Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Bốn - Phẩm Vị Tằng Hữu Pháp - Kinh Thị Giả

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM BỐN

PHẨM VỊ TẰNG HỮU PHÁP  

KINH THỊ GIẢ  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật du hóa tại thành Vương Xá.

Bấy giờ, có các đại đệ tử, là các Tỳ Kheo Trưởng Lão thượng tôn danh đức, được nhiều người biết đến.

Đó là Tôn Giả Câu Lân Nhã, A Nhiếp Bối, Tôn Giả Thích Ca Vương Bạt Đề, Tôn Giả Ma Ha Nam Câu Lệ, Tôn Giả Hòa Phá, Tôn Giả Da Xá, Tôn Giả Bân Nậu, Tôn Giả Duy Ma La, Tôn Giả Già Hòa Ba Đề, Tôn Giả Tu Đà Da, Tôn Giả Xá Lê Tử, Tôn Giả A Na Luật Đà, Tôn Giả Nan Đề, Tôn Giả Kim Tì La, Tôn Giả Lệ Ba Đá, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, Tôn Giả Đại Ca Diếp.

Tôn Giả Đại Câu Hi La, Tôn Giả Đại Châu Na, Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên, Tôn Giả Bân Nậu Da Nậu Tả Trưởng Lão, Tôn Giả Da Xá Hành Trù Trưởng Lão, rất nhiều các vị Tỳ Kheo Trưởng Lão thượng tôn danh đức, đại đệ tử, được mọi người biết đến, tương tự như vậy, cũng ở thành Vương Xá, tất cả đều trú gần ngôi nhà lá của Phật.

Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ Kheo rằng: Hiện nay tuổi của ta đã già. Thân thể ngày càng suy yếu, tuổi thọ đã quá già rồi, nên ta cần có thị giả. Các thầy hãy cử cho ta một thị giả, làm sao để chăm sóc ta, xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời ta nói mà không quên mất ý nghĩa.

Lúc ấy Tôn Giả Câu Lân Nhã liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp tay hướng về Đức Phật thưa rằng: Bạch Thế Tôn, con xin nguyện hầu hạ, xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ những lời Ngài nói mà không quên mất ý nghĩa.

Đức Thế Tôn bảo rằng: Này Câu Lân Nhã, thầy cũng tuổi đã già, thân thể ngày càng suy yếu, tuổi thọ đã qua dài rồi. Chính thầy cũng cần có thị giả. Này Câu Lân Nhã, thầy nên lui về chỗ ngồi đi. Bấy giờ Tôn Giả Câu Lân Nhã đảnh lễ chân Phật rồi lui về chỗ ngồi.

Cũng như vậy, lần lượt Tôn Giả A Nhiếp Bối, Tôn Giả Thích Ca Vương Bạt Đề, Tôn Giả Ma Ha Nam Câu Lệ, Tôn Giả Hòa Phá, Tôn Giả Da Xá, Tôn Giả Bân Nậu, Tôn Giả Duy Ma Lạ, Tôn Giả Già Hòa Ba Đề, Tôn Giả Tu Đà Da, Tôn Giả Xá Lê Tử, Tôn Giả A Na Luật Đà, Tôn Giả Nan Đề, Tôn Giả Kim Tì La, Tôn Giả Lệ Ba Đá, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, Tôn Giả Đại Ca Diếp, Tôn Giả Đại Câu Hi La, Tôn Giả Đại Châu Na, Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên, Tôn Giả Bân Nậu Da Nậu Tả Trưởng Lão.

Tôn Giả Da Xá Hành Trù Trưởng Lão, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa áo, chắp tay hướng về Đức Phật thưa rằng: Bạch Thế Tôn, con xin nguyện hầu hạ xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ những lời Ngài dạy mà không quên ý nghĩa.

Đức Thế Tôn bảo rằng: Này Da Xá, thầy cũng tuổi đã già, thân thể ngày càng suy yếu, tuổi thọ đã qua dài rồi. Chính thầy cũng cần có thị giả. Này Da Xá, thầy nên lui về chỗ ngồi đi.

Bấy giờ, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên đang ở trong đại chúng ấy, liền suy nghĩ như vậy: Đức Thế Tôn muốn tìm vị nào làm thị giả?

Ý nghĩ đặt vào Tỳ Kheo nào?

Muốn cho ai chăm sóc Ngài, xứng ý chớ không phải không xứng ý, và ghi nhớ những lời Ngài dạy mà không quên mất nghĩa?

Có lẽ ta nên nhập định có hình tượng như thế, quan sát tâm của chúng Tỳ Kheo. Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên liền nhập định có hình tượng như thế, biết Thế Tôn muốn chọn Hiền Giả A Nan làm thị giả, ý Ngài đặt vào A Nan, muốn A Nan chăm sóc, xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời dạy mà không quên ý nghĩa.

Bấy giờ Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên liền xuất định, thưa với chúng Tỳ Kheo rằng: Chư Hiền biết không, Đức Thế Tôn muốn chọn Hiền Giả A Nan làm thị giả. Ý Ngài đặt vào A Nan. Muốn A Nan chăm sóc, xứng ý chớ không phải là không xứng ý, ghi nhớ lời dạy mà không quên ý nghĩa. 

Bây giờ chúng ta nên cùng nhau đến chỗ Hiền Giả A Nan khuyến dụ thầy ấy làm thị giả của Thế Tôn.

Bấy giờ Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên cùng các Tỳ Kheo cùng nhau đến chỗ Tôn Giả A Nan, chào hỏi nhau rồi ngồi sang một bên.

Lúc ấy Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên ngồi xong, nói rằng: Hiền Giả A Nan, thầy có biết không, Đức Thế Tôn muốn chọn thầy làm thị giả. Ý Ngài đặt vào A Nan, muốn A Nan chăm sóc Ngài, vì thầy xứng ý Ngài chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời dạy của Ngài mà không quên mất ý nghĩa.

A Nan, cũng như ngoài thôn xóm không bao xa, có một tòa lâu đài to lớn, cửa sổ mở ra ở phía Đông, thì khi mặt trời mọc lên, ánh sáng sẽ rọi thẳng vào vách phía Tây.

Này Hiền Giả A Nan, Đức Thế Tôn cũng vậy, muốn chọn A Nan làm thị giả, ý Ngài đặt vào A Nan, muốn A Nan chăm sóc Ngài, xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời dạy của Ngài mà không quên mất ý nghĩa.

Này Hiền Giả A Nan, bây giờ thầy nên làm thị giả Đức Thế Tôn.

Tôn Giả A Nan thưa rằng: Bạch Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, tôi không thể lãnh trách nhiệm hầu hạ Đức Thế Tôn nổi.

Vì sao thế?

Vì với các Đức Phật Thế Tôn khó xứng ý, khó hầu hại nghĩa là khó làm thị giả. Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, cũng như đối với một con voi rất hùng mạnh, đã hơn sáu mươi tuổi, kiêu ngạo, sức mạnh cường thạnh, đủ ngà, đủ vóc, khó làm xứng ý, khó gần gũi. Nghĩa là khó coi sóc.

Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, với Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, cũng lại như vậy, khó xứng ý, khó gần gũi. Nghĩa là khó làm thị giả. Thưa Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, vì vậy tôi không thể lãnh trách nhiệm làm thị giả được.

Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, nói rằng: Này Hiền Giả A Nan, thầy hãy nghe tôi nói ví dụ, người có trí nghe ví dụ liền hiểu ý nghĩa của nó. Này Hiền Giả A Nan, cũng như hoa Ưu Đàm Bát La đúng thời mới xuất hiện thế gian.

Này Hiền Giả A Nan, Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác cũng lại như vậy. Đúng thời mới xuất thế. Này Hiền Giả A Nan, thầy nên mau làm thị giả Đức Thế Tôn rồi sẽ được kết quả lớn.

Tôn Giả A Nan lại bạch: Thưa Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, nếu Đức Thế Tôn chấp thuận ba điều nguyện của tôi thì tôi mới có thể làm thị giả.

Những gì là ba?

Tôi nguyện không đắp y của Thế Tôn, dù cũ hay mới. Nguyện không ăn thực phẩm biệt thỉnh của Phật. Nguyện không gặp Thế Tôn phi thời. Thưa Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, nếu Đức Thế Tôn cho phép tôi nguyện ba điều ấy, tôi mới làm thị giả Đức Thế Tôn.

Bấy giờ, sau khi khuyên Tôn Giả A Nan làm thị giả rồi, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên đứng dậy đi quanh Tôn Giả A Nan rồi trở về.

Đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi ngồi sang một bên, bạch rằng: Bạch Thế Tôn, con đã khuyến dụ Hiền Giả A Nan làm thị giả Phật.

Bạch Thế Tôn, Hiền Giả A Nan, xin nơi Phật ba lời nguyện, nói rằng: Những gì là ba?

Nguyện không đắp y của Thế Tôn, dù cũ hay mới. Nguyện không ăn thực phẩm biệt thỉnh của Phật. Nguyện không gặp Thế Tôn phi thời. Thưa Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, nếu Đức Thế Tôn cho phép tôi nguyện ba điều ấy, tôi mới làm thị giả Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn nói: Này Đại Mục Kiền Liên, Tỳ Kheo A Nan thông minh trí tuệ, biết trước sẽ có những lời hiềm tỵ, hoặc có vị đồng phạm hạnh sẽ nói như vậy: Tỳ Kheo A Nan vì y áo nên hầu hạ Đức Thế Tôn.

Này Đại Mục Kiền Liên, nếu Tỳ Kheo A Nan thông minh trí tuệ, biết trước sẽ có những lời hiềm tỵ hoặc các đồng phạm hạnh, nói như vậy: Tỳ Kheo A Nan vì y áo nên hầu hạ Đức Thế Tôn. Thì đó là pháp vị tăng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Này Đại Mục Kiền Liên, Tỳ Kheo A Nan thông minh trí tuệ, biết trước sẽ có những lời hiềm tỵ, hoặc có vị đồng phạm hạnh sẽ nói như vậy: Tỳ Kheo A Nan vì đồ ăn nên hầu hạ Đức Thế Tôn.

Này Đại Mục Kiền Liên, nếu Tỳ Kheo A Nan thông minh trí tuệ, dự đoán sẽ có những lời hiềm tỵ hoặc các đồng phạm hạnh nói như vậy: Tỳ Kheo A Nan vì đồ ăn nên hầu hạ Đức Thế Tôn. Thì đó là pháp vị tăng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Này Đại Mục Kiền Liên, Tỳ Kheo A Nan khéo biết thời, khéo phân biệt được thời, biết lúc nào là thời nên đến gặp Như Lai, lúc nào không phải là thời đến gặp Như Lai.

Biết lúc nào là thời chúng Tỳ Kheo và chúng Tỳ Kheo Ni nên đến gặp Như Lai, lúc nào không phải là thời chúng Tỳ Kheo và chúng Tỳ Kheo Ni nên đến gặp Như Lai.

Biết lúc nào là thời chúng Ưu Bà Tắc và chúng Ưu Bà Di nên đến gặp Như Lai, lúc nào không phải là thời chúng Ưu Bà Tắc và chúng Ưu Bà Di nên đến gặp Như Lai.

Biết lúc nào các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học nên đến gặp Như Lai, biết lúc nào các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học không nên đến gặp Như Lai.

Biết lúc nào các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học không nên đến gặp Như Lai.

Biết các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học nào có thể bàn luận với Như Lai.

Biết các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học nào không thể bàn luận với Như Lai.

Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào Đức Như Lai dùng rồi sẽ an ổn, có lợi ích, loại cứng hay loại mềm nào Đức Như Lai dùng rồi sẽ không được an ổn, có lợi ích. Thức ăn loại cứng hay loại mềm nào Đức Như Lai dùng rồi sẽ được biện tài thuyết pháp.

Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào Đức Như Lai dùng rồi sẽ không được biện tài thuyết pháp. Đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Này Đại Mục Kiền Liên, mặc dù Tỳ Kheo A Nan không có tha tâm trí, nhưng có thể khéo biết trước được Đức Như Lai sẽ thuyết pháp cho ai khi Như Lai rời tĩnh tọa đứng dậy vào buổi xế, hôm nay Đức Như Lai sẽ làm như vậy, sẽ hiện pháp lạc trụ như vậy, nhận xét đúng lời Ngài nói, chắc thật không thể sai khác. Đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Khi Tôn Giả A Nan nói như vậy: Thưa Chư Hiền, tôi đã hầu Đức Thế Tôn đã hai mươi lăm năm, nếu do đó mà khởi tâm cống cao, không thể có sự kiện như vậy. Nếu Tôn Giả A Nan nói như thế, thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Tôn Giả A Nan lại nói như vậy: Thưa Chư Hiền, tôi đã hầu Đức Thế Tôn trong hai mươi lăm năm, cho đến nay chưa hề gặp Đức Thế Tôn phi thời. Nếu Tôn Giả A Nan nói như thế, thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Tôn Giả A Nan lại nói như vậy: Thưa Chư Hiền, tôi đã hầu Đức Thế Tôn trong hai mươi lăm năm, chưa từng một lần bị Phật khiển trách, trừ có một lỗi, lỗi đó cũng vì người khác. Nếu Tôn Giả A Nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Tôn Giả A Nan lại nói như vậy: Thưa Chư Hiền, tôi thọ tám văn pháp tụ từ Đức Như Lai, thọ trì không quên. Nếu nhân điều đó mà khởi cống cao, sự kiện như vậy không thể có. Nếu Tôn Giả A Nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Tôn Giả A Nan lại nói như vậy: Thưa Chư Hiền, tôi thọ tám văn pháp tụ từ Đức Như Lai, chưa hỏi lần thứ hai, trừ có một câu, câu ấy như vậy cũng không dễ. Nếu Tôn Giả A Nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Tôn Giả A Nan lại nói như vậy: Thưa Chư Hiền, tôi thọ tám văn pháp tụ từ Đức Như Lai, chưa hề thọ pháp từ người khác. Nếu Tôn Giả A Nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Tôn Giả A Nan lại nói như vậy: Thưa Chư Hiền, tôi thọ tám văn pháp tụ từ Đức Như Lai, khởi đầu chưa có tâm này, rằng tôi thọ trì pháp ấy để dạy lại người khác.

Này Chư Hiền, tôi chỉ muốn tự chế ngự, tự tịch tịnh, tự Bát Niết Bàn thôi. Nếu Tôn Giả A Nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Tôn Giả A Nan lại nói như vậy: Thưa Chư Hiền, có điều rất kỳ lạ này. Đó là có bốn bộ chúng đi đến chỗ tôi để nghe pháp. Nếu tôi vì thế mà khởi cống cao, điều ấy không thể có được.

Tôi cũng không hề tác ý trước rằng: Nếu có ai đến hỏi, ta sẽ trả lời như vậy.

Này Chư Hiền, tôi ngay trên chỗ ngồi tùy theo nghĩa người kia hỏi mà trả lời. Nếu Tôn Giả A Nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Tôn Giả A Nan lại nói như vậy: Thưa Chư Hiền, có điều rất kỳ lạ này. Đó là có số đông Sa Môn, Phạm Chí dị học đến hỏi tôi sự việc gì, nếu vì thế mà tôi sợ sệt, hãi hùng, lông tóc dựng đứng. Không thể có sự kiện ấy.

Tôi cũng không hề tác ý trước rằng: Nếu có ai đến hỏi, ta sẽ trả lời như vậy. Này Chư Hiền, tôi ngay trên chỗ ngồi tùy theo nghĩa người kia hỏi mà trả lời. Nếu Tôn Giả A Nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Lại nữa, có một thời, Tôn Giả Xá Lê Tử, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, Tôn Giả A Nan trú tại nước Xá Vệ, trong núi Bà La La.

Bấy giờ Tôn Giả Xá Lê Tử hỏi rằng: Này Hiền Giả A Nan, thầy hầu hạ Đức Phật cho đến nay là hai mươi lăm năm, thầy nhớ có lần nào khởi dục tâm không?

Tôn Giả A Nan thưa rằng: Thưa Tôn Giả Xá Lê Tử, tôi còn là hàng hữu học chưa ly dục.

Tôn Giả Xá Lê Tử lại hỏi rằng: Này Hiền Giả A Nan, tôi không hỏi thầy là bậc hữu học hay vô học.

Tôi chỉ hỏi, trong hai mươi lăm năm qua hầu hạ Đức Thế Tôn, thầy nhớ có lần nào khởi dục tâm không?

Tôn Giả Xá Lê Tử ba lần lặp lại câu hỏi: Này Hiền Giả A Nan, hai mươi lăm năm qua thầy hầu hạ Đức Thế Tôn, thầy nhớ có lần nào khởi dục tâm không?

Tôn Giả A Nan cũng ba lần lặp lại câu trả lời rằng: Thưa Tôn Giả Xá Lê Tử, tôi còn là hàng hữu học chưa ly dục.

Tôn Giả Xá Lê Tử lại hỏi rằng: Này Hiền Giả A Nan, tôi không hỏi thầy là bậc hữu học hay vô học.

Tôi chỉ hỏi, trong hai mươi lăm năm qua hầu hạ Đức Thế Tôn, thầy nhớ có lần nào khởi dục tâm không?

Bấy giờ Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên nói rằng: Này Hiền Giả A Nan, đáp nhanh đi, đáp nhanh đi, này A Nan, thầy đừng xúc nhiễu đến bậc thượng tôn Trưởng Lão.

Lúc đó Tôn Giả A Nan trả lời rằng: Thưa Tôn Giả Xá Lê Tử, hai mươi lăm năm qua, tôi đã hầu hạ Đức Phật, tôi nhớ lại chưa hề có lần nào phát khởi dục tâm.

Vì sao vậy?

Vì tôi thường hướng đến Thế Tôn và các vị đồng phạm hạnh với tâm niệm hổ thẹn. Nếu Tôn Giả A Nan nói như thế, thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn Giả A Nan.

Lại nữa, có một thời Đức Thế Tôn du hóa thành Vương Xá, trú trong Nham Sơn.

Bấy giờ Thế Tôn bảo rằng: Này A Nan, ngươi nên nằm như cách nằm của sư tử.

Tôn Giả A Nan bạch rằng: Bạch Thế Tôn, sư tử, chúa tể của loài thú, nằm theo cách nào?

Đức Thế Tôn đáp: Này A Nan, sư tử, chúa tể của loài thú, ban ngày đi tìm ăn, xong rồi vào hang. Khi muốn ngủ, bốn chân xếp chồng lên nhau, ngay đuôi ra sau, nằm bằng hông bên phải.

Qua đêm đến sáng hôm sau, quay lại sau nhìn thân thể. Nếu sư tử chúa tể của loài thú, mà thân thể không ngay thẳng, thì khi thấy rồi, nó không vui.

Nếu sư tử chúa tể của loài thú, mà thân thể được ngay ngắn khắp mọi phía, thì khi thấy rồi nó liền vui mừng.

Nó từ chỗ nằm đứng dậy, ở trong hang đi ra. Đi ra rồi gầm gừ. Gầm gừ rồi tự ngắm thân thể. Tự ngắm thân thể rồi nhìn khắp bốn hướng, xoay nhìn khắp bốn hướng rồi liền rống lên ba lần, rống ba lần rồi liền đi tìm ăn. Cách thức nằm của sư tử chúa là như vậy.

Tôn Giả A Nan bạch rằng: Bạch Thế Tôn, cách thức nằm của sư tử, chúa tể của loài thú, là như vậy.

Còn cách nằm của Tỳ Kheo phải như thế nào?

Đức Thế Tôn đáp rằng: Này A Nan, nếu Tỳ Kheo sống nơi thôn ấp, khi đêm đã qua, vào lúc sáng sớm, khoác y ôm bát, đi vào thôn khất thực, khéo hộ trì thân thể, nhiếp thủ các căn, trụ với chánh niệm.

Vị ấy từ thôn ấp khất thực xong, xếp y cất bát, rửa sạch tay chân, vắt Ni Sư Đàn lên vai đi đến chỗ rừng vắng, hoặc đến dưới bóng cây, hoặc vào trong nhà trống, hoặc kinh hành, hoặc Tọa Thiền, tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm.

Ban ngày hoặc kinh hành hoặc Tọa Thiền để tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm rồi. Lại vào đầu hôm hoặc kinh hành, hoặc Tọa Thiền, để tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm.

Sau khi hoặc kinh hành, hoặc Tọa Thiền để tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm vào lúc đầu hôm rồi, đến nữa đêm đi vào tĩnh thất để nằm, xếp làm tư Ưu Đa La Tăng trải lên giường, gấp y Tăng Già Lê làm gối, nằm xuống phía hông bên phải, hai chân xếp chồng lên nhau, buộc ý vào ấn tượng ánh sáng, chánh niệm, chánh trí, hằng hướng tâm niệm đến ý tưởng sẽ trỗi dậy.

Sau đêm ấy liền nhanh chóng ngồi dậy, hoăc kinh hành, hoặc Tọa Thiền, để tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm. Như thế là pháp nằm như sư tử của Tỳ Kheo.

Tôn Giả A Nan bạch rằng: Bạch Thế Tôn, cách nằm như sư tử của Tỳ Kheo là như vậy.

Tôn Giả A Nan lại nói như vậy: Này Chư Hiền, Đức Thế Tôn dạy tôi cách nằm giống như sư tử. Từ đó trở đi chưa hề có lần nào tôi nằm nghiêng về bên hông trái. Nếu Tôn Giả A Nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Lại nữa, có thời Đức Thế Tôn du hóa Câu Thi Na Kiệt, trụ trong rừng Sa La của Hòa Bạt Đan lực sĩ.

Bấy giờ là lúc tối hậu, Thế Tôn sắp nhập Bát Niết Bàn, Ngài bảo rằng: Này A Nan, ngươi hãy đi đến giữa hai cây Song Thọ, trải giường đầu quay về hướng Bắc, cho Như Lai. Nửa khuya đêm nay Như Lai sẽ Bát Niết Bàn.

Tôn Giả A Nan vâng lời dạy của Như Lai, liền đến giữa hai cây Song Thọ trải giường nằm, đầu quay về hướng Bắc cho Đức Như Lai.

Trải giường rồi trở về nơi Đức Phật, cúi đầu lễ chân Phật, đứng sang một bên, thưa rằng: Bạch Thế Tôn, con đã trải giường nằm, đầu quay hướng Bắc, cho Đức Như Lai, ở giữa hai cây Song Thọ. Kính mong Đức Thế Tôn tự nên biết thời.

Bấy giờ Đức Thế Tôn dẫn Tôn Giả A Nan đến giữa hai cây Song Thọ, xếp làm tư Ưu Đà La tăng trải lên giường, gấp y Tăng già lê làm gối, nằm về hướng hông bên phải, hai chân xếp chồng lên nhau.

Lúc tối hậu sắp Bát Niết Bàn, Tôn Giả A Nan quạt hầu Phật, đưa tay gạt nước mắt, rồi nghĩ như vậy: Trước kia, có chúng Tỳ Kheo ở các nơi muốn đến thăm viếng Đức Thế Tôn để cúng dường lễ bái, thì đều có thể tùy lúc mà được thăm viếng Đức Thế Tôn để lễ bái cúng dường.

Nếu họ nghe Đức Thế Tôn đã Bát Niết Bàn thì họ sẽ không còn đến để được thăm viếng Đức Thế Tôn mà cúng dường lễ bái. Ta cũng không còn tùy lúc mà thăm viếng Đức Thế Tôn để cúng dường lễ bái.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn hỏi các Tỳ Kheo rằng: Tỳ Kheo A Nan bây giờ ở đâu?

Lúc ấy các Tỳ Kheo bạch rằng: Bạch Thế Tôn, Tôn Giả A Nan đang cầm quạt hầu Phật, đưa tay gạt nước mắt rồi nghĩ thế này: Trước kia, có chúng Tỳ Kheo ở các nơi muốn đến thăm viếng Đức Thế Tôn để cúng dường lễ bái, thì đều có thể tùy lúc mà được thăm viếng Đức Thế Tôn để lễ bái cúng dường.

Nếu họ nghe Đức Thế Tôn đã Bát Niết Bàn thì họ sẽ không còn đến để được thăm viếng Đức Thế Tôn mà cúng dường lễ bái. Ta cũng không còn tùy lúc mà thăm viếng Đức Thế Tôn để cúng dường lễ bái.

Bấy giờ Thế Tôn bảo rằng: Này A Nan, ngươi chớ khóc lóc, cũng chớ buồn rầu.

Vì sao vậy?

Này A Nan, ngươi hầu hạ Ta, thân hành từ hòa, khẩu và ý hành từ hòa, chưa từng có hai lòng, an lạc vô lường, vô biên, vô hạn. Này A Nan, nếu các Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, trong đời quá khứ, có người thị giả nào hầu hạ cũng không thể hơn ngươi được.

Này A Nan, nếu các Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, trong đời vị lai, có người thị giả nào hầu hạ cũng không thể hơn ngươi được. Này A Nan, Ta, Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, trong đời hiện tại, nếu có người nào làm thị giả, cũng không thể hơn ngươi được.

Vì sao vậy?

A Nan khéo biết thời, khéo phân biệt được thời, biết lúc nào là thời nên đến gặp Như Lai, lúc nào không phải là thời đến gặp Như Lai.

Biết lúc nào là thời chúng Tỳ Kheo và chúng Tỳ Kheo Ni nên đến gặp Như Lai, lúc nào không phải là thời chúng Tỳ Kheo và chúng Tỳ Kheo Ni nên đến gặp Như Lai.

Biết lúc nào là thời chúng Ưu Bà Tắc và chúng Ưu Bà Di nên đến gặp Như Lai, lúc nào không phải là thời chúng Ưu Bà Tắc và chúng Ưu Bà Di nên đến gặp Như Lai.

Biết lúc nào các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học nên đến gặp Như Lai, biết lúc nào các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học không nên đến gặp Như Lai.

Biết lúc nào các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học không nên đến gặp Như Lai. Biết các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học nào có thể bàn luận với Như Lai.

Biết các hàng Sa Môn, Phạm Chí dị học nào không thể bàn luận với Như Lai. Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào Đức Như Lai dùng rồi sẽ an ổn, có lợi ích loại cứng hay loại mềm nào Đức Như Lai dùng rồi sẽ không được an ổn, có lợi ích. Thức ăn loại cứng hay loại mềm nào Đức Như Lai dùng rồi sẽ được biện tài thuyết pháp.

Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào Đức Như Lai dùng rồi sẽ không được biện tài thuyết pháp. 

Lại nữa, này A Nan, ngươi tuy không có tha tâm trí, nhưng có thể khéo biết trước được Đức Như Lai sẽ thuyết pháp cho ai khi Như Lai rời tĩnh tọa đứng dậy vào buổi xế, hôm nay Đức Như Lai sẽ làm như vậy, sẽ hiện pháp lạc trụ như vậy, nhận xét đúng lời Ngài nói, chắc thật không thể sai khác.

Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn làm cho A Nan vui vẻ, bảo với các thầy Tỳ Kheo ấy rằng: Vị Chuyển Luân Thánh Vương có bốn pháp vị tằng hữu.

Những gì là bốn?

Đó là chúng Sát Lợi đến yết kiến Chuyển Luân Vương, nếu lúc ấy im lặng, họ thấy vậy liền vui vẻ, nếu lúc ấy có nói gì, họ nghe rồi liền vui vẻ. Tỳ Kheo A Nan cũng giống như vậy, nghĩa là có bốn pháp vị tằng hữu.

Những gì là bốn?

Đó là chúng Tỳ Kheo khi đến gặp A Nan, nếu lúc ấy im lặng, thấy vậy liền vui vẻ, nếu lúc ấy có nói gì, họ nghe rồi liền hoan hỷ.

Chúng Tỳ Kheo Ni, chúng Ưu Bà Tắc, chúng Ưu Bà Di, nếu gặp A Nan, gặp lúc im lặng, thấy vậy liền hoan hỷ, nếu lúc ấy có nói gì, nghe rồi liền hoan hỷ.

Lại nữa, A Nan thuyết pháp cho đại chúng, có bốn pháp vị tằng hữu.

Những gì là bốn?

Tỳ Kheo thuyết pháp cho Chúng Tỳ Kheo bằng chí tâm, không phải không chí tâm.

Chúng Tỳ Kheo kia cũng nghĩ như vậy: Mong Tôn Giả A Nan thường thuyết pháp, không dừng lại nửa chừng. Chúng Tỳ Kheo kia nghe Tôn Giả A Nan thuyết pháp, hoàn toàn không chán nản. Nhưng Tỳ Kheo A Nan tự nhiên ngồi im lặng. Tỳ Kheo A Nan thuyết pháp cho chúng Tỳ Kheo Ni, chúng Ưu Bà Tắc, chúng Ưu Bà Di, bằng chí tâm, không phải không chí tâm.

Chúng Ưu Bà Di ấy cũng nghĩ như vậy: Mong Tôn Giả A Nan thường thuyết pháp, không dừng lại nửa chừng. Chúng Ưu Bà Di kia nghe Tôn Giả A Nan thuyết pháp, hoàn toàn không chán nản. Nhưng Tỳ Kheo A Nan tự nhiên ngồi im lặng.

Lại nữa, một thời sau khi Thế Tôn Bát Niết Bàn không bao lâu, Tôn Giả A Nan du hóa tại Kim Cang, trú ở thôn Kim Cang. Bấy giờ Tôn Giả A Nan thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh trước sau.

Bấy giờ, Tôn Giả Kim Cang Tử cũng đang ở trong đại chúng ấy.

Tôn Giả Kim Cang Tử trong tâm suy nghĩ như vậy: Tôn Giả A Nan này vẫn còn là bậc hữu học chưa ly dục sao?

Ta nên như vậy, và bằng định ấy mà quan sát tâm của Tôn Giả A Nan. Thế rồi Tôn Giả Kim Cang Tử nhập định, và bằng định như vậy mà quan sát tâm của Tôn Giả A Nan. Tôn Giả Kim Cang Tử biết Tôn Giả A Nan vẫn còn là hữu học nên chưa ly dục.

Bấy giờ Tôn Giả ra khỏi tam muội, hướng về Tôn Giả A Nan nói bài tụng rằng:

Núi rừng vắng tư duy,

Khiến tâm trụ Niết Bàn,

Cù Đàm Thiền không loạn,

Sẽ sớm chứng tịch tĩnh.

Bấy giờ Tôn Giả A Nan vâng theo lời của Tôn Giả Kim Cang Tử, rời bỏ chỗ đông mà sống một mình, tinh tấn, không tán loạn.

Tôn Giả rời bỏ chỗ đông, sống một mình, tinh tấn, không tán loạn, để đạt mục đích vì đó là một thiện nam tử đã cạo bỏ râu tóc, khoác áo Ca Sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo.

Chỉ vì mục đích là thành tựu phạm hạnh vô thượng, ngay trong đời hiện tại, tự tri tự giác, tự chứng nghiệm, thành tựu và an trụ, biết như thật rằng: Sự sanh đã đứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa. Tôn Giả A Nan biết pháp rồi, cho đến, chứng đắc A La Hán.

Tôn Giả A Nan nói vậy: Này Chư Hiền, tôi ngồi trên giường, ngả đầu chưa đụng gối, liền đoạn tất cả lậu, chứng tâm giải thoát. Nếu Tôn Giả A Nan nói như thế. Thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Tôn Giả A Nan lại nói: Này Chư Hiền, tôi sẽ ngồi kiết già để Bát Niết Bàn. Tôn Giả A Nan liền ngồi kiết già mà Bát Niết Bàn. Nếu Tôn Giả A Nan ngồi kiết già mà Bát Niết Bàn. Thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ Kheo A Nan.

Đức Phật thuyết như vậy. Các Tỳ Kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường