiếng gầm của Sư Tử. Thực hành theo lời dạy bình đẳng, gọi là tiếng gầm của Sư Tử.

Giảng nói về nhất phẩm gọi là tiếng gầm của Sư Tử. Nghe những điều đã giảng nói mà không sợ hãi, gọi là tiếng gầm của Sư Tử. Nếu giảng nói Kinh Pháp mà không thấy có sinh khởi, hoại diệt, cũng chẳng chấp vào thật tánh, gọi là tiếng gầm của Sư Tử.

Nếu ở trong phiền não mà không bị trói buộc, không có hòa hợp cũng chẳng tan hoại, người thuyết pháp như vậy gọi là tiếng gầm của Sư Tử.

Gọi là tiếng gầm của Sư Tử vì luôn chuyên chú, không chấp có người, chẳng có ngã và ngã sở, tất cả các pháp chỉ là tạm nêu bày.

Gọi là tiếng gầm của Sư Tử vì dùng nhất tâm để xiển dương pháp không.

Gọi là tiếng gầm của Sư Tử vì miệng thường giảng nói chánh pháp.

Gọi là tiếng gầm của Sư Tử vì diệt trừ sạch tất cả khổ não cho chúng sinh, khiến họ sẽ thành tựu quả vị Phật và giảng nói giáo pháp.

Gọi là tiếng gầm của Sư Tử vì đối với các tài sản luôn thanh tịnh hoàn toàn, thường biết đủ và khen ngợi giáo pháp.

Gọi là tiếng gầm của Sư Tử vì luôn ở trụ xứ vắng lặng, không chọn lựa các pháp hành.

Bậc dẫn đầu về cội nguồn của hạnh bố thí gọi là tiếng gầm của Sư Tử. Không xả bỏ giới cấm là tiếng gầm của Sư Tử. Bình đẳng đối với kẻ oán người thân là tiếng gầm của Sư Tử.

Giảng nói không hề chọn lựa, không thấy có xa, gần gọi là tiếng gầm của Sư Tử. Đoạn trừ các phiền não là tiếng gầm của Sư Tử. Bình đẳng dùng trí tuệ quan sát là tiếng gầm của Sư Tử.

Khi Thiên Tử thuyết giảng về tiếng gầm của Sư Tử, thì cả tam thiên đại thiên Thế Giới đều chấn động sáu cách, trăm ngàn nhạc cụ không tấu mà tự kêu, ánh sáng lớn ấy chiếu khắp cả thế gian và cung điện của Chư Thiên, trăm ngàn Chư Thiên và loài người cùng thưa: Chúng con đã được nghe Thiên Tử giảng pháp nói về tiếng gầm của Sư Tử, như ở cõi Diêm Phù Đề lại thấy chuyển pháp luân.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn liền mỉm cười. Theo pháp của Chư Phật thì lúc Ngài mỉm cười, có vô số hào quang đủ màu sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, tía, hồng…

Từ nơi kim khẩu phát ra, chiếu soi khắp vô lương Thế Giới của Chư Phật không thể tính kể, trên thì đến tận Cõi Trời Phạm Thiên, che khuất ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, trở lại nhiễu quanh thân Đức Phật ba vòng, rồi thu tướng ấy vào đỉnh đầu.

Phạm Thiên Trì Tâm liền đứng dậy, chắp tay hướng về Phật dùng kệ khen ngợi:

Bậc thông tuệ thù thắng

Biết rõ khắp các cõi

Phân biệt, thông đạt hết

Hành chúng sinh ba đời.

Tùy theo tâm tín kính

Dùng tuệ giải thoát họ

Tâm Ngài vượt mọi loài

Thọ ký khắp tất cả.

Chẳng phải là quả vị

Hàng Thanh Văn, Duyên Giác

Tuệ Phật là như vậy

Vô lượng, không giới hạn.

Hiểu rõ tâm chúng sinh

Nên giảng nói pháp gì

Để giải thoát cho họ

Bậc thù thắng khó sánh.

Tùy ý thường an lạc

Khéo léo trừ cấu uế

Hào quang Ngài phóng ra

Che nhật nguyệt Cõi Trời.

Soi đến núi Thiết Vi

Ứ vạn núi Tu Di

Xin Ngài giảng nói nghĩa

Nhân duyên việc mỉm cười.

Bậc Năng Nhân tịch tĩnh

Trừ sạch mọi giận dữ

Từ bi quán sát khắp

Chư Thiên và thế gian.

Chiêm ngưỡng Ngài không chán

Thảy đều được an lạc

Xin giảng nhân mỉm cười

Hiểu rõ hết ý nghĩa.

Lựa chọn, quán các pháp

Tự tại như hư không

Mây, mù, điện, dợn nắng

Giả tạm như bọt, huyễn.

Thấy tất cả như mộng

Và như Trăng đáy nước

Lành thay Ngài giảng nói

Nhân duyên gì mỉm cười?

Trừ hết thảy kiến chấp

Bậc Năng Nhân hiểu không

Các thông tuệ, trừ uế

Luôn lìa tưởng chấp giữ.

Chẳng có ba nẻo nguyện

Trụ thiền định, bình đẳng

Vì sao phóng hào quang

Xin thương phân biệt nói.

Chẳng văn tự ngôn từ

Không chấp vào âm thanh

An trụ giảng nói Kinh

Không thích pháp chúng sinh.

Hiểu rõ cả chúng hội

Khiến họ được tuệ Phật

Biết thần thông, căn, lực

Bậc tối thắng khéo giảng.

Phật là Bậc Y Vương

Trừ sạch tất cả khổ

Dũng mãnh đạt an lạc

Cứu chúng sinh buông lung.

Thoát khỏi mọi trói buộc

Khiến họ đều quy y

Xin Đấng Thần Tôn Giảng

Nhân hào quang, mỉm cười?

Đức Phật bảo Phạm Thiên Trì Tâm: Ông thấy Thiên Tử Hiện bất thoái chuyển chăng?

Phạm Thiên Trì Tâm đáp: Bạch Thế Tôn, con đã thấy! 

Đức Phật dạy: Này Phạm Thiên! Thiên Tử hiện bất thoái chuyển này trong ba mươi hai kiếp không thể lường xét nữa sẽ được thành Phật, hiệu là Tu Di Đăng Vương đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, Quốc Độ tên là Thiện Hóa, kiếp tên Tịnh Thán.

Cõi Phật đó dùng hai loại báu là lưu ly xanh biếc và vàng kim cương làm đất, toàn là chúng Bồ Tát, hàng phục hết các thứ ma oán. Nhà cửa, y phục, thức ăn đều giống như Cõi Trời thứ sáu là Tha Hóa Tự Tại. Đức Như Lai ấy luôn ân cần giáo hóa chúng sinh.

Bấy giờ, Phạm Thiên Trì Tâm nói với Thiên Tử Hiện bất thoái Chuyển: Thưa Nhân Giả! Hôm nay, Đức Như Lai đã thọ ký cho Nhân Giả.

Thiên Tử nói: Đức Như Lai đã thọ ký cho tôi, giống với như không có nguồn gốc thì việc thọ ký và pháp tánh cũng không có nguồn gốc, việc thọ ký cho tôi cũng vậy.

Phạm Thiên nói: Do như cùng với pháp tánh không có nguồn gốc nên không có sự thọ ký.

Thiên Tử nói: Như không có nguồn gốc, pháp tánh cũng không có nguồn gốc, nếu cho là có thọ ký thì không thể có việc ấy, tất cả hàng Bồ Tát cũng vậy.

Phạm Thiên hỏi: Nhân Giả không an trụ nơi quả vị Chánh Giác, tu phạm hạnh, phân biệt, hiểu rõ giống như Đức Phật đã thọ ký chăng?

Thiên Tử đáp: Thưa Phạm Thiên! Nếu không có đối tượng được tu tập, bình đẳng đối với tất cả, mới gọi là tu tập phạm hạnh.

Phạm Thiên hỏi: Thế nào là không có đối tượng được tu tập mới là tu phạm hạnh?

Thiên Tử đáp: Những ai không tu tập nơi Cõi Dục, Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc thì những người ấy chính là tu phạm hạnh.

Lại nữa, thưa Phạm Thiên! Không trụ nơi đối tượng được tu tập, không trụ vào ngã, không tu tập theo nhân, không tu tập theo tuổi thọ cũng không tu tập nơi mạng sống, đấy gọi là tu phạm hạnh. Nói tóm lại, nếu đối với các pháp mà không tu tập theo các pháp, đấy gọi là tu hành phạm hạnh.

Phạm Thiên hỏi: Thế nào là tu hành phạm hạnh?

Thiên Tử đáp: Không trụ nơi nẻo nhị biên gọi là tu hành phạm hạnh.

Phạm Thiên hỏi: Không trụ vào nẻo nhị biên thì kiến lập điều gì?

Thiên Tử đáp: Không trụ vào nẻo nhị biên là kiến lập tất cả các pháp.

Vì sao?

Vì sự tu hành của Bậc Hiền Thánh mà không có đối tượng kiến lập thì được giải thoát.

Phạm Thiên hỏi: Làm thế nào để tu đạo?

Phạm Thiên đáp: Tu đạo là không chấp vào sự thực hành, cũng không bỏ sự thực hành, không thực hành các pháp cũng chẳng xa lìa các pháp, đó gọi là tu đạo, tinh tấn thuận hợp với Như.

Phạm Thiên hỏi: Dùng những hạnh gì để tu đạo?

Phạm Thiên đáp: Không thấy, không nghe, không nhớ, không biết, không giáo hóa, không thủ đắc, không chứng quả, đối với tất cả các pháp đều không thấy có đối tượng được thực hành, đó gọi là tu đạo.

Phạm Thiên hỏi: Thế nào là Bồ Tát tinh tấn vững mạnh?

Thiên Tử đáp: Nếu Bồ Tát không thấy có một pháp để thực hành, cũng không thấy có nhiều pháp để thực hành, đó gọi là Bồ Tát tinh tấn vững mạnh, mặc áo giáp giới đức, đối với pháp tánh không hề hủy hoại, đã không hủy hoại nên cũng chẳng gần gũi, không xa lìa các pháp, cũng không chống trái, không thấy có phiền não, cũng không có kết sử.

Đó gọi là Bồ Tát thực hành tinh tấn bậc nhất, đối với tất cả các pháp không thấy có cao, thấp mà luôn tu hành tinh tấn.

Thưa Phạm Thiên! Không duyên theo thân, không duyên theo miệng, không duyên theo tâm, đó là thực hành tinh tấn bậc nhất.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Thiên Tử Hiện bất thoái chuyển: Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói.

Đức Phật lại bảo Phạm Thiên Trì Tâm: Này Phạm Thiên! Như lời Thiên Tử vừa nói, Bồ Tát không thực hành nơi thân, không thực hành nơi miệng, không thực hành nơi tâm, đó là thực hành tinh tấn bậc nhất.

Này Phạm Thiên! Nhớ lại thuở xưa, về thời quá khứ cách đây nhiều kiếp, Như Lai đối với tất cả các đức hạnh đều hoàn toàn tịch tĩnh, siêng tu tinh tấn, cung kính cúng dường, ở nơi vắng vẻ để học rộng nghe nhiều, thực hành Từ Bi đối với tất cả chúng sinh, dù đã tu theo tất cả các hạnh, tinh tấn khổ nhọc nhưng Như Lai vẫn không được thọ ký thành tựu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Vì sao?

Vì lúc nào cũng chấp nơi thân, miệng, ý.

Này Phạm Thiên! Tu hành tinh tấn theo các hình sắc như vậy thì đầy đủ các hạnh này.

Như lời Thiên Tử vừa nói, về Đời sau, Như Lai mới được Đức Phật Định Quang thọ ký: Đời sau, ông sẽ thành Phật Hiệu là Năng Nhân gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Vì thế, này Phạm Thiên! Giả sử Bồ Tát muốn mau được thọ ký thì nên tu hành tinh tấn như vậy, nhận biết các pháp mà không có đối tượng được thực hành.

Phạm Thiên thưa: Bạch Thế Tôn! Thế nào là không có đối tượng được thực hành?

Đức Thế Tôn đáp: Bình đẳng rốt ráo, thảy đều rỗng lặng gọi là tinh tấn.

Phạm Thiên thưa: Thế nào là bình đẳng rốt ráo, thảy đều rỗng lặng mà gọi là tinh tấn?

Đức Thế Tôn đáp: Tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không trụ, những gì diệt tận thì không phát sinh trở lại. Giả sử đạt được tướng không sinh khởi thì trụ như vậy gọi là thường, là không có chỗ trụ.

pháp ấy là chánh pháp đều bình đẳng nên không sinh khởi, vì không sinh khởi nên không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu không có quá khứ, vị lai, hiện tại thì vốn thanh tịnh, không sinh khởi.

Này Phạm Thiên! Đó là bình đẳng rốt ráo, thảy đều rỗng lặng, gọi là tinh tấn. Như vậy, Bồ Tát muốn mau được thọ ký thì phải đạt được pháp nhẫn, đầy đủ các hạnh.

Này Phạm Thiên! Nếu Bồ Tát đối với tất cả các pháp mà không thấy có đối tượng được tu tập thì gọi là bố thí, không chấp giữ tất cả các pháp gọi là trì giới, không nhớ nghĩ về tất cả các pháp gọi là nhẫn nhục, đối với các pháp không có đối tượng được duyên dựa gọi là tinh tấn, bình đẳng đối với tất cả các pháp gọi là thiền định, đối với tất cả các pháp không khởi tưởng gọi là trí tuệ.

Đây gọi là không tăng thêm cũng không giảm bớt, không tạo tác cũng chẳng phải tạo tác, thường thực hành bố thí nhưng không mong cầu, hành trì giới cấm nhưng không chấp giữ, tu theo nhẫn nhục nhưng trong ngoài đều thanh tịnh, thực hành tinh tấn mà thành tựu trọn vẹn, nhất tâm thiền định hoàn toàn không vướng mắc, tôn dùng trí tuệ nhưng không khởi tưởng.

Bồ Tát thực hành đầy đủ các hạnh nhẫn nhục như vậy, tuy thực hành, thị hiện khắp tất cả các hạnh nhưng không hề chấp giữ, do không chấp giữ nên bình đẵng đối với pháp thế gian, được lợi không vui mừng, không lợi ích, cũng chẳng lo lắng.

Nếu gặp những sự bàn luận, chê bai, khen ngợi, hoan hỷ, khổ đau… đều khổng lay động, không tăng, không giảm, không thích, không lo, vì đã vượt trên pháp hữu vi của thế gian.

Vì không còn khổ đau, không phiền não cũng không khiếp sợ, không nhớ nghĩ cũng chẳng phải không nhớ nghĩ nên không có hai tướng, xa lìa các duyên nên đạt được pháp bất nhị, vì chúng sinh bị rơi vào hai kiến chấp nên khởi tâm đại bi, dấy khởi tâm của mình để giáo hóa họ.

Này Phạm Thiên! Đó là tinh tấn bậc nhất, vì đạt được nhẫn vô ngã nên đối với chúng sinh mà khởi tâm đại bi, dù ở nơi nào cũng đều dẫn dắt, cứu giúp họ.

Khi Đức Phật thuyết giảng về hạnh tinh tấn này, tám ngàn Bồ Tát đạt được pháp nhẫn vô sinh, Đức Phật thọ ký cho chư vị sẽ thành tựu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác đều đồng một danh hiệu là Kiên Cường Tinh Tấn, gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, mỗi vị đều ở nơi mỗi Cõi Phật khác nhau.

Bấy giờ, Tôn Giả Đại Ca Diếp bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ví như các Đại Long Vương, khi muốn tuôn mưa thì mưa xuống biển cả. Các Bồ Tát này cũng vậy, Đấng Thiên Trung Thiên giống như biển cả, hiện ra hình tượng này để tuôn mưa pháp lớn. Các Đại Bồ Tát cũng như biển cả, tâm của chư vị cũng như vậy, dùng tánh chân thật để tuôn mưa chánh pháp.

Phật bảo Bồ Tát Ca Diếp: Như lời Tôn Giả nói, các đại Long Vương này không phải vì tham tiếc mà không rưới mưa xuống Cõi Diêm Phù Đề, mà do đất ở Cõi ấy không thể chịu nổi những trận mưa lớn như vậy.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Những vị đại Long Vương này khi tuôn mưa xuống thiên hạ thì những cõi nước, thành ấp, núi non, khe suối… ở Cõi Diêm Phù đề đều bị cuốn sạch như cuốn trôi những chiếc lá cây. Do đó, những vị đại Long Vương không tuôn cơn mưa lớn xuống cối Diêm Phù Đề.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Các Bồ Tát ấy không vì tham tiếc mưa pháp mà không tuôn mưa pháp khiến cho tất cả chúng sinh được thấm nhuần.

Lại nữa, này Tôn Giả Ca Diếp! Nếu chúng sinh có đủ khả năng để lãnh thọ Phật Pháp thì các Bồ Tát sẽ biết rõ tâm ý của họ, sẽ rưới tuôn mưa pháp như tâm chúng sinh đang suy nghĩ, vì tâm của chư vị như biển cả.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Ví như khi các Long Vương trút các trận mưa dữ dội xuống thì biển cá đều chứa hết mà không cho là đủ, cũng chẳng tràn đầy. Các bậc Bồ Tát ấy cũng vậy.

Nếu trong một kiếp hoặc trăm ngàn kiếp được nghe thuyết giảng về pháp này, lại đối với các pháp không đều tăng, không giảm, cũng chẳng cho là đủ.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Lại như biển cả, do các dòng sông khắp nơi đổ về, nhưng đều có một vị mặn như muối. Các Bồ Tát này cũng vậy, dù nghe vô số âm thanh, diễn nói những giáo pháp khác nhau nhưng khi nghe pháp, chư vị đều hiểu rõ tất cả đều quy về một nghĩa, đó là vị giải thoát, là vị không.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Ví như trong biển cả, luôn trong sạch, không nhơ uế, dù có chứa bất cứ dòng nước nào cũng chẳng cấu bẩn. Các Bồ Tát này cũng như vậy, chư vị luôn thanh tịnh, không cấu uế, không có các sự nhơ uế như: kết sử, biếng nhác, sân hận…

Này Tôn Giả Ca Diếp! Ví như biển cả sâu thẳm không đáy, khó có thể biết được giới hạn. Các Bồ Tát này cũng như vậy, hiểu rõ về trí tuệ thâm diệu của Bậc Thánh, tâm hội nhập vào pháp sâu xa uyên áo khó có thể lường xét, hàng Thanh Văn, Duyên Giác không thể sánh bằng.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Ví như trong biển cả chứa vô lượng vô sô nước không thể lường tính. Các Bồ Tát này cũng vậy, chứa nhóm, gieo trồng các pháp trí tuệ Ba la mật không có giới hạn, nên dụ cho biển cả, chư vị đầy đủ các sắc tướng như vậy, nên gọi là Bồ Tát.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Ví như trong biển cả chứa nhóm vô lượng các loại báu. Các Bồ Tát này cũng vậy, dùng vô lượng pháp để giáo hóa, nên vô số pháp báu tự nhiên tràn đầy.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Như trong biển cả có ba loại báu: Báu chân thân, báu thanh thủy, báu tài nghiệp. Các Bồ Tát này cũng vậy, khi giảng nói Kinh Pháp đều theo căn cơ và sự ứng hợp của chúng sinh nhằm khiến họ được giải thoát, hoặc đạt được thừa Thanh Văn, thừa Duyên Giác, hay Đại Thừa.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Như trong biển cả, các dòng nước lớn nhỏ đều đổ vào thì dần dần trở thành sâu rộng. Các Bồ Tát này cũng vậy, chí nguyện nơi các thông tuệ, thực hành các thông tuệ, dần dần thành tựu đạo quả của bậc Thánh.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Như trong biển cả, không chứa thây chết, các bậc Chánh Sĩ này cũng vậy, không chấp nhận tâm Thanh Văn, Duyên Giác, cũng không cùng chí hướng với chư vị ấy, không chấp nhận tâm tham lam, ganh ghét, phá giới, kết sử, biếng nhác, sân hận.

Không chấp nhận tâm tán loạn và trí ác, không dung chứa ngã và ngã sở, nhân, thọ mạng và kiến chấp.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Nếu gặp vào thời kỳ tai nạn thiêu đốt thì các dòng sông, sông lớn, ao hồ… đều khô cạn trước, sau đó biển cả mới bị khô cạn.

Này Tôn Giả Ca Diếp!

Bồ Tát lưu truyền chánh pháp đến khắp các Cõi cũng vậy, trước dùng hạnh bố thí để tu tập chánh pháp, sau đó mới ban khắp sự giác ngộ đến các biển tâm, rồi chánh pháp lại trở về nơi các bậc Chánh Sĩ.

Lại nữa, này Tôn Giả Ca Diếp! Các bậc Chánh Sĩ ấy thà mất thân mạng chứ không xả bỏ chánh pháp.

Tôn Giả cho rằng các bậc Chánh Sĩ này bỏ mất chánh pháp chăng?

Chớ nghĩ như vậy. Như trong biển lớn có ngọc như ý tên là Kim Cang, là sự tích tập của các thứ báu, khi lửa nổi lên bảy ngày, trên lên tới Cõi Phạm Thiên thiêu hết các châu báu, cùng các Cõi Phật trong tam thiên đại thiên Thế Giới, kể cả các phương khác cũng đều bị cháy rụi.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Ngọc báu như ý kia đi đến Thế Giới khác mà bị thiêu hủy thì không có điều ấy.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Các Bồ Tát ấy cũng vậy, khi tất cả các pháp diệt tận, thì bảy loại pháp xuất hiện, các Bồ Tát là chánh pháp cho thế gian nương tựa, lại có thể dời đến Cõi Phật ở phương khác.

Những gì là bảy?

Đó là học thuyết ngoại đạo, gần gũi bạn ác, rơi vào tà kiến, luôn phá hoại nhau, hành theo các kiến chấp, hủy hoại các cội gốc công đức, không thể chứng đắc đạo. Đó là bảy loại pháp xuất hiện.

Đối với bảy pháp này, các Bồ Tát đều biết rõ, thấy chúng sinh ở các Cõi Phật khác không rời Chư Phật, thường được giác ngộ, thích nghe Kinh Điển, chư vị liền giáo hóa cho họ, gieo trồng cội gốc công đức.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Ví như vô số loài chúng sinh nương vào biển cả và ở trong ấy. Các Bồ Tát cũng vậy, vô số chúng sinh đều đến trong chúng hội để nương tựa nơi chư vị ấy, hết thảy đều ở và trở về ba nẻo.

Những gì la ba?

Đó là, được sinh lên Cõi Trời, ở Cõi người giàu có và đạt được diệt độ.

Này Tôn Giả Ca Diếp! Như trong biển cả, các loài Rồng, A Tu La đều tự tại, các Bồ Tát ấy cũng thế, hàng phục tất cả các ma.

Bấy giờ, Trưởng Lão Đại Ca Diếp bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Giới hạn của biển cả còn có thể lường xét được, còn các vị Bồ Tát này thì không thể lường xét được.

Đức Phật bảo: Này Tôn Giả Ca Diếp! Nếu muôn biết số bụi trần trong tam thiên đại thiên Thế Giới thì còn có thể biết được, nhưng các hạnh chân thật và nơi hướng đến của các Bồ Tát này thì không thể biết.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ví như biển cả

Dung nạp hết thảy

Tất cả dòng nước

Nhưng vẫn không đầy,

Người cầu chánh pháp

Cũng lại như vậy

Ưa thích chánh pháp

Không cho là đủ.

Giống như biển cả

Vô lượng dòng nước

Thảy đều đổ về

Biển đều chứa hết,

Bồ Tát thông đạt

Cũng lại như vậy

Không nương trí tuệ

Mà cho là đủ.

Biển cả không nhơ

Không ngập, ô nhiễm

Các dòng nước sạch

Cũng đều đổ về,

Hành giả tu tập

Cũng lại như vậy

Không nhận phiền não

Và các nhơ uế.

Giống như biển cả

Không thể lường xét

Rộng lớn không bờ

Chẳng thể biết được,

Biển đức trí tuệ

Cũng lại như vậy

Cứu giúp chúng sinh

Không thể tính kể.

Ở trong biển cả

Có vô số dòng

Hàng vạn con sông

Hợp làm một vị,

Vô số hạng người

Đồng đến nghe pháp

Đều về một thừa

Nghĩa lý Kinh Điển

Chẳng phải một loại

Nên gọi là biển.

Trước khi kiến lập

Thành biển cả đức

Không hề sợ hãi

Chí nguyện như vậy

Trùm khắp chúng sinh

Ấy khởi tâm đạo.

Ví như biển cả

Tích chứa các báu

Dù ở chỗ nào

Cũng không vướng mắc,

Các chúng Bồ Tát

Như chứa châu báu

Nhờ đó phát sinh

Thành ba loại báu.

Giống như sông, biển

Có ba loại báu

Như sông, biển ấy

Cũng không phân biệt,

Bậc Thánh thông tuệ

Thuyết pháp như vậy

Cũng dùng ba thừa

Dẫn dắt chúng sinh.

Giống như biển cả

Dẫn thành rộng lớn

Các dòng đổ về

Đều được trần đầy,

Các chúng Bồ Tát

Đạt các thông tuệ

Độ khắp chúng sinh

Siêng năng tu hành.

Giống như biển cả

Không chứa thây chết

Pháp như biển ấy

Cũng lại như thế,

Bồ Tát lập chí

Cầu đạo cũng vậy

Không chấp nhân ngã

Cũng chẳng thuận dòng.

Giống như trong biển

Phát sinh các báu

Đều là quý báu

Ở nơi vững chắc,

Khi kiếp thiêu khởi

Không thể đốt cháy

Liền được đem đến

Nơi Cõi Phật khác.

Lúc chánh pháp diệt

Cũng lại như vậy

Người luôn tinh tấn

Giữ gìn chánh pháp,

Nhờ quan sát thấy

Không thể giữ gìn

Lập tức đem đến

Cõi Phật phương khác.

Sông, suối, ao hồ

Thảy đều khô cạn

Sau đó nước biển

Mới dần cạn khô,

Lúc kiếp thiêu khởi

Cũng lại như vậy

Đại Thiên Thế Giới

Đều bị hủy hoại.

Chúng sinh phàm phu

Ở trong cõi nước

Giả sử chánh pháp

Đều đả diệt hết,

Những người dũng mãnh

Giữ pháp cũng vậy

Xã bỏ thân mạng

Không hề tham tiếc.

Do biết chánh pháp

Sẽ bị tiêu diệt

Giác ngộ hiện tại

Hoặc sau diệt độ,

Những người chí nguyện

Thanh tịnh như vậy

Là kiến lập pháp

Vô số chúng sinh,

Đều nên tu theo

Nương nhờ nơi biển

Chẳng phải một loại

Làm được điều ấy,

Bậc đại danh xưng

Chí nguyện như vậy

Đến khắp chúng sinh

Đều được giải thoát.

Còn có giới hạn

Phân biệt biết rõ

Đối với Cõi Phật

Và các biển cả,

Sự hành hóa ấy

Không thể biết được

Các chúng Duyên Giác

Và hàng Thanh Văn

Không ai sánh bằng

Huống lại hơn hẳn

Hạnh các Bồ Tát

Tinh tấn vững mạnh.

Tâm chư vị ấy

Phải nên đảnh lễ

Sẽ được thành Phật

Giáo hóa chúng sinh.

Chư vị là báu

Giống như biển cả

Hãy nên cúng dường

Luôn lã ruộng phước,

Chính là đất tốt

Y vương tối thượng

Trị lành hết thảy

Mọi thứ bệnh tật.

Lại vì cứu giúp

Quay về giải thoát

Đem đèn đuốc sáng

Hiển hiện chiếu soi

Thế gian tăm tối

Được mắt sáng tỏ

Người có mắt ấy

Mau được Cam Lồ.

Làm vị Đế Vương

Thường gọi Vua pháp

Đây là Vua Trời

Tạo nhiều lợi ích,

Cũng là Vua Phạm

Tư duy Bốn Thiền

Liền vận chuyển được

Bánh xe chánh pháp.

Đây là Đạo Sư

Mở bày đường lớn

Nơi chốn tranh cãi

Hiện rõ lối đi,

Là bậc dũng mãnh

Hàng phục tất cả

Trừ hết phiền não

Làm tịnh cõi nước.

Tu pháp thanh tịnh

Như ánh Trăng rằm

Phóng ánh sáng khắp

Như Mặt Trời mọc.

Trí tuệ vượt bậc

Như núi Tu Di

Ở trong ba cõi

Rưới mưa Cam Lộ.

Chư vị khó sánh

Giống như Sư Tử

Tâm ấy nhu hòa

Giống như voi hiền,

Hoặc như đại địa

Chở các núi non

Hàng phục tất cả

Luận thuyết ngoại đạo.

Hạnh thường thanh khiết

Ví dụ như nước

Uy, sáng khó lường

Vị ấy như lửa

Không hề chướng ngại

Cũng giống như gió

Xa lìa biếng nhác

Lại giống như đất

Trừ hết kiêu mạn

Nhổ sạch sân hận.

Ví như cây thuốc

Không hề phân biệt

Giới tịnh, không chấp

Giống như hoa sen

Không hề nương tựa

Tám pháp ở đời.

Hành hóa ví như

Hoa Ưu Bát La

Vô số ức kiếp

Âm thanh khó đạt,

Đối bậc tôn kính

Thường hay báo ân

Theo lời Phật dạy

Không lìa chánh pháp.

Chí nguyện kiên cố

Có lòng từ bi

Tâm từ vững chắc

Hỷ xả siêu tuyệt,

Cứu giúp chúng sinh

Đối với năm dục

Khéo biết duyên hợp

Tài sản quý báu

Thường đem bố thí

Giữ gìn giới cấm

Rất là thù thắng

Không ai sánh bằng.

Dùng lực nhẫn nhục

Giữ tâm dũng mãnh

Đạt đến tinh tấn

Thường không mệt mỏi,

Đủ các thiền định

Thần thông, trí tuệ

Đi đến vô lượng

Vô số Cõi Phật

Được gặp Chư Phật

Và nghe Kinh Điển

Như điều đã nghe

Mà tu tập theo.

Thảy đều thông đạt

Hạnh của chúng sinh

Tùy sự ứng hợp

Lòng tín, các căn,

An ổn, chân thật

Dùng phương tiện khéo

Vì các ngoại đạo

Hiển bày ánh sáng

Khiến họ thông đạt

Hết thảy các pháp

An nhiên, hòa đồng

Phân biệt báo ứng.

Thảy đều hiểu rõ

Nhân duyên pháp luật

Lìa ngã, ngã sở

Thường trụ bình đẳng,

Liền quán xét theo

Như pháp thích hợp

Chư vị đã từng

Xuất gia tu học.

Quá khứ thường gặp

Tất cả các pháp

Nhờ trụ nơi pháp

Mà rõ pháp giới,

Biết rõ thông tuệ

Chẳng có hình tướng

Có thể dấy khởi

Lòng thương thù thắng

Để cứu giúp khắp

Chúng sinh siêng năng

Tu tập giải thoát

Lại chấp vào pháp

Có ngã, ngã sở

Mà khởi vọng tưởng

Làm theo ngu si

Tà kiến, buông lung

Tu hành như vậy

Là pháp hư giả.

Chư vị giảng nói

Trừ hết kiến chấp

Vô thường là thường

Không, cho là thật,

Lấy khổ làm vui

Không thân chấp có

Phàm phu như vậy

Chấp giữ điên đảo,

Không phân biệt được

Giới hạn sinh tử

Nếu biết chánh lý

Trừ nguồn điên đảo.

Biết là không người

Không thọ, không mạng

Có thể tịnh tu

Theo hạnh bình đẳng

Hiểu rõ vô thường

Khổ không, vô ngã.

Ca Diếp bậc ấy

Tiếng khen công đức

Từ nơi các cõi

Vang đến khắp chốn

Vô lượng người nghe

Tuệ không giới hạn

Có thể tu hành

Bồ Tát cũng vậy

Giả sử biến khắp

Ba ngàn Thế Giới

Thảy đều kính ngưỡng

Kiến lập Bồ Tát

Cúng dường La Hán

Gấp bội số ấy

Cũng không sánh bằng

Ta cũng kiến lập

Chí nguyện Bồ Tát

Hết thảy các bậc

Chánh Giác quá khứ

Vị lai cũng vậy

Và ngay hiện tại

Thánh tôn mười phương

Thảy đều lập chí

Muốn được thành Phật.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần