Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Bất đoạn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

KINH BẤT ĐOẠN  

Như vậy tôi nghe!

Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi Xá Vệ, tại Jetavana Kỳ Đà Lâm, Tinh Xá ông Anathapindika Cấp Cô Ðộc.

Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo.

Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các vị Tỳ Kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau: Này các Tỳ Kheo, Sariputta Xá Lợi Phất là Bậc Hiền trí, này các Tỳ Kheo, Sariputta là bậc Ðại tuệ, này các Tỳ Kheo, Sariputta là bậc Quảng tuệ, này các Tỳ Kheo, Sariputta là bậc Hỷ Tuệ Hasupanna, này các Tỳ Kheo, Sariputta là bậc Tiệp Tuệ javanapanna, này các Tỳ Kheo, Sariputta là bậc Lợi Tuệ tikkhapanna, này các Tỳ Kheo, Sariputta là bậc Quyết Trạch Tuệ nibbedhikapanna. Này các Tỳ Kheo, cho đến nửa tháng, Sariputta quán bất đoạn pháp quán.

Này các Tỳ Kheo, đây là do bất đoạn pháp quán của Sariputta: Ở đây, này các Tỳ Kheo, Sariputta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.

Và những pháp thuộc về thiền thứ nhất như tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, các pháp ấy được an trú bất đoạn.

Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi an trú, được Sariputta biết đến khi đoạn diệt.

Sariputta biết rõ như sau: Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.

Sariputta biết: Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn nữa. Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Sariputta diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

Và những pháp thuộc về thiền thứ hai như nội tĩnh, hỷ, lạc, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, những pháp ấy được an trú bất đoạn.

Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.

Sariputta biết rõ như sau: Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.

Sariputta biết: Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa. Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Sariputta ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các Bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú thiền thứ ba.

Và những pháp thuộc về thiền thứ ba, như xả, lạc, niệm, tỉnh giác, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, xả, tác ý, những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.

Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.

Sariputta biết: Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa. Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Sariputta xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh.

Và những pháp thuộc về thiền thứ tư, như xả, bất khổ bất lạc thọ, thọ passivedana, vô quán niệm tâm Cetaso anabhogo, thanh tịnh nhờ niệm, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.

Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.

Sariputta biết: Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa.

Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, nghĩ rằng: Hư không là vô biên, chứng và trú không vô biên xứ.

 Và những pháp thuộc về không vô biên xứ như hư không, vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.

Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.

Sariputta biết: Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa.

Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn không vô biên xứ, nghĩ rằng: Thức là vô biên, chứng và trú Thức vô biên xứ. Và những pháp thuộc về Thức vô biên xứ như thức vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.

Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.

Sariputta biết: Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa.

Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: Không có vật gì, chứng và trú vô sở hữu xứ. Và những pháp thuộc về vô sở hữu xứ, như vô sở hữu xứ tưởng, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.

Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.

Sariputta biết: Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa. Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy.

Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại: Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế.

Sariputta biết: Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa. Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Sariputta vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và an trú diệt thọ tưởng định. Sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn tận. Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy.

Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại: Như vậy các pháp ấy, trước không có nơi ta, sau có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt. Sariputta đối với các pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế.

Sariputta biết: Không có sự giải thoát nào vô thượng hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, không có việc phải làm nhiều hơn thế nữa.

Này các Tỳ Kheo, nếu nói một cách chân chánh, một người có thể nói về người ấy như sau: Người này được tự tại, được cứu cánh trong Thánh Giới, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát.

Nói một cách chân chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau:Sariputta được tự tại, được cứu cánh trong Thánh Giới, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát.

Này các Tỳ Kheo, nếu nói một cách chân chánh, một người có thể nói về người ấy như sau: Người này là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ pháp, do pháp hóa thành, thừa tự chánh pháp, không thừa tự vật chất.

Nói một cách chân chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau: Sariputta là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ pháp, do pháp hóa thành, thừa tự chánh pháp, không thừa tự vật chất. Sariputta, này các Tỳ Kheo, chân chánh chuyển pháp luân vô thượng đã được Như Lai chuyển vận.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỳ Kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần