Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Một - Phẩm Bảy Pháp - Kinh Thất Xa

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM MỘT

PHẨM BẢY PHÁP  

KINH THẤT XA  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương Xá, trong Tinh Xá Trúc Lâm, cùng an cư mùa mưa với chúng Đại Tỳ Kheo.

Tôn Giả Mãn Từ Tử cũng an cư mùa mưa tại sinh quán mình. Lúc bấy giờ các Tỳ Kheo địa phương, sau khi đã trải qua ba tháng an cư mùa mưa, khâu vá lại các y đã xong, xếp y, cầm bát từ sinh quán đi về phía thành Vương Xá.

Lần lượt đi về phía trước, đến thành Vương Xá, trú ở Tinh Xá Trúc Lâm, tại thành Vương Xá. Bấy giờ các Tỳ Kheo địa phương tới trước Đức Thế Tôn, cúi đầu lễ bái rồi ngồi sang một bên.

Đức Thế Tôn hỏi rằng: Các Tỳ Kheo, các ngươi từ đâu đến đây?

An cư mùa mưa ở đâu?

Các Tỳ Kheo địa phương ấy thưa rằng: Bạch Thế Tôn, chúng con từ sinh quán tới đây và an cư mùa mưa tại sinh quán.

Thế Tôn hỏi: Trong các Tỳ Kheo địa phương, Tỳ Kheo nào được các Tỳ Kheo khen ngợi rằng: 

Tự mình thiểu dục, tri túc và khen ngợi thiểu dục, tri túc.

Tự mình nhàn cư và khen ngợi nhàn cư.

Tự mình tinh tấn và khen ngợi tinh tấn.

Tự mình chánh niệm và khen ngợi chánh niệm.

Tự mình nhất tâm và khen ngợi nhất tâm.

Tự mình có trí tuệ và khen ngợi trí tuệ.

Tự mình lậu tận và khen ngợi lậu tận.

Tự mình khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ và khen ngợi khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ chăng?

Các Tỳ Kheo địa phương bạch rằng:

Bạch Thế Tôn, Tôn Giả Mãn Từ Tử ở nơi sinh quán của mình, được các Tỳ Kheo khen ngợi rằng:

Tự mình thiểu dục, tri túc và khen ngợi thiểu dục tri túc.

Tự mình nhàn cư và khen ngợi nhàn cư.

Tự mình tinh tấn và khen ngợi tinh tấn.

Tự mình chánh niệm và khen ngợi chánh niệm.

Tự mình nhất tâm và khen ngợi nhất tâm.

Tự mình có trí tuệ và khen ngợi trí tuệ.

Tự mình lâu tận và khen ngợi lâu tận.

Tự mình khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ và khen ngợi khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ.

Lúc bấy giờ Tôn Giả Xá Lê Tử đang ngồi giữa đại chúng.

Tôn Giả Xá Lê Tử suy nghĩ như vậy: Thế Tôn theo sự thật mà hỏi các Tỳ Kheo địa phương kia. Các Tỳ Kheo địa phương vô cùng khen ngợi Hiền Giả Mãn Từ Tử, là người.

Tự mình thiểu dục, tri túc và khen ngợi thiểu dục, tri túc.

Tự mình nhàn cư và khen ngợi nhàn cư.

Tự mình tinh tấn và khen ngợi tinh tấn.

Tự mình chánh niệm và khen ngợi chánh niệm.

Tự mình nhất tâm và khen ngợi nhất tâm.

Tự mình có trí tuệ và khen ngợi trí tuệ.

Tự mình lậu tận và khen ngợi lậu tận.

Tự mình khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ và khen ngợi khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ.

Tôn Giả Xá Lê Tử lại suy nghĩ: Biết lúc nào tôi mới gặp Hiền Giả Mãn Từ Tử để hỏi một vài nghĩa lý?

Hiền Giả ấy hoặc có thể nghe và trả lời những điều tôi hỏi. Bấy giờ Đức Thế Tôn, sau khi trải qua ba tháng an cư mùa mưa ở thành Vương Xá, khâu vá y xong, Ngài xếp y, ôm bát, từ thành Vương Xá đi đến nước Xá Vệ, lần lượt tiến về phía trước, đến nước Xá Vệ, trú trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Tôn Giả Xá Lê Tử và các Tỳ Kheo địa phương cùng ở lại Vương Xá vài ngày, rồi xếp y, ôm bát, đi đến nước Xá Vệ, lần lượt tiến về phía trước, đến nước Xá Vệ, cùng ở tại rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Lúc bấy giờ Tôn Giả Mãn Từ Tử ở tại sinh quán mình, sau khi đã trải qua ba tháng an cư mùa mưa, đã khâu vá lại các y, rồi xếp y, ôm bát, từ quê quán mình đi đến nước Xá Vệ, lần lượt tiến về phía trước, đến nước Xá Vệ, cùng ở trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Tôn Giả Mãn Từ Tử đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu làm lễ, rồi trải Ni Sư Đàn phía trước Như Lai mà ngồi kiết già.

Bấy giờ Tôn Giả Xá Lê Tử hỏi các Tỳ Kheo rằng: Này Chư Hiền, vị nào là Hiền Giả Mãn Từ Tử?

Các Tỳ Kheo bạch Tôn Giả Xá Lê Tử: Xin thưa, vị ngồi trước Như Lai, trắng trẻo, mũi cao như mỏ chim Oanh Vũ, là vị ấy.

Tôn Giả Xá Lê Tử đã biết đúng mặt Mãn Từ Tử, liền ghi nhớ kỹ.

Tôn Giả Mãn Từ Tử sau khi qua đêm, Trời hừng sáng, xếp y, cầm bát, đi vào Xá Vệ để khất thực.

Sau khi ăn trưa xong lại, thâu dọn y bát, rửa tay chân, vắt Ni Sư Đàn lên vai, đến rừng An Đà, chỗ đi kinh hành.

Tôn Giả Xá Lê Tử cũng sau khi qua đêm, Trời hừng sáng, xếp y, cầm bát, đi vào Xá Vệ để khất thực. Sau khi ăn trưa xong lại, thâu dọn y bát, rửa tay chân, vắt Ni Sư Đàn lên vai, đến rừng An Đà, chỗ đi kinh hành.

Bấy giờ Tôn Giả Mãn Từ Tử đến rừng An Đà, trải Ni Sư Đàn dưới một gốc cây, ngồi kiết già. Tôn Giả Xá Lê Tử cũng đến rừng An Đà, cách Tôn Giả Mãn Từ Tử không xa, trải Ni Sư Đàn dưới một gốc cây ngồi kiết già.

Tôn Giả Xá Lê Tử vào lúc xế chiều, rời chỗ thiền tọa, đi đến chỗ Mãn Từ Tử, cùng chào hỏi nhau rồi ngồi sang một bên, và hỏi Tôn Giả Mãn Từ Tử rằng: Này Hiền Giả, phải chăng Hiền Giả theo Sa Môn Cù Đàm tu phạm hạnh?

Đáp rằng: Đúng vậy!

Này Hiền Giả, vì lý do gì, có phải vì giới thanh tịnh nên Ngài theo Sa Môn Cù Đàm tu phạm hạnh chăng?

Đáp rằng: Thưa, không phải vậy!

Vì tâm thanh tịnh, vì kiến thanh tịnh, vì nghi thanh tịnh, vì phi đạo tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích đoạn trí thanh tịnh nên Hiền Giả theo Sa Môn Cù Đàm tu phạm hạnh chăng?

Đáp: Không phải vậy!

Lại hỏi: Tôi vừa hỏi Hiền Giả rằng: Phải chăng Hiền Giả theo Sa Môn Cù Đàm tu phạm hạnh?

Hiền Giả đáp: Đúng vậy.

Rồi tôi hỏi Hiền Giả: Có phải vì giới thanh tịnh nên Hiền Giả theo Sa Môn Cù Đàm tu phạm hạnh chăng?

Thì Hiền Giả đáp: Không phải vậy.

Có phải vì tâm thanh tịnh, vì kiến thanh tịnh, vì nghi thanh tịnh, vì phi đạo tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích đoạn trí thanh tịnh nên Hiền Giả theo Sa Môn Cù Đàm tu phạm hạnh chăng?

Thì Hiền Giả cũng lại đáp rằng: Không phải vậy.

Nhưng theo ý nghĩa nào mà Hiền Giả theo Sa Môn Cù Đàm tu phạm hạnh?

Đáp: Này Hiền Giả, vì Vô Dư Niết Bàn vậy.

Lại hỏi: Thế nào, này Hiền Giả, có phải vì giới thanh tịnh nên Sa Môn Cù Đàm thi thiết Vô Dư Niết Bàn chăng?

Đáp: Không phải vậy.

Lại hỏi: Vì vì tâm thanh tịnh, vì kiến thanh tịnh, vì nghi thanh tịnh, vì đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích đoạn trí thanh tịnh nên Hiền Giả theo Sa Môn Cù Đàm thi thiết Vô Dư Niết Bàn  chăng?

Đáp: Không phải vậy.

Lại hỏi: Tôi vừa hỏi Hiền Giả, Thế nào, này Hiền Giả, có phải vì giới thanh tịnh nên Sa Môn Cù Đàm thi thiết Vô Dư Niết Bàn chăng?

Hiền Giả đáp: Không phải vậy.

Vì tâm thanh tịnh, vì kiến thanh tịnh, vì nghi thanh tịnh, vì đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích đoạn trí thanh tịnh nên Sa Môn Cù Đàm thi thiết Vô Dư Niết Bàn chăng?

Vậy những điều Hiền Giả nói có ý nghĩa gì?

Làm thế nào để biết được?

Đáp rằng: Này Hiền Giả: Nếu vì giới thanh tịnh mà Thế Tôn, Sa Môn Cù Đàm thi thiết Vô Dư Niết Bàn, thì đó là lấy hữu dư mà gọi vô dư.

Nếu vì tâm thanh tịnh, vì tri kiến thanh tịnh, vì nghi cái thanh tịnh, vì đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích đoạn trí thanh tịnh mà Đức Thế Tôn Sa Môn Cù Đàm thi thiết Vô Dư Niết Bàn, thì tức là lấy hữu dư mà gọi là vô dư.

Này Hiền Giả, nếu lìa pháp đó mà Đức Thế Tôn thi thiết Vô Dư Niết Bàn thì phàm phu cũng sẽ Bát Niết Bàn, bởi vì phàm phu cũng lìa pháp đó.

Này Hiền Giả, nhưng vì giới thanh tịnh, nên tâm thanh tịnh.

Vì tâm thanh tịnh nên kiến thanh tịnh.

Vì kiến thanh tịnh nên nghi cái thanh tịnh.

Vì nghi cái thanh tịnh nên đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh.

Vì đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh nên đạo tích tri kiến thanh tịnh.

Vì đạo tích tri kiến thanh tịnh nên đạo tích đoạn trí thanh tịnh, nên Đức Thế Tôn Sa Môn Cù Đàm thi thiết Vô Dư Niết Bàn.

Hiền Giả, xin hãy nghe thêm. Xưa, vua xứ Câu Tát La là Ba Tư Nặc ở nước Xá Vệ, có việc ở Sa Kê Đế.

Nhà Vua suy nghĩ như vậy: Dùng phương tiện gì để trong một ngày đi từ Xá Vệ đến Sa Kê Đế được?

Lại suy nghĩ như vậy: Nay ta nên từ Xá Vệ đến Sa Kê Đế, ở giữa đường đó, bố trí bảy cỗ xe. Rồi thì, từ Xá Vệ đến Sa Kê Đế, ở giữa đường đó, Vua bố trí bảy cỗ xe.

Bố trí bảy cỗ xe xong, từ Xá Vệ Nhà Vua đi đến cỗ xe thứ nhất, ngồi trên cỗ xe thứ nhất đi đến cỗ xe thứ hai.

Rồi bỏ cỗ xe thứ nhất cỡi cỗ xe thứ hai đến xe thứ ba.

Bỏ cỗ xe thứ hai ngồi trên cỗ xe thứ ba đến cỗ xe thứ tư.

Bỏ cỗ xe thứ ba ngồi trên cỗ xe thứ tư đến cỗ xe thứ năm.

Bỏ cỗ xe thứ tư ngồi trên cỗ xe thứ năm đến cỗ xe thứ sáu.

Bỏ cỗ xe thứ năm ngồi trên cỗ xe thứ sáu đến cỗ xe thứ bảy.

Bỏ cỗ xe thứ sáu ngồi trên cỗ xe thứ bảy.

Trong một ngày là đến Sa Kê Đế.

Sau khi làm việc xong ở Sa Kê Đế, ngồi trong chánh điện của Nhà Vua, với các Đại Thần vây quanh.

Quần Thần tâu rằng: Tâu Thiên Vương, phải chăng chỉ trong một ngày mà Thiên Vương đi từ Xá Vệ đến Sa Kê Đế?

Vua nói: Đúng vậy.

Tâu Thiên Vương, có phải Thiên Vương cỡi cỗ xe thứ nhất mà trong một ngày đi từ Xá Vệ đến Sa Kê Đế?

Vua nói: Không phải vậy.

Có phải Ngài cỡi cỗ xe thứ hai, cỗ xe thứ ba cho đến cỗ xe thứ bảy từ Xá Vệ đến Sa Kê Đế?

Không phải vậy.

Thế nào, này Hiền Giả, nếu quần thần lại hỏi nữa, Ba Tư Nặc Quốc Vương xứ Câu Tát La sẽ đáp thế nào?

Có phải vua trả lời cho quần thần rằng:

Ta ở Xá Vệ có việc ở Sa Kê Đế, ta nghĩ thế này: Dùng phương tiện gì để trong một ngày đi từ Xá Vệ đến Sa Kê Đế được?

Lại suy nghĩ như vậy: Nay ta nên từ Xá Vệ đến Sa Kê Đế, ở giữa đường đó, bố trí bảy cỗ xe. Rồi thì, từ Xá Vệ đến Sa Kê Đế, ở giữa đường đó, ta bố trí bảy cỗ xe.

Bố trí bảy cỗ xe xong, từ Xá Vệ ta đi đến cỗ xe thứ nhất, ngồi trên cỗ xe thứ nhất đi đến cỗ xe thứ hai. Rồi bỏ cỗ xe thứ nhất cỡi cỗ xe thứ hai đến cỗ xe thứ ba.

Bỏ cỗ xe thứ hai ngồi trên cỗ xe thứ ba đến cỗ xe thứ tư.

Bỏ cỗ xe thứ ba ngồi trên cỗ xe thứ tư đến cỗ xe thứ năm.

Bỏ cỗ xe thứ tư ngồi trên cỗ xe thứ năm đến cỗ xe thứ sáu.

Bỏ cỗ xe thứ năm ngồi trên cỗ xe thứ sáu đến cỗ xe thứ bảy.

Bỏ cỗ xe thứ sáu ngồi trên cỗ xe thứ bảy.

Trong một ngày là đến Sa Kê Đế.

Như vậy!

Thưa Hiền Giả, Ba Tư Nặc, Vua xứ Câu Tát La, trả lời câu hỏi của Quần Thần như vậy.

Cũng vậy, thưa Hiền Giả, vì giới thanh tịnh mà tâm thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh nên tri kiến thanh tịnh, vì tri kiến thanh tịnh nên nghi cái thanh tịnh, vì nghi cái thanh tịnh.

Nên đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, vì đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh nên đạo tri kiến thanh tịnh, vì đạo tích tri kiến thanh tịnh nên đạo tích đoạn trí thanh tịnh, vì đạo tích đoạn trí thanh tịnh nên Thế Tôn thi thiết Vô Dư Niết Bàn.

Bấy giờ Tôn Giả Xá Lê Tử hỏi Tôn Giả Mãn Từ Tử: Hiền Giả tên là gì?

Các vị phạm hạnh gọi Hiền Giả như thế nào?

Tôn Giả Mãn Từ Tử trả lời rằng: Hiền Giả, tôi hiệu là Mãn. Thân mẫu tôi tên Từ, do đó các vị phạm hạnh gọi tôi là Mãn Từ Tử.

Tôn Giả Xá Lê Tử tán thán rằng: Lành thay!Lành thay!

Tôn Giả Mãn Từ Tử! Là đệ tử của Đức Như Lai, trí biện hoàn hảo, thông minh, quyết định, an lạc vô úy, thành tựu sự chế ngự, đạt đến đại biện tài, được phướn Cam Lồ, ở trong Cam Lồ giới tự mình đã chứng ngộ, thành tựu và an trụ.

Vì khi hỏi Hiền Giả những ý nghĩa vô cùng sâu xa thảy đều được trả lời. Hiền Giả Mãn Từ Tử, những người phạm hạnh sẽ được nhiều lợi ích, nếu gặp được Tôn Giả Mãn Từ Tử, tùy thời mà thăm viếng, tùy thời mà lễ bái.

Nay tôi cũng được lợi ích, tùy thời mà thăm viếng, tùy thời mà lễ bái. Những người phạm hạnh nên quấn y trên đầu để đội Hiền Giả Mãn Từ Tử, vì để được nhiều lợi ích. Nay tôi cũng được nhiều lợi ích, tùy thời mà thăm viếng, tùy thời mà lễ bái.

Tôn Giả Mãn Từ Tử hỏi Tôn Giả Xá Lê Tử: Hiền Giả tên gọi là gì?

Các vị phạm hạnh gọi Hiền Giả như thế nào?

Tôn Giả Xá Lê Tử trả lời rằng: Tôi tự là Ưu Ba Đề Xá. Thân mẫu tôi là Xá Lê, nên những người phạm hạnh gọi tôi là Xá Lê Tử.

Hiền Giả Mãn Từ Tử tán thán rằng: Hôm nay tôi đã bàn luận với vị đệ tử ngang hàng Đức Thế Tôn mà không biết, cùng với bậc Đệ Nhị Tôn luận bàn mà không biết, cùng với bậc Đệ Nhị Tôn luận bàn mà không biết, cùng luận bàn với vị đệ tử tiếp tục vận chuyển pháp luân đã được vận chuyển mà không biết.

Nếu tôi biết Ngài là Xá Lê Tử thì tôi đã không trả lời nổi một câu, huống chi lại luận bàn sâu xa như thế.

Lành thay! Lành thay! Tôn Giả Xá Lê Tử, là đệ tử của Đức Như Lai, trí biện hoàn hảo, thông minh, quyết định, an lạc vô úy, thành tựu sự chế ngự, đạt đến đại biện tài, được phướn Cam Lồ, ở trong Cam Lồ giới tự mình đã chứng ngộ, thành tựu và an trụ.

Vì Hiền Giả đã hỏi những ý nghĩa vô cùng sâu xa. Hiền Giả Xá Lê Tử, những người phạm hạnh sẽ được nhiều lợi ích, nếu gặp được Tôn Giả Xá Lê Tử, tùy thời mà thăm viếng, tùy thời mà lễ bái. Nay tôi cũng được lợi ích, tùy thời mà thăm viếng, tùy thời mà lễ bái.

Những người phạm hạnh nên quấn y trên đầu để đội Hiền Giả Xá Lê Tử, vì để được nhiều lợi ích. Nay tôi cũng được nhiều lợi ích, tùy thời mà thăm viếng, tùy thời mà lễ bái. Hai vị Hiền Giả khen ngợi nhau như vậy.

Cùng khen ngợi nhau như vậy rồi, hoan hỷ phụng hành, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trở về chỗ nghỉ của mình.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường