Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Sáu - Phẩm đại - Kinh A Thấp Bối

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM MƯỜI SÁU

PHẨM ĐẠI  

KINH A THẤP BỐI  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật du hóa tại nước Ca Thi cùng với Đại Chúng Tỳ Kheo.

Trong lúc dừng chân tại một nơi, Đức Phật nói với các Tỳ Kheo rằng: Ta một ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi vô cầu, không bệnh không đau, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các ngươi cũng nên một ngày chỉ ăn một lần.

Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không bệnh không đau, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn vì Chúng Tỳ Kheo mà thi thiết giới, một ngày chỉ ăn một lần. Các Tỳ Kheo đều phụng trì theo học giới này và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.

Rồi Thế Tôn lần hồi đi đến Ca La Lại, trụ trong rừng Thi Nhiếp Hòa ở phía Bắc thôn Ca La Lại. Lúc bấy giờ tại Ca La Lại, có hai vị Tỳ Kheo, một vị tên là A Thấp Bối, một vị tên là Phất Na Bà Tu. Hai vị này là cựu chủ đất, chủ Chùa, tông chủ. Hai vị này sáng cũng ăn, chiều cũng ăn, tối cũng ăn, quá ngọ cũng ăn.

Vì sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ cũng ăn, mà vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.

Một số đông Tỳ Kheo nghe vậy, liền đến chỗ hai vị Tỳ Kheo A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu mà nói hai vị rằng: Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, Đức Thế Tôn du hóa tại nước Ca Thi cùng với Chúng Đại Tỳ Kheo, trong lúc dừng chân tại một nơi, bảo các Tỳ Kheo rằng, ta một ngày chỉ ăn một lần.

Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.

Các ngươi cũng nên một ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có tật bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thi thiết giới này cho Chúng Tỳ Kheo, đó là một ngày chỉ ăn một lần. Các Tỳ Kheo đều phụng trì theo học giới này cùng các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.

Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, các thầy cũng nên ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các thầy chớ trái nghịch với Đức Thế Tôn và Chúng Tỳ Kheo.

A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu nghe vậy liền nói: Này Chư Hiền, chúng tôi sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ ăn. Vì sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ ăn, xong rồi, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Chúng tôi vì duyên do gì mà bỏ hiện tại để phải chờ đợi về sau. Hai vị ấy nói như thế ba lần.

Chúng Tỳ Kheo không thể làm cho A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu trừ bỏ ác tà kiến, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi, đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi ngồi sang một bên thưa rằng: Bạch Thế Tôn, ở Ca La Lại này có hai vị Tỳ Kheo, một vị tên là A Thấp Bối, một vị tên là Phất Na Bà Tu. Hai vị này là cựu chủ đất, chủ Chùa, tông chủ. Hai vị này sáng cũng ăn, chiều cũng ăn, tối cũng ăn, quá ngọ cũng ăn.

Vì sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ cũng ăn, mà vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.

Bạch Thế Tôn, chúng con nghe như vậy liền đến chỗ cho A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu mà nói thế này, Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, Đức Thế Tôn du hóa tại nước Ca Thi cùng với Chúng Đại Tỳ Kheo, trong lúc dừng chân tại một nơi, bảo các Tỳ Kheo rằng, ta một ngày chỉ ăn một lần.

Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các ngươi cũng nên một ngày chỉ ăn một lần.

Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có tật bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Bấy giờ Đức Thế Tôn thi thiết giới này cho Chúng Tỳ Kheo, đó là một ngày chỉ ăn một lần. Các Tỳ Kheo đều phụng trì theo học giới này cùng các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.

Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, các thầy cũng nên ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các thầy chớ trái nghịch với Đức Thế Tôn và Chúng Tỳ Kheo.

A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu nghe vậy liền trả lời chúng con như vậy, này Chư Hiền, chúng tôi sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ ăn.

Vì sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ ăn, xong rồi, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.

Chúng tôi vì duyên do gì mà bỏ hiện tại để phải chờ đợi về sau?

Như vậy ba lần!

Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con không thể làm cho A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu trừ bỏ ác tà kiến này, nên chúng con từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi.

Đức Thế Tôn nghe xong liền bảo một vị Tỳ Kheo:

Ngươi đến chỗ A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu mà nói như thế này: Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, Đức Thế Tôn gọi các thầy.

Vị Tỳ Kheo nghe rồi liền đáp: Kính vâng, bạch Thế Tôn!

Rồi từ chỗ ngồi đứng dậy cúi đầu lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi ra đi.

Tỳ Kheo ấy đến chỗ hai vị Tỳ Kheo A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu nói rằng: Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, Thế Tôn gọi hai thầy đó.  A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu nghe vậy liền đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi ngồi sang một bên.

Đức Thế Tôn hỏi:

Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, Chúng Tỳ Kheo thật có nói với các ngươi như vậy: Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, Đức Thế Tôn du hóa tại nước Ca Thi cùng với Chúng Đại Tỳ Kheo, trong lúc dừng chân tại một nơi, bảo các Tỳ Kheo rằng, ta một ngày chỉ ăn một lần.

Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.

Các ngươi cũng nên một ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có tật bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thi thiết giới này cho Chúng Tỳ Kheo, đó là một ngày chỉ ăn một lần.

Các Tỳ Kheo đều phụng trì theo học giới này cùng các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, các thầy cũng nên ngày chỉ ăn một lần.

Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các thầy chớ trái nghịch với Đức Thế Tôn và Chúng Tỳ Kheo.

Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, các ngươi nghe rồi lại nói với Chúng Tỳ Kheo rằng, Này Chư Hiền, chúng tôi sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ ăn.

Vì sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ ăn, xong rồi, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.

Chúng tôi vì duyên do gì mà bỏ hiện tại để phải chờ đợi về sau?

Hai ngươi nói như vậy ba lần.

Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, rồi Chúng Tỳ Kheo không thể làm cho hai ngươi trừ bỏ ác tà kiến, nên từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi, thật có vậy không?

A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, thưa rằng: Bạch Thế Tôn, thật có như vậy.

Thế Tôn dạy nói:

Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, các ngươi có hiểu biết pháp ta nói như vậy: Nếu ai có cảm thọ về cảm thọ lạc, và khi người ấy cảm thọ về cảm thọ lạc rồi, thì các pháp ác bất thiện tăng trưởng, các pháp thiện lại giảm?

Nếu ai cảm thọ về cảm thọ khổ, và khi cảm thọ về cảm thọ khổ rồi, pháp ác bất thiện giảm và các thiện pháp sanh trưởng?

A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, thưa rằng: Quả vậy, bạch Thế Tôn! Chúng con biết Đức Thế Tôn nói pháp như vậy, nếu ai có cảm thọ về cảm thọ lạc, và khi đã cảm thọ về cảm thọ lạc rồi, pháp ác bất thiện tăng trưởng và thiện pháp tổn giảm.

Nếu ai cảm thọ về cảm thọ khổ, và khi đã cảm thọ về cảm thọ khổ rồi thì pháp ác bất thiện giảm và pháp thiện tăng trưởng.

Đức Thế Tôn quở trách A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu rằng: Các ngươi là người ngu.

Do đâu mà các ngươi biết ta nói pháp như vậy?

Các ngươi là người ngu.

Từ miệng ai mà các ngươi biết ta nói pháp như vậy?

Các ngươi là người ngu. ta không nói một chiều, mà các ngươi lại thọ trì một chiều. Các ngươi là người ngu. Khi nào được các Tỳ Kheo hỏi, các ngươi phải đáp đúng như pháp rằng, chúng tôi chưa biết, sẽ hỏi lại các Tỳ Kheo.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Các ngươi cũng có hiểu biết pháp ta nói như vậy, nếu ai cảm thọ về cảm thọ lạc, và khi đã cảm thọ về cảm thọ lạc rồi, pháp bất thiện tăng trưởng và pháp thiện tổn giảm.

Nếu ai có cảm thọ khổ, và khi đã cảm thọ về cảm thọ khổ rồi, pháp bất thiện tổn giảm và pháp thiện tăng trưởng?

Các Tỳ Kheo đáp: Bạch Thế Tôn, không phải vậy!

Đức Thế Tôn lại hỏi: Các ngươi biết pháp ta nói như thế nào?

Chúng Tỳ Kheo đáp: Bạch Thế Tôn, chúng con hiểu biết pháp Đức Thế Tôn nói như vậy, hoặc có cảm thọ về cảm thọ lạc thì ác pháp, bất thiện pháp tăng trưởng, pháp thiện lại giảm. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ lạc, mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện lại tăng trưởng.

Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ, nên pháp ác bất thiện lại tăng trưởng, pháp thiện lại tổn giảm. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ nên pháp ác bất thiện tổn giảm và pháp thiện tăng trưởng.

Bạch Thế Tôn, chúng con hiểu biết Đức Thế Tôn nói pháp như vậy.

Đức Thế Tôn nghe nói thế, tán thán các Tỳ Kheo rằng: Lành thay! Lành thay! Nếu các ngươi biết như vậy, hoặc có cảm thọ về cảm thọ lạc, nên pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện tổn giảm. 

Hoặc có cảm thọ về cảm thọ lạc, nên pháp ác, bất thiện tổn giảm, thiện pháp tăng trưởng. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ, nên pháp ác bất thiện tăng trưởng, thiện pháp bị tổn giảm. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ nên pháp ác, bất thiện tổn giảm, pháp thiện tăng trưởng.

Vì sao?

Ta cũng nói như vậy, hoặc có cảm thọ về cảm thọ lạc, nên pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện tổn giảm. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ lạc, nên pháp ác bất thiện tổn giảm, pháp thiện tăng trưởng.

Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ nên pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện tổn giảm. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ nên pháp ác, bất thiện tổn giảm, pháp thiện tăng trưởng.

Nếu ta không biết đúng như thật, không thấy, không hiểu rõ, không chứng đắc, không giác ngộ cứu cánh. Thì hoặc có cảm thọ lạc mà pháp ác bất thiện giảm, pháp thiện tăng trưởng, ta không nên nói đoạn trừ cảm thọ lạc.

Nếu ta không biết như thật, không thấy, không hiểu rõ, không chứng đắc, không chứng ngộ cứu cánh.

Thì hoặc có cảm thọ khổ mà pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm, ta không nên nói tu tập cảm thọ lạc.

Nếu ta không biết như thật, không thấy, không hiểu rõ, không chứng đắc, không giác ngộ cứu cánh. Thì hoặc có cảm thọ khổ mà pháp bất thiện lại tăng, thiện pháp tăng giảm, ta không nên nói đoạn trừ cảm thọ khổ.

Nếu ta không biết như thật, không thấy, không hiểu rõ, không chứng đắc, không giác ngộ cứu cánh. Thì hoặc có cảm thọ khổ mà pháp bất thiện lại giảm, thiện pháp tăng tăng, ta không nên nói tu cảm thọ khổ.

Nếu ta biết đúng như thật, thấy rõ, hiểu rõ, chứng đắc, giác ngộ cứu cánh. Thì hoặc có cảm thọ lạc, mà pháp ác bất thiện lại tăng, pháp thiện lại giảm, cho nên ta nói đoạn trừ cảm thọ lạc.

Nếu ta biết đúng như thật, thấy rõ, hiểu rõ, chứng đắc, giác ngộ cứu cánh. Thì hoặc có cảm thọ lạc mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện lại tăng trưởng, cho nên ta nói tu cảm thọ lạc.

Nếu ta biết đúng như thật, thấy rõ, hiểu rõ, chứng đắc, giác ngộ cứu cánh. Thì hoặc có cảm thọ khổ, mà pháp ác bất thiện lại tăng, pháp thiện lại giảm, cho nên ta nói đoạn trừ cảm thọ khổ.

Nếu ta biết đúng như thật, thấy rõ, hiểu rõ, chứng đắc, giác ngộ cứu cánh. Thì hoặc có cảm thọ khổ mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện lại tăng trưởng, cho nên ta nói tu cảm thọ khổ.

Vì sao?

Ta không nói tu tập tất cả thân lạc, cũng không nói không nên tu tập tất cả thân lạc.

Ta không nói tu tập tất cả thân khổ, cũng không nói không nên tu tập tất cả thân khổ.

Ta không nói tu tập tất cả tâm lạc, cũng không nói không nên tu tập tất cả về tâm lạc.

Ta không nói tu tập tất cả tâm khổ, cũng không nói không nên tu tập tất cả tâm khổ.

Thế nào là thân lạc mà ta nói là không tu?

Nếu tu thân lạc mà pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm, thì thân lạc như vậy ta nói không tu.

Thế nào là thân lạc mà ta nói tu?

Nếu tu thân lạc mà pháp ác bất thiện giảm, thiện pháp tăng trưởng, thân lạc như vậy ta nói tu.

Thế nào là thân khổ mà ta nói không tu?

Nếu tu thân khổ mà pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm, thân khổ như vậy, ta nói không tu.

Thế nào là thân khổ mà ta nói tu?

Nếu tu thân khổ mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện tăng trưởng. Thân khổ như vậy, ta nói tu.

Thế nào là tâm lạc ta nói không tu?

Nếu tu tâm lạc mà các pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm. Tâm lạc như vậy, ta nói không tu.

Thế nào là tâm lạc ta nói phải tu?

Nếu tu tâm lạc mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện tăng trưởng. Tâm lạc như vậy ta nói tu.

Thế nào là tâm khổ mà ta nói không tu?

Nếu tu tâm khổ mà các pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm. Tâm khổ như vậy ta nói không tu.

Thế nào là tâm khổ mà ta nói tu?

Nếu tu tâm khổ mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện tăng trưởng, tâm khổ như vậy, ta nói tu.

Người kia đối với pháp nên tu mà biết đúng như thật, đối với pháp không nên tu cũng biết đúng như thật.

Và khi đã biết đúng như thật về pháp nên tu và pháp không nên tu, người ấy liền không tu pháp không nên tu, và tu pháp nên tu. Sau khi đã không tu pháp không nên tu, và tu pháp nên tu rồi, pháp ác bất thiện liền giảm, pháp thiện tăng trưởng.

Ta không nói tất cả Tỳ Kheo đều thực hành sự không phóng dật, cũng không nói tất cả các Tỳ Kheo đều không thực hành sự không phóng dật.

Thế nào là Tỳ Kheo không thực hành sự không phóng dật?

Nếu có vị Tỳ Kheo nào chứng câu giải thoát thế nào là Tỳ Kheo có câu giải thoát?

Nếu có Tỳ Kheo đối với tám giải thoát, thân đã chứng, thành tựu an trụ, do tuệ kiến. Mà các lậu đã diệt tận, đã biết rõ. Như vậy là Tỳ Kheo có câu giải thoát.

Vị Tỳ Kheo này ta nói thực hành sự không phóng dật. Nếu Hiền Giả này vốn có phóng dật thì điều ấy không bao giờ có. Vì vậy, ta nói vị Tỳ Kheo này không thực hành sự không phóng dật. Hoặc có Tỳ Kheo không phải câu giải thoát mà có tuệ giải thoát.

Thế nào là Tỳ Kheo có tuệ giải thoát?

Nếu có Tỳ Kheo đối với tám giải thoát mà thân không chứng, thành tựu an trú, nhưng do tuệ kiến mà các lậu đã diệt tận, đã biết rõ. Như vậy là Tỳ Kheo có tuệ giải thoát. Vị Tỳ Kheo này ta nói không thành tựu sự không phóng dật.

Vì sao?

Vì Hiền Giả này vốn đã thành tựu sự không phóng dật. Nếu Hiền Giả này vốn có phóng dật thì điều ấy không bao giờ có. Vì vậy ta nói vị Tỳ Kheo này không thành tựu sự không phóng dật. Hai hạng Tỳ Kheo này ta nói không thành tựu sự không phóng dật.

Này các Tỳ Kheo, tại sao ta nói thành tựu sự không phóng dật?

Hoặc có Tỳ Kheo không có câu giải thoát, cũng không có tuệ giải thoát mà có thân chứng.

Thế nào là Tỳ Kheo có thân chứng?

Nếu có Tỳ Kheo đối với tám giải thoát, thân đã chứng, thành tựu an trụ, không do tuệ kiến mà các lậu đã diệt tận, đã biết rõ.

Như vậy là Tỳ Kheo có thân chứng. Tỳ Kheo này ta nói thực hành sự không phóng dật. Ta thấy vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật.

Vì có quả gì khiến ta nói Tỳ Kheo ấy hành không phóng dật?

Ở đây, vị Tỳ Kheo này tìm cách chế ngự các căn, học tập theo thiện tri thức, sống tùy thuận an trú các lậu đã diệt tận, đắc được vô lậu, giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại, tự tri, tự giác, tự tác chứng thành tựu và an trú, biết như thật rằng sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.

Vì ta thấy vị Tỳ Kheo này không phóng dật, có được quả như thế, cho nên ta nói vị Tỳ Kheo này thực hành sự không phóng dật.

Hoặc có vị Tỳ Kheo không phải câu giải thoát, không phải tuệ giải thoát, cũng không phải thân chứng, nhưng lại kiến đáo thế nào là Tỳ Kheo có kiến đáo?

Nếu Tỳ Kheo nào có lòng tin dứt khoát đối với Phật, pháp, Tăng, tùy thuộc pháp được nghe, rồi do tuệ mà có tăng thượng quán và tăng thượng nhẫn. Như thế, vị Tỳ Kheo này có kiến đáo. Vị Tỳ Kheo này ta nói không phóng dật.

Vì có quả gì khiến ta nói vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật?

nếu có Tỳ Kheo nào tìm cách chế ngự các căn, học tập các vị thiện tri thức, sống tùy thuận an trú, các lậu đã tận diệt, được vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại, tự tri tự giác, tự chứng, thành tựu và an trụ, biết một cách như thật rằng sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.

Vì ta thấy vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật có quả như vậy. Cho nên ta nói vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật.

Nếu Tỳ Kheo nào không phải câu giải thoát, không phải tuệ giải thoát, cũng không phải thân chứng, cũng không phải kiến đáo, nhưng lại có tín giải thoát.

Thế nào là Tỳ Kheo có tín giải thoát?

Nếu Tỳ Kheo nào có lòng tin dứt khoát đối với Phật, Pháp, Tăng, tùy theo pháp được nghe, rồi do tuệ mà có quán và nhẫn nhận, không bằng kiến đáo. Như vậy là vị Tỳ Kheo này có tín giải thoát. Vị Tỳ Kheo này ta nói hành không phóng dật.

Ta thấy vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật, vì có quả gì, khiến ta nói vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật?

nếu có vị Tỳ Kheo nào tìm cách chế ngự được các căn, học tập theo các vị thiện tri thức, sống tùy thuận an trú, các lậu đã diệt tận, được vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

Ngay trong hiện tại, tự tri, tự giác, tự tác chứng thành tựu và an trụ, biết một cách như thật rằng sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.

Vì ta thấy vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật, vì có quả như vậy, cho nên ta nói vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật.

Nếu có vị Tỳ Kheo nào không có câu giải thoát, không có tuệ giải thoát, không có thân chứng, không có kiến đáo cũng không có tín giải thoát, nhưng có pháp hành.

Thế nào là Tỳ Kheo có pháp hành?

Nếu Tỳ Kheo nào có lòng tin tuyệt đối với Phật, Pháp, Tăng, tùy theo pháp được nghe, rồi do tuệ mà có tăng thượng quán, tăng thượng nhẫn. Như vậy, Tỳ Kheo này có pháp hành. Vị Tỳ Kheo này ta nói hành không phóng dật.

Ta thấy vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật, vì có quả gì khiến ta nói vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật?

Nếu có Tỳ Kheo nào tìm cách chế ngự các căn, học tập theo thiện tri thức, sống tùy thuận an trú, đối với trong hai quả chắc chắn sẽ đạt được một. Hoặc ngay trong hiện tại được cứu cánh trí, nếu còn hữu dư được A Na Hàm.

Vì ta thấy vị này hành không phóng dật, có quả như vậy. Cho nên ta nói vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật.

Nếu có Tỳ Kheo nào không có câu giải thoát, không có tuệ giải thoát, không có thân chứng, không có kiến đáo, không có tín giải thoát, không có pháp hành, nhưng lại có tín hành.

Thế nào là Tỳ Kheo có tín hành?

Nếu vị Tỳ Kheo nào có lòng tin dứt khoát đối với Phật, Pháp, Tăng, tùy theo pháp được nghe, rồi do tuệ mà quán và nhẫn, không như pháp hành. Như vậy, Tỳ Kheo này có tín hành. Vị Tỳ Kheo này ta nói hành không phóng dật.

Ta thấy vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật, vì quả gì khiến ta nói vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật?

Nếu có vị Tỳ Kheo nào tìm cách chế ngự các căn, học tập theo thiện tri thức, sống tùy thuận an trú, đối với trong hai quả chắc chắn sẽ đạt được một, hoặc ngay trong hiện tại được cứu cánh trí, nếu còn hữu dư, đắc A Na Hàm.

Vì ta thấy vị Tỳ Kheo này hành không phóng dật. Các vị Tỳ Kheo này ta nói hành không phóng dật.

Ta không nói tất cả Tỳ Kheo được cứu cánh trí, cũng không nói tất cả các Tỳ Kheo ngay từ đầu được cứu cánh trí, song dần dần học tập và thực hành, nhận lãnh giáo huấn, chịu khiển trách, sau đó các Tỳ Kheo mới được cứu cánh trí, cứu cánh trí mà các Tỳ Kheo chứng đắc này.

Thế nào là dần dần học tập và thực hành, nhận lãnh giáo huấn và khiển trách, sau đó các Tỳ Kheo mới được cứu cánh trí, cứu cánh trí mà các Tỳ Kheo chứng đắc này?

Nếu có tín giả nào liền tìm đến. Tìm đến rồi liền phụng sự. Phụng sự rồi liền nhất tâm nghe pháp. Nhất tâm nghe pháp rồi liền thọ trì pháp. Thọ trì pháp rồi liền tư duy về pháp.

Tư duy về pháp rồi liền chấp nhận. Chấp nhận rồi liền quán sát về pháp. Đệ tử Hiền Thánh  quán sát về pháp rồi thì tự thân tác chứng Chân Đế, và do tuệ có tăng thượng quán.

Vị ấy liền nghĩ, Chân Đế này, tự thân ta chưa từng tác chứng cũng không phải được tăng thượng quán bằng tuệ. ta hãy tự thân tác chứng Chân Đế này, và do tuệ mà tăng thượng quán.

Như vậy dần dần học tập và thực hành, nhận lãnh giáo huấn và khiển trách, rồi sau các Tỳ Kheo mới đắc cứu cánh trí, cứu cánh trí mà các Tỳ Kheo chứng đắc này.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói rằng: Này A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu, có pháp được gọi là Tứ cú, ta nói cho các ngươi nghe, các ngươi có muốn biết không?

A Thấp Bối và Phất Na Bà Tu thưa: Bạch Thế Tôn! Chúng con là hạng người nào và do đâu hiểu được pháp?

Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn nghĩ rằng: Hạng người ngu si này vượt quá sự chỉ dạy của ta. Đối với pháp luật chân chính này, còn cách biệt quá lâu dài. Nếu có vị thầy pháp luật nào tham trước việc ăn uống, không xả ly việc ăn uống mà đệ tử của vị ấy còn không nên dục tốc, phóng dật.

Huống chi ta lại là người không tham trước việc ăn uống, viễn ly sự ăn uống, do đó tín đệ tử của ta nên nói, Đức Thế Tôn là bậc thầy của ta. Ta là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn nói pháp cho ta nghe. Đức Thiện Thệ nói pháp cho ta nghe. Mong cho ta được thiện lợi, hữu ích, được an ổn khoái lạc lâu dài.

Tín đệ tử kia đối với cảnh giới của Thế Tôn có nhiều điều phải làm, đối với cảnh giới của Thế Tôn được nhiều lợi ích. Đối với cảnh giới của Thế Tôn có nhiều điều phải hành, thể nhập trong cảnh giới của Thế Tôn, an chỉ trong cảnh giới của Thế Tôn. Nếu trú ở phương Đông, chắc chắn sẽ được an lạc, không có chỗ khổ hoạn.

Nếu trụ ở phương Nam, phương Tây và phương Bắc, chắc chắn sẽ được an lạc, không có các khổ hoạn.

Nếu tín đệ tử nào đối với cảnh giới của Thế Tôn mà có nhiều điều phải làm, đối với cảnh giới của Thế Tôn, được nhiều điều lợi ích, đối với cảnh giới của Thế Tôn có nhiều điều phải hành, thể nhập cảnh giới của Thế Tôn, an chỉ cảnh giới của Thế Tôn.

Tín đệ tử ấy đối với pháp thiện đã trụ, ta không còn nói, huống chi nói đến pháp suy thoái, nhưng ngày đêm vẫn tăng trưởng pháp thiện, chớ không suy thoái.

Nếu Tín đệ tử nào đối với cảnh giới của Đức Thế Tôn có nhiều điều phải làm, đối với cảnh giới của Thế Tôn được nhiều lợi ích, đối với cảnh giới của Thế Tôn có nhiều điều phải hành, thể nhập vào cảnh giới của Thế Tôn, an chỉ trong cảnh giới của Thế Tôn.

Trong hai quả, chắc chắn sẽ đạt được một, hoặc hiện tại được cứu cánh trí, nếu hữu dư, chứng được A Na Hàm.

Phật thuyết như vậy, các Tỳ Kheo nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường