Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Song Tầm
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TRUNG BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
KINH SONG TẦM
Tôi nghe như vậy!
Một thời Thế Tôn ở Savatthi Xá Vệ, tại Jetavana Kỳ Đà Lâm, vườn ông Anathapindika Cấp Cô Ðộc.
Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỳ Kheo: Chư Tỳ Kheo! Thưa vâng, các Tỳ Kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết giảng như sau:
Chư Tỳ Kheo, trước khi ta giác ngộ, khi chưa thành Chánh Giác và còn là Bồ Tát, ta suy nghĩ như sau: Ta sống suy tư và chia hai suy tầm. Chư Tỳ Kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, ta phân thành phần thứ nhất. Phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, ta phân thành phần thứ hai. Chư Tỳ Kheo, rồi ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Khi dục tầm khởi lên, ta tuệ tri: Dục tầm này khởi lên nơi ta, và dục tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn.
Chư Tỳ Kheo, khi ta suy tư: Dục tầm này đưa đến tự hại, dục tầm được biến mất.
Chư Tỳ Kheo, khi ta suy tư: Dục tầm đưa đến hại người, dục tầm được biến mất.
Chư Tỳ Kheo, khi ta suy tư: Dục tầm đưa đến hại cả hai, dục tầm được biến mất.
Chư Tỳ Kheo, khi ta suy tư: Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn, dục tầm được biến mất.
Chư Tỳ Kheo, như vậy ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận dục tầm. Chư Tỳ Kheo, trong khi ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sân tầm khởi lên, như trên, hại tầm khởi lên.
Ta tuệ tri: Hại tầm này khởi lên nơi Ta, và hại tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn.
Chư Tỳ Kheo, khi ta suy tư: Hại tầm này đưa đến tự hại. Hại tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn, hại tầm biến mất.
Chư Tỳ Kheo, như vậy ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận hại tầm.
Chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo suy tư, quán sát nhiều vấn đề gì, thời tâm sanh khuynh hướng đối với vấn đề ấy.
Chư Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo suy tư, quán sát nhiều về dục tầm, vị ấy từ bỏ ly dục tầm. Khi tâm đã nặng về dục tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về dục tầm.
Chư Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo suy tư quán sát nhiều về sân tầm, như trên, về hại tầm, vị ấy từ bỏ vô hại tầm. Khi tâm đã đặt nặng về hại tầm thời tâm vị ấy có khuynh hướng về hại tầm.
Chư Tỳ Kheo, ví như vào cuối tháng mùa mưa, về mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò, cầm roi đánh các con bò bên này, đánh bên kia, chế ngự chúng, ngăn chận chúng.
Vì sao vậy?
Chư Tỳ Kheo, vì người mục đồng thấy do nhân duyên này, đưa đến sự chết, sự tù tội, sự đánh đập hay sự trách móc.
Chư Tỳ Kheo, cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện, và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.
Chư Tỳ Kheo, trong khi ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm khởi lên, ta tuệ tri như vậy: Ly dục tầm này khởi lên nơi ta và ly dục tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến Niết Bàn.
Chư Tỳ Kheo, nếu ban đêm ta suy tư, quán sát về ly dục tầm không phải từ nhân duyên ấy ta thấy sợ hãi.
Chư Tỳ Kheo, nếu ban ngày ta suy tư, quán sát về ly dục tầm, không phải từ nhân duyên ấy ta thấy sợ hãi.
Chư Tỳ Kheo, nếu ban đêm, ban ngày, ta suy tư, quán sát về ly dục tầm, không phải từ nhân duyên ấy ta thấy sợ hãi.
Và ta suy tư, quán sát quá lâu, thân ta có thể mệt mỏi. Khi thân mệt mỏi thì tâm bị dao động. Khi tâm bị dao động thì tâm rất khó được định tĩnh.
Chư Tỳ Kheo, rồi tự nội thân ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tĩnh.
Vì sao vậy?
Vì để tâm ta khỏi dao động. Chư Tỳ Kheo, trong khi ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi vô sân tầm khởi lên, như trên, vô hại tầm khởi lên.
Ta tuệ tri như vậy: Vô hại tầm này khởi lên nơi ta và vô hại tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến Niết Bàn.
Chư Tỳ Kheo, nếu ban đêm. Không phải từ nhân duyên ấy, mà ta thấy sợ hãi. Và nếu ta suy tư, quán sát quá lâu, thân ta có thể mệt mỏi. Khi thân mệt mỏi thì tâm bị dao động, khi tâm bị dao động, tâm rất khó được định tĩnh.
Chư Tỳ Kheo, rồi tự nội thân ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tĩnh.
Vì sao vậy?
Vì để tâm ta khỏi dao động.
Chư Tỳ Kheo, nếu vị Tỳ Kheo suy tư, quán sát nhiều về vấn đề gì thời tâm sanh khuynh hướng đối với vấn đề ấy.
Chư Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo suy tư, quán sát nhiều về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm. Khi tâm đã đặt nặng về ly dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục tầm.
Chư Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo suy tư, quán sát nhiều về vô sân tầm, như trên, nếu Tỳ Kheo suy tư, quán sát nhiều về bất hại tầm, vị ấy từ bỏ hại tầm. Khi tâm đã đặt nặng về bất hại tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về bất hại tầm.
Chư Tỳ Kheo, ví như vào cuối tháng hè, khi tất cả lúa gạo đã cất vào kho thóc, một người mục đồng chăn giữ các con bò.
Khi người mục đồng ở dưới gốc cây hay ở ngoài Trời, người ấy có thể nghĩ đến có việc cần phải làm, và người ấy nghĩ: Ðây là những con bò.
Chư Tỳ Kheo, cũng vậy ở đây, có việc cần phải làm, và ta nghĩ: Ðây là những pháp.
Chư Tỳ Kheo, ta phát tâm dõng mãnh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an trú, thân được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định tĩnh nhất tâm.
Chư Tỳ Kheo, ta ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Diệt tầm và tứ, ta chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các Bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, ta chứng và an trú thiền thứ ba.
Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, ta chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng trí.
Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.
Ta nhớ rằng: Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ này.
Tại chỗ này, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi chết tại chỗ này, ta được sanh ra ở đây. Như vậy ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Chư Tỳ Kheo, trong đêm canh đầu ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh sanh. Bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, ta dẫn tâm, hướng tâm đến sanh tử trí về chúng sanh.
Ta với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý, phỉ báng các Bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến.
Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Còn những chúng sanh nào thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các Bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Cõi Trời, trên đời này.
Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống chết của chúng sanh.
Ta tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Chư Tỳ Kheo, trong đêm canh giữa, ta chứng được minh thứ hai, vô minh diệt, minh sanh. Bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Ta thắng tri như thật.
Ðây là khổ, thắng tri như thật.
Ðây là nguyên nhân của khổ, thắng tri như thật.
Ðây là khổ diệt, thắng tri như thật.
Ðây là con đường đưa đến khổ diệt, thắng tri như thật.
Ðây là những lậu hoặc, thắng tri như thật.
Ðây là nguyên nhân các lậu hoặc, thắng tri như thật.
Ðây là các lậu hoặc diệt, thắng tri như thật.
Ðây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt.
Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu.
Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: ta đã giải thoát.
Ta đã thắng tri: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.
Chư Tỳ Kheo, trong đêm canh ba, ta chứng được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh. Bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi ta sống không phóng dật nhiệt tâm tinh cần.
Chư Tỳ Kheo, giống như trong khu rừng rậm rạp có một hồ nước lớn thâm sâu, và một đoàn nai lớn sống gần một bên.
Có một người đến, không muốn chúng được lợi ích, không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn.
Nếu có con đường nào được yên ổn, được an toàn, đưa đến hoan hỷ, người ấy sẽ chận đóng con đường này lại, sẽ mở con đường nguy hiểm, sẽ đặt con mồi đực, sẽ đặt con mồi cái.
Chư Tỳ Kheo, như vậy, sau một thời gian đoàn nai lớn ấy gặp ách nạn và hao mòn dần.
Chư Tỳ Kheo, có một người đến, muốn đoàn nai ấy được lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn. Nếu có con đường nào được yên ổn, được an toàn, người ấy sẽ mở con đường này, sẽ đóng con đường nguy hiểm lại, sẽ đem con mồi đực đi, sẽ hủy bỏ con mồi cái.
Chư Tỳ Kheo, như vậy đoàn nai lớn ấy sau một thời gian sẽ được tăng trưởng, hưng thịnh, thành mãn.
Chư Tỳ Kheo, ta nói ví dụ ấy để giải thích ý nghĩa như sau:
Chư Tỳ Kheo, hồ nước lớn, thâm sâu chỉ cho các dục.
Chư Tỳ Kheo, đoàn nai lớn chỉ cho các loài hữu tình.
Chư Tỳ Kheo, con người không muốn chúng được lợi ích, không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn chỉ cho ác ma.
Chư Tỳ Kheo, con đường nguy hiểm chỉ cho con đường tà đạo có tám ngành, tức là tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.
Chư Tỳ Kheo, con mồi đực chỉ cho hỷ và tham.
Chư Tỳ Kheo, con mồi cái chỉ cho vô minh.
Chư Tỳ Kheo, còn người muốn chúng được lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn chỉ cho Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.
Con đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ chỉ cho con đường Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Chư Tỳ Kheo, như vậy ta mở con đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ, ta đóng con đường nguy hiểm, ta mang đi con mồi đực, ta hủy bỏ con mồi cái.
Chư Tỳ Kheo, những gì vị Ðạo Sư cần phải làm cho các đệ tử vì lòng thương tưởng họ, những điều ấy ta đã làm, vì lòng thương tưởng các người.
Chư Tỳ Kheo, đây là các gốc cây, đây là các chỗ trống. Hãy thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau. Ðó là lời giáo huấn của ta.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỳ Kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ty Hạ
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Sáu Mươi Mốt
Phật Thuyêt Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Chín - Phẩm Thánh Hạnh - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Một - Phẩm đại - Kinh Thuyết Xứ
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Bốn Mươi Chín - Phẩm Chăn Trâu - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Hai Mươi Ba
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng đại Tập Hiền Hộ Bồ Tát - Phẩm Tám - Phẩm Thọ Ký
Phật Thuyết Kinh Pháp Tập Yếu Tụng - Phẩm Ba - Phẩm Tham Dục