Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Khất Thực Thanh Tịnh
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TRUNG BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
KINH KHẤT THỰC THANH TỊNH
Như vậy tôi nghe!
Một thời, Thế Tôn ở Rajagaha Vương Xá, Veluvana Trúc lâm, tại chỗ nuôi dưỡng sóc Kalandakanivapa. Rồi Tôn Giả Sariputta vào buổi chiều, từ thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với Tôn Giả Sariputta đang ngồi một bên: Này Sariputta, các căn của ông rất sáng suốt, sắc da của ông thanh tịnh trong sáng.
Này Sariputta, ông nay đang phần lớn an trú với loại an trú nào?
Bạch Thế Tôn, con nay đang phần lớn an trú với không trú.
Lành thay, lành thay!
Này Sariputta, ông nay đang phần lớn an trú với sự an trú của bậc Ðại Nhân. Này Sariputta, sự an trú của bậc Ðại Nhân tức là không tánh.
Do vậy, này Sariputta, nếu Tỳ Kheo ước mong rằng:
Mong rằng tôi nay phần lớn an trú với sự an trú không tánh, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy cần phải suy tư như sau: Trên con đường ta đã đi vào làng để khất thực, tại trú xứ ta đã đi khất thực, và trên con đường từ làng ta đi khất thực trở về, tại chỗ ấy, đối với các sắc do mắt nhận thức, có khởi lên ở nơi ta dục, tham, sân si, hay hận tâm không?
Này Sariputta, nếu Tỳ Kheo sau khi tư duy biết rằng: Trên con đường ta đã đi vào làng để khất thực, tại trú xứ ta đã đi khất thực và trên con đường từ làng ta đi khất thực trở về, đối với các sắc do mắt nhận thức, có khởi lên nơi ta dục, tham, sân, si hay hận tâm, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận các ác bất thiện pháp ấy.
Nhưng này Sariputta, nếu Tỳ Kheo trong khi suy tư được biết như sau: Trên con đường ta đã đi. Ta đi khất thực trở về, đối với các sắc do mắt nhận thức, không có khởi lên nơi dục, tham, sân, si hay hận tâm, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỳ Kheo cần phải suy tư như sau: Trên con đường ta đã đi, ta đi khất thực trở về, đối với các tiếng do tai nhận thức.
Đối với các hương do mũi nhận thức.
Đối với các vị do lưỡi nhận thức.
Đối với các xúc do thân nhận thức.
Đối với các pháp do ý nhận thức, có khởi lên dục, tham, sân, si hay hận tâm không?
Này Sariputta, nếu Tỳ Kheo trong khi suy tư được biết như sau: Trên con đường ta đã đi, ta đi khất thực trở về, đối với các tiếng do tai nhận thức. Đối với các hương do mũi nhận thức. Đối với các vị do lưỡi nhận thức. Đối với các xúc do thân nhận thức.
Đối với các pháp do ý nhận thức, có khởi lên nơi ta dục, tham, sân, si, hay hận tâm, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận các ác bất thiện pháp ấy.
Nhưng này Sariputta, nếu Tỳ Kheo trong khi suy tư được biết như sau: Trên con đường ta đã đi, ta đi khất thực trở về, đối với các tiếng do tai nhận thức.
Đối với các hương do mũi nhận thức.
Đối với các vị do lưỡi nhận thức.
Đối với các xúc do thân nhận thức.
Đối với các pháp do ý nhận thức, không có khởi lên nơi ta dục, tham, sân, si hay hận tâm, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỳ Kheo cần phải suy tư như sau: Ta đã đoạn tận năm dục trưởng dưỡng chưa?
Này Sariputta, nếu Tỳ Kheo, trong khi suy tư được biết như sau: Ta chưa đoạn tận năm dục trưởng dưỡng, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận năm dục trưởng dưỡng.
Nhưng nếu, này Sariputta, Tỳ Kheo trong khi suy tư được biết như sau: Ta đã đoạn tận năm dục trưởng dưỡng, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỳ Kheo cần phải suy tư như sau: Ta đã đoạn tận năm triền cái chưa?
Nếu, này Sariputta, trong khi suy tư, Tỳ Kheo được biết như sau: Ta chưa đoạn tận năm triền cái, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận năm triền cái.
Nhưng nếu, này Sariputta, Tỳ Kheo trong khi suy tư được biết như sau: Ta đã đoạn tận năm triền cái, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỳ Kheo cần phải suy tư: Ta có liễu tri năm thủ uẩn chưa?
Này Sariputta, nếu trong khi suy tư, Tỳ Kheo được biết như sau: Ta chưa có liễu tri năm thủ uẩn, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy cần phải tinh tán liễu tri năm thủ uẩn.
Nhưng nếu, này Sariputta, trong khi suy tư, Tỳ Kheo ấy được biết như sau: Ta đã liễu tri năm thủ uẩn, thời này Sariputta, vị Tỳ Kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỳ Kheo cần phải suy tư như sau: Ta đã tu tập bốn niệm xứ chưa?
Này Sariputta, nếu trong khi suy tư, Tỳ Kheo được biết: Ta chưa tu tập bốn niệm xứ, thời này Sariputta, vị Tỳ Kheo cần phải tinh tấn tu tập bốn niệm xứ.
Nhưng nếu, này Sariputta, trong khi suy tư, Tỳ Kheo được biết như sau: Ta đã tu tập bốn niệm xứ, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy cần phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỳ Kheo cần phải suy tư:
Ta đã tu tập bốn chánh cần chưa?
Ta đã tu tập bốn như ý túc chưa?
Ta đã tu tập năm căn chưa?
Ta đã tu tập năm lực chưa?
Ta đã tu tập bảy giác chi chưa?
Lại nữa, này Sariputta, Tỳ Kheo cần phải suy tư như sau: Ta đã tu tập Thánh đạo tám ngành chưa?
Nếu Tỳ Kheo, này Sariputta, trong khi suy tư được biết như sau: Ta chưa tu tập Thánh đạo tám ngành, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy cần phải tinh tấn tu tập Thánh đạo tám ngành.
Nhưng nếu, này Sariputta, Tỳ Kheo trong khi suy tư được biết như sau: Ta đã tu tập Thánh đạo tám ngành, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy cần phải an trú trong hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỳ Kheo cần phải suy tư: Ta đã tu tập chỉ và quán chưa?
Nếu Tỳ Kheo, này Sariputta, trong khi suy tư được biết như sau: Ta chưa tu tập chỉ và quán, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy cần phải tinh tấn tu tập chỉ và quán.
Nhưng nếu, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo trong khi suy tư được biết như sau: Ta đã tu tập chỉ và quán, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy cần phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỳ Kheo cần phải suy tư như sau: Ta đã chứng ngộ minh và giải thoát chưa?
Nếu Tỳ Kheo, này Sariputta, trong khi suy tư được biết như sau: Ta chưa chứng ngộ minh và giải thoát, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy cần phải tinh tấn tu tập minh và giải thoát.
Nhưng nếu, này Sariputta, Tỳ Kheo trong khi suy tư được biết như sau: Ta đã chứng ngộ minh và giải thoát, thời này Sariputta, Tỳ Kheo ấy cần phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Này Sariputta, những Sa Môn hay Bà La Môn nào trong thời quá khứ đã làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy đã làm cho khất thực được thanh tịnh bằng cách suy tư, suy tư như vậy.
Này Sariputta, những Sa Môn hay Bà La Môn nào trong thời gian tương lai sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh, bằng cách suy tư, suy tư như vậy.
Và này Sariputta, những Sa Môn, Bà La Môn nào trong thời hiện tại, làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy đã làm cho khất thực được thanh tịnh, bằng cách suy tư, suy tư như vậy.
Vậy này Sariputta, các ông cần phải học tập như sau: Sau khi suy tư, suy tư, chúng ta sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh. Này Sariputta, các ông phải tu tập như vậy. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn Giả Sariputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Liên Hoa Sắc
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Khất Thực Thanh Tịnh
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Dị Bà La Môn
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Tám Mươi Hai
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Sáu - Phẩm đại - Kinh Châu Na
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã - Phẩm Một - Phẩm phóng Quang
Phật Thuyết Kinh Diệu Tý Bồ Tát Sở Vấn - Phần Mười Một - Nói Về đường Lối Thù Thắng