Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Ví Dụ Tấm Vải

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

KINH VÍ DỤ TẤM VẢI  

Như vậy tôi nghe!

Một thời Thế Tôn ở Savatthi Xá Vệ, tại Jetavana Kỳ Đà Lâm, vườn ông Anathapindika Cấp Cô Ðộc.

Lúc bấy giờ Thế Tôn gọi các Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo.

Bạch Thế Tôn, các vị Tỳ Kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau: Này các Tỳ Kheo, như một tấm vải cấu uế, nhiễm bụi, một người thợ nhuộm nhúng tấm vải ấy vào thuốc nhuộm này hay thuốc nhuộm khác hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc tía vải ấy sẽ được màu nhuộm không tốt đẹp, sẽ được màu nhuộm không sạch sẽ.

Vì sao vậy?

Này các Tỳ Kheo, vì tấm vải không được trong sạch. Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế. 

Này các Tỳ Kheo, như một tấm vải thanh tịnh, trong sạch, một người thợ nhuộm nhúng tấm vải ấy vào thuốc nhuộm này hay thuốc nhuộm khác hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc tía, vải ấy sẽ được màu nhuộm tốt đẹp, sẽ được màu nhuộm sạch sẽ. 

Vì sao vậy?

Này các Tỳ Kheo, vì tấm vải được trong sạch. Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, cõi thiện chờ đợi một tâm không cấu uế.

Và này các Tỳ Kheo, thế nào là những cấu uế của tâm?

Tham dục, tà tham là cấu uế của tâm, sân là cấu uế của tâm, phẫn là cấu uế của tâm, hận là cấu uế của tâm, hư ngụy, não hại, tật đố, xan tham, man trá, khi cuống, ngoan cố, cấp tháo, quá mạn, kiêu, phóng dật là cấu uế của tâm.

Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nào nghĩ rằng: Tham dục, tà tham là cấu uế của tâm và sau khi biết vậy, vị ấy đoạn trừ tham dục, tà tham cấu uế của tâm.

Nghĩ rằng: Sân là cấu uế của tâm, và sau khi biết vậy, vị ấy đoạn trừ sân, cấu uế của tâm. Phẫn. Hận. Hư ngụy. Não hại, tật đố, xan tham, man trá, khi cuống. Ngoan cố. Cấp tháo. Mạn. Quá mạn. Kiêu.

Nghĩ rằng: Phóng dật là cấu uế của tâm thì sau khi biết vậy, vị ấy đoạn trừ phóng dật, cấu uế của tâm.

Này các Tỳ Kheo, khi nào Tỳ Kheo biết được: Tham dục, tà tham là cấu uế của tâm, tham dục, tà tham cấu uế của tâm được diệt trừ, sân. Phẫn. Hận. Hư ngụy. Não hại. Tật đố. Xan tham. Man trá. Khi cuống. Ngoan cố. Cấp tháo. Mạn. Quá mạn. Kiêu.

Khi nào Tỳ Kheo biết được: Phóng dật là cấu uế của tâm, phóng dật, cấu uế của tâm được diệt trừ, Tỳ Kheo ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Phật: Ngài là bậc Thế Tôn, A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Ðiều Ngự Trượng Phu, Vô Thượng Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với pháp: Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí chứng hiểu.

Vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Chúng Tăng: Diệu hạnh là Chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn. Trực hạnh là Chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn. Như lý hạnh là Chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn.

Chánh hạnh là Chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn.

Tức là bốn đôi tám vị. Chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn, đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.

Ðến giai đoạn này, đối với vị ấy có sự từ bỏ, có sự diệt trừ, có sự giải thoát, có sự đoạn trừ, có sự xả ly.

Vị ấy tự nghĩ: Ta thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Thế Tôn, và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến pháp.

Từ hân hoan, hỷ sanh. Từ hỷ, thân được khinh an. Thân khinh an, cảm giác được lạc thọ. Với lạc thọ, tâm được Thiền định.

Vị ấy tự nghĩ: Ta thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với pháp, và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến pháp.

Từ hân hoan, hỷ sanh. Từ hỷ, thân được khinh an. Thân khinh an, cảm giác được lạc thọ. Với lạc thọ, tâm được thiền định.

Vị ấy tự nghĩ: Ta thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Tăng, và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến pháp.

Từ hân hoan hỷ sanh. Từ hỷ, thân được khinh an, thân khinh an, cảm giác được lạc thọ. Với lạc thọ, tâm được thiền định.

Vị ấy tự nghĩ: Ðến giai đoạn này, đối với ta, có sự từ bỏ, có sự diệt trừ, có sự giải thoát, có sự đoạn trừ, có sự xả ly, và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến pháp. Từ hân hoan, hỷ sanh. Từ hỷ, thân khinh an. Thân khinh an, cảm giác được lạc thọ. Với lạc thọ, tâm được thiền định.

Này các Tỳ Kheo, vị Tỳ Kheo, giới như vậy, pháp như vậy, tuệ như vậy, nếu có ăn đồ khất thực với gạo thơm, hạt đen được vất đi, với các món canh, với các món ăn khác cũng không vì vậy trở thành một chướng ngại cho vị ấy.

Này các Tỳ Kheo, như một tấm vải cấu uế, nhiễm bụi, nếu bỏ trong nước sạch, trở thành thanh tịnh sạch sẽ, như bỏ vào lò lửa trở thành thanh tịnh sạch sẽ.

Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, một Tỳ Kheo, giới như vậy, pháp như vậy, tuệ như vậy, nếu có ăn đồ khất thực với gạo thơm, hạt đen được vất đi, với các món canh, với các món ăn khác, cũng không vì vậy trở thành một chướng ngại cho vị ấy.

Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.

Như vậy, cùng khắp Thế Giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.

Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi, như trên, với tâm câu hữu với hỷ, như trên, biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.

Như vậy, cùng khắp Thế Giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân.

Vị ấy biết: Có cái này, có cái hạ liệt, có cái cao thượng, có sự giải thoát vượt qua các tưởng. Do vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu.

Ðối với tự thân đã giải thoát, trí khởi lên: Ta đã giải thoát, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy được gọi là Tỳ Kheo đã được tắm rửa với sự tắm rửa nội tâm. Lúc bấy giờ, Bà La Môn Sundarika Bharadvaja đang ngồi không xa Thế Tôn.

Rồi Bà La Môn Sundarika Bharadvaja bạch Thế Tôn: Tôn Giả Gotama có đi đến sông Bahuka để tắm rửa không?

Này Bà La Môn, sông Bahuka là gì?

Sông Bahuka có làm được lợi ích gì?

Tôn Giả Gotama, sông Bahuka được nhiều người xem là có khả năng giải thoát. Tôn Giả Gotama, sông Bahuka được nhiều người xem là có khả năng đem lại công đức. Và nhiều người đã gội sạch các ác nghiệp trong sông Bahuka.

Rồi Thế Tôn nói lên những bài kệ sau đây cho Bà La Môn Sundarika Bharadvaja:

Trong sông Bàhukà

Tại Adhikakkà,

Tại cả sông Gayà

Và Sundarikà,

Tại Sar Assatì

Và tại Payàna,

Tại Bàhumatì,

Kẻ ngu dầu thường tắm,

Ác nghiệp không rửa sạch.

Sông Sundarikà

Có thể làm được gì?

Payàga làm gì?

Cả sông Bàhukà?

Không thể rửa nghiệp đen

Của kẻ ác gây tội.

Ðối kẻ sống thanh tịnh,

Ngày nào cũng ngày tốt,

Với kẻ sống thanh tịnh,

Ngày nào cũng ngày lành,

Các tịnh nghiệp thanh tịnh,

Luôn thành tựu thiện hạnh.

Này vị Bà La Môn,

Chỉ nên tắm ở đây,

Khiến mọi loài chúng sanh,

Ðược sống trong an ổn.

Nếu không nói dối trá,

Nếu không hại chúng sanh,

Không lấy của không cho,

Có lòng tín, không tham,

Ði Gayà làm gì,

Gayà một giếng nước?

Khi được nghe nói vậy, Bà La Môn Sundarika Bharadvaja bạch Thế Tôn: Thật vi diệu thay, Tôn Giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn Giả Gotama!

Tôn Giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy chánh pháp đã được Tôn Giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày.

Nay con quy y Tôn Giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tăng.

Mong con được xuất gia với Tôn Giả Gotama! Mong con được thọ đại giới!

Bà La Môn Sundarika Bharadvaja được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới. Trong thời gian ngắn sau khi thọ đại giới, Tôn Giả Bharadvaja sống độc cư, không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần và không bao lâu sau khi tự thân chứng ngộ với thượng trí, chứng đắc và an trú ngay trong hiện tại, vô thượng cứu cánh phạm hạnh mà vì mục đích này các thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Vị ấy đã thắng tri: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Như vậy, Tôn Giả Bharadvaja trở thành một vị A La Hán nữa.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần