Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh đại Bản - Phần Hai

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

KINH ĐẠI BẢN  

PHẦN HAI  

Lại nữa, này các Tỳ Kheo, đây là pháp thường của Chư Phật: Bồ Tát Tỳ Bà Thi từ Trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến thân mẹ được an ổn, không có các não loạn, trí tuệ ngày càng thêm.

Mẹ tự xem thai mình thấy rõ thân Bồ Tát đủ các căn tốt đẹp như chất vàng tía không chút tỳ tích, khác nào kẻ có mắt sáng, xem vào đồ lưu ly trong sạch, thấy suốt cả trong ngoài không chút ngăn ngại. Này các Tỳ Kheo, đó là pháp thường của Chư Phật.

Bấy giờ Thế Tôn nói bài kệ:

Như ngọc lưu ly sáng,

Ánh sáng như Trời Trăng,

Nhân Tôn trong thai mẹ,

Khiến mẹ không não hoạn.

Trí tuệ càng tăng thêm,

Xem thai như vàng ròng,

Mẹ mang thai an lạc,

Ầy pháp thường Chư Phật.

Này các Tỳ Kheo, Bồ Tát Tỳ Bà Thi từ Trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến tâm mẹ lúc nào cũng thanh tịnh, không có các dục tưởng, không bị lửa dục thiêu đốt. Ầy là pháp thường của Chư Phật.

Thế Tôn lại nói bài kệ:

Bồ Tát trụ thai mẹ,

Phước Trời trên Cõi Trời,

Tâm mẹ Ngài thanh tịnh,

Không có các dục tưởng.

Dứt bỏ các dâm dục,

Không nhiễm, không gần gũi,

Không bị lửa dục thiêu,

Mẹ Chư Phật thường tịnh.

Này các Tỳ Kheo, pháp thường của Chư Phật, Bồ Tát Tỳ Bà Thi từ Trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến mẹ Ngài giữ trọn năm giới, phạm hạnh thanh tịnh, thuần tín và nhân từ, thành tựu mọi điều lành, an lạc không sợ hãi và khi thân hoại mệnh chung, được sanh Cõi Trời Đao Lợi. Ầy là pháp thường của Chư Phật.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói kệ:

Hoài thai Đấng Chí Tôn,

Tinh tấn, giới đầy đủ,

Mạng chung lại sinh thiên,

Duyên ấy, nói mẹ Phật.

Này các Tỳ Kheo, pháp thường của Chư Phật, Bồ Tát Tỳ Bà Thi, khi sanh từ hông phải của mẹ mà ra, cõi đất rung động, ánh sáng chiếu khắp nơi. Khi mới vào thai, những chỗ tối tăm thảy đều được chiếu sáng. Ầy là pháp thường của Chư Phật.

Thái Tử sinh, đất động,

Ánh sáng rọi khắp nơi,

Cõi này và cõi khác,

Trên dưới và các phương.

Phóng quang, cho mắt sáng,

Trọn đủ nơi thân Trời,

Bằng tịnh tâm hoan hỷ,

Chuyển xưng tên Bồ Tát.

Này các Tỳ Kheo, pháp thường của Chư Phật, Bồ Tát Tỳ Bà Thi, lúc sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn.

Khi ấy mẹ Bồ Tát tay vin cành cây, không ngồi không nằm, có bốn Thiên Thần bưng nước hương đứng trước mẹ mà thưa rằng: Tâu Thiên Mẫu, nay Ngài sanh Thánh tử, chớ có ưu lo. Đó là pháp thường của Chư Phật.

Mẹ Phật không nằm, ngồi,

Trụ giới, tu phạm hạnh,

Không lười, sinh Chí Tôn,

Được Trời người phụng thờ.

Này các Tỳ Kheo, pháp thường Chư Phật, Bồ Tát Tỳ Bà Thi lúc sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn, thân Ngài thanh tịnh không bị ô nhiễm bởi các thứ ô uế.

Ví như kẻ có mắt sáng, liệng hạt minh châu sáng sạch lên lụa trắng, thấy rõ cả hai đều không làm bẩn nhau, vì cả hai đều sạch.

Bồ Tát ra khỏi thai cũng như vậy. Đó là pháp thường của Chư Phật.

Như minh châu sáng sạch,

Trên lụa, không vấy bẩn,

Bồ Tát khi xuất thai,

Thanh tịnh, không nhiễm ô.

Này các Tỳ Kheo, pháp thường của Chư Phật, Bồ Tát Tỳ Bà Thi, khi sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn.

Ngài từ hông phải ra, vừa đến đất, không cần người đỡ, liền đi bảy bước, ngó khắp bốn phương, rồi đưa tay lên nói rằng: Trên Trời dưới đất, duy ta là tôn quý, ta sẽ cứu độ chúng sanh khỏi sinh, già, bệnh, chết. Ầy là pháp thường của Chư Phật.

Giống như Sư Tử bước,

Ngó khắp cả bốn phương,

Nhân Sư Tử khi sanh,

Đi bảy bước cũng thế.

Lại như rồng lớn đi,

Khắp ngó cả bốn phương,

Đấng Nhân Long khi sanh,

Đi bảy bước cũng thế.

Khi Đấng Lưỡng Túc sanh,

Đi thong thả bảy bước,

Ngó bốn phương rồi nói:

Sẽ dứt khổ sinh tử.

Ngay lúc mới sanh ra,

Đã không ai sánh bằng,

Tự xét gốc sinh tử,

Thân này thân tối hậu.

Này các Tỳ Kheo, pháp thường của Chư Phật, Bồ Tát Tỳ Bà Thi, khi sanh do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn, tức thì có hai suối nước, một ấm, một mát, tự nhiên ở dưới đất tuôn ra, để cúng dường tắm rửa cho Bồ Tát. Đó là pháp thường của Chư Phật.

Đấng Lưỡng Túc khi sinh,

Hai suối tự tuôn ra,

Để cúng Bồ Tát dùng,

Biến Nhãn tắm sạch sẽ.

Hai suối tự tuôn ra,

Nước suối rất trong sạch,

Một ấm, một lạnh mát,

Tắm Đấng Nhất Thiết Trí.

Lúc Thái Tử mới sanh, Phụ Vương Bàn Đầu mời các Tướng Sư và Đạo Sĩ đến xem tướng Thái Tử để biết sự tốt xấu. Bấy giờ, các tướng sư vâng lệnh đến xem và ngay trước khi chưa mặc áo, họ nhìn rõ các tướng đầy đủ.

Bèn đoán rằng: Người có tướng này sẽ có hai con đường, chắc chắn không nghi ngờ. Nếu tại gia thì sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, trị vì bốn châu thiên hạ, đủ bốn thứ quân binh, dùng chánh pháp trị dân, không thiên lệch.

Thi ân khắp thiên hạ, tự nhiên có bảy thứ báu qui tụ, có ngàn người con dũng kiện hay dẹp trừ ngoại địch, không cần dùng đao binh mà thiên hạ thái bình. Còn nếu xuất gia học đạo, thì sẽ thành bậc Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu.

Rồi các tướng sư tâu Vua: Con trai của Đức Vua có ba mươi hai tướng, sẽ có hai con đường, chắc chắn không nghi ngờ. Nếu tại gia sẽ là vị Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu xuất gia sẽ thành bậc Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu.

Thái Tử trăm phước sinh,

Được tướng sư ghi nhận,

Như chép trong điển sách,

Chắc chắn theo hai đường.

Nếu Ngài vui tại gia,

Sẽ làm Chuyển Luân Vương

Được bảy báu hiếm có,

Báu tự hiện cho Vua.

Bánh xe vàng ngàn căm,

Với lưới vàng bao quanh,

Bánh xe hay bay khắp,

Nên gọi bánh xe Trời.

Khéo luyện voi bảy ngà,

Cao lớn trắng như tuyết,

Khéo bay qua hư không,

Voi báu là thứ hai.

Ngựa đi khắp thiên hạ,

Sớm đi chiều về ăn,

Lông đỏ, bờm Khổng Tước,

Là báu vật thứ ba.

Ngọc lưu ly trong sáng,

Chiếu rọi một do tuần,

Đêm sáng như ban ngày,

Là báu vật thứ tư.

Sắc, thanh, hương, vị, xúc,

Không ai có thể sánh,

Bậc nhất hàng nữ nhân.

Đó là báu thứ năm.

Hiến Vua ngọc lưu ly,

Châu ngọc các thứ quý,

Hoan hỷ mà phụng cống,

Đó là báu thứ sáu.

Theo ý niệm Luân Vương,

Quân binh tiến thoái nhanh,

Nhậm lẹ theo ý Vua,

Đó là báu thứ bảy.

Đó là bảy báu vật,

Bánh xe, voi, ngựa trắng,

Cư Sĩ báu, nữ báu,

Quân binh báu thứ bảy.

Nhìn xem mà không chán,

Ngũ dục tự vui đùa,

Như voi bứt dây trói,

Xuất gia thành Chánh Giác.

Vua có con như thế,

Đấng Lưỡng Túc loài người,

Ở đời Chuyển Pháp Luân,

Đạo thành không biếng nhác.

Lúc bấy giờ, Phụ Vương ân cần hỏi lại tướng sư ba lần: Các ngươi hãy xem lại ba mươi hai tướng của Thái Tử là những gì?

Các tướng sư bèn khoác áo lại cho Thái Tử và kể rõ ba mươi hai tướng:

1. Bàn chân bằng phẳng đầy đặn, đi đứng vững vàng.

2. Dưới bàn chân có dấu chỉ như bánh xe có ngàn căm, ánh sáng xen nhau.

3. Có màng lưới mỏng giữa kẽ ngón tay, chân như chân ngỗng chúa.

4. Tay chân mềm mại như áo Trời.

5. Ngón tay chân thon dài không ai bằng.

6. Gót chân đầy đặn trông không chán.

7. Ống chân thon dài như của nai.

8. Các khớp xương móc lấy nhau như xích chuyền.

9. Mã âm tàng.

10. Đứng thẳng tay duỗi dài quá gối.

11. Mỗi chân lông đều có một sợi lông. Sợi lông ấy xoáy hữu, màu lưu ly xanh biếc.

12. Lông mọc xoay phía hữu, màu xanh biếc thẳng lên.

13. Thân sắc huỳnh kim.

14. Da thịt mịn màng không dính bụi nhơ.

15. Hai vai ngang bằng đầy đặn tròn đẹp.

16. Giữa ngực có chữ vạn.

17. Thân cao gấp đôi người thường.

18. Bảy chỗ trong người đầy đặn.

19. Mình cao to lớn như cây Ni Câu Lô.

20. Hai má như sư tử.

21. Ngực vuông đầy như ngực sư tử.

22. Có bốn mươi cái răng.

23. Răng ngang bằng đầy đặn.

24. Răng khít nhau không hở.

25. Răng trắng, trong sáng.

26. Yết hầu thanh sạch, ăn thức gì cũng thích hợp.

27. Lưỡi rộng dài có thể liếm tới mép tai.

28. Tiếng nói trong rõ như tiếng Phạm Thiên.

29. Con mắt màu xanh biếc.

30. Mắt như mắt trâu chúa, trên dưới có hai mí.

31. Có lông trắng giữa hai chân mày, mềm mại kéo ra dài một tầm, thả thì xoáy trôn ốc về phía hữu như trân châu.

32. Trên đỉnh có chỗ thịt nổi.

Ầy là ba mươi hai tướng Đại Nhân.

Bèn nói bài tụng:

Đứng vững chân mềm mại,

Không dẫm đất, có dấu,

Tướng ngàn căm trang nghiêm,

Màu sắc rất tươi sáng.

Thân cao rộng ngay thẳng,

Như cây Ni Câu Loại.

Như Lai, chưa từng có,

Mã âm tàng ẩn kín.

Vàng báu trang nghiêm thân,

Các tướng chói lẫn nhau.

Tuy mồ hôi như thường,

Song bụi đất không dính.

Như sắc Trời mịn màng

Lọng Trời tự nhiên che,

Phạm âm, thân vàng tía,

Như hoa vươn khỏi ao.

Vua bèn hỏi tướng sư

Tướng sư kính tâu Vua

Ngợi khen tướng Bồ Tát,

Sáng chói khắp toàn thân,

Các gân khớp tay chân,

Trong ngoài đều hiện rõ.

Thực vị thảy vi diệu,

Thân ngay ngắn không vẹo,

Bánh xe hiện dưới chân,

Tiếng nói như chim oanh,

Tướng bắp đùi đầy đặn,

Ầy do túc nghiệp thành.

Cùi chỏ tròn đầy đẹp,

Mày mắt rất đoan nghiêm,

Đấng Sư Tử giữa người,

Có oai lực hơn hết.

Hai má đều đầy đặn,

Nằm nghiêng như sư tử,

Bốn mươi răng đều đặn,

Dày khít không kẽ hở

Tiếng Phạm âm ít có,

Xa gần tùy duyên nghe.

Đứng thẳng thân không nghiêng,

Hai tay sờ đến gối,

Ngón tay đều, mềm mại,

Đủ các tướng tôn quý,

Mỗi chân lông một sợi,

Màng lưới kẽ tay chân,

Nhục kế, mắt xanh biếc,

Mắt trên dưới hai mí,

Hai vai ngang, tròn, đầy.

Đủ ba mươi hai tướng.

Gót chân không cao thấp,

Đùi thon như đùi nai,

Đấng Chí Tôn xuất hiện,

Như voi bứt dây trói,

Độ chúng sanh thoát khổ,

Khỏi sanh già bệnh chết.

Ngài đem tâm đại bi,

Truyền dạy Bốn Chân Đế,

Diễn bày các pháp nghĩa,

Được mọi người tôn quý.

Phật lại bảo các Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo, lúc Phật Tỳ Bà Thi sinh ra, Chư Thiên ở phía trên, giữa hư không, tay cầm lọng trắng, quạt báu, để ngăn che lạnh, nóng, gió, mưa, bụi bặm.

Hiếm có trong loài người,

Đấng Lưỡng Túc ra đời,

Được Chư Thiên Cung kính,

Dâng lọng báu, quạt báu.

Bấy giờ, Phụ Vương cấp bốn người vú:

Một, cho bú.

Hai, tắm rửa.

Ba, bôi hương.

Bốn, vui đùa.

Họ vui vẻ nuôi nấng không hề biếng nhác.

Nhũ mẫu lòng từ ái,

Nuôi dưỡng con mới sinh,

Cho bú và tắm rửa,

Bôi hương và vui đùa.

Hương bậc nhất trong đời,

Bôi xoa Đấng Chí Tôn.

Lúc còn là Đồng Tử, con trai con gái cả nước ngắm nhìn Ngài không chán.

Được nhiều người thương kính,

Như tượng vàng mới thành,

Trai gái cùng nhìn ngắm,

Nhìn mãi không biết chán.

Lúc còn là Đồng Tử, con trai và con gái cả nước đều ẵm bồng, như ngắm hoa báu.

Phật nói bài kệ:

Khi Lưỡng Túc Tôn sanh,

Được nhiều người thương kính,

Chuyền tay nhau bồng ẵm,

Như ngắm hương hoa báu.

Bồ Tát khi mới sanh mắt Ngài không nháy như Chư Thiên Trời Đao Lợi. Do cặp mắt không nháy mà có hiệu là Tỳ Bà Thi.

Đấng Chí Tôn không nháy,

Như Chư Thiên Đao Lợi,

Thấy sắc mà chánh quán,

Nên hiệu Tỳ Bà Thi.

Bồ Tát khi sanh âm thanh của Ngài trong suốt êm dịu hòa nhã như tiếng chim Ca La Tần Già.

Như chim trên núi Tuyết,

Uống nước hoa mà hót,

Đấng Lưỡng Túc Tôn ấy,

Tiếng trong suốt cũng vậy.

Bồ Tát khi mới sinh, mắt có thể nhìn thấy suốt một do tuần.

Do nghiệp quả thanh tịnh,

Ánh sáng Trời mầu nhiệm,

Mắt Bồ Tát nhìn thấy,

Khắp suốt một do tuần.

Bồ Tát khi sinh, tuổi lớn dần, ở tại Thiên chánh đường để khai hóa. Ân đức ban đến thứ dân, đức lớn đồn xa.

Thơ ấu, ở chánh đường,

Để khai hóa thiên hạ,

Quyết đoán các sự vụ,

Nên gọi Tỳ Bà Thi.

Trí thanh tịnh quảng bác,

Sâu thẳm như biển cả,

Hài lòng với mọi người,

Khiến trí tuệ tăng trưởng.

Một hôm, Bồ Tát muốn ra khỏi thành để dạo chơi và quan sát, bèn ra lệnh sửa soạn xe báu để Ngài đi đến viên lâm tuần hành và du ngoạn.

Người đánh xe sau khi sửa soạn xa giá xong, tâu Thái Tử: Giờ đã đến lúc. Thái Tử cưỡi xe báu đi đến khu vườn công cộng kia. Giữa đường Ngài gặp một người già, đầu bạc răng rụng, lưng còm, mặt nhăn, rung rinh trên chiếc gậy, thở khò khè theo nhịp bước khó khăn.

Thái Tử liền xoay hỏi quân hầu: Đó là người gì?

Đáp rằng: Đó là người già.

Lại hỏi: Già là thế nào?

Đáp: Già là người mà tuổi thọ sắp hết, không còn sống bao lăm nữa.

Thái Tử lại hỏi: Ta đây cũng sẽ như thế, không tránh khỏi hoạn này chăng?

Đáp: Phàm đã có sinh tất có già, đâu kể chi sang hèn. Nghe vậy Thái Tử buồn bã không vui, liền bảo quân hầu đánh xe về. Ngài lặng lẽ suy nghĩ về nỗi già khổ mà chính Ngài cũng chưa tránh khỏi.

Bấy giờ Phật bèn nói bài kệ:

Nhìn mạng già sắp chết,

Chống gậy bước đi run,

Bồ Tát tự suy ngẫm,

Ta chưa khỏi nạn này.

Bấy giờ Phụ Vương hỏi quân hầu: Thái Tử xuất du có vui không?

Đáp: Không vui.

Lại hỏi lý do: Tại sao vậy?

Đáp: Tại giữa đường Ngài gặp người già nên không vui.

Phụ Vương mới âm thầm nhớ tới lời tướng sư ngày trước, đoán Thái Tử sẽ xuất gia, nay Thái Tử không vui, hẳn đúng như thế chăng?

Ta hãy dùng mọi cách giữ Thái Tử lại thâm cung, đem ngũ dục làm nguôi lòng Thái Tử, để Thái Tử đừng xuất gia. Nghĩ xong Vua liền hạ lệnh trang sức cung quán, chọn hàng thế nữ để giúp vui Thái Tử.

Phật lại nói bài tụng:

Phụ Vương nghe lời ấy,

Sai trang Hoàng Cung quán,

Tăng thêm bằng ngũ dục,

Muốn để không xuất gia.

Lại một lúc khác, Thái Tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và trên đường đi, Ngài gặp một người bệnh, thân gầy, bụng lớn, mày mặt sạm đen, nằm lăn trên nhơ bẩn, không ai ngó ngàng chăm sóc. Bệnh rất trầm trọng, miệng không thốt được một lời.

Thái Tử xoay lại hỏi quân hầu: Đó là người gì?

Đáp: Đó là người bệnh.

Hỏi: Bệnh là thế nào?

Đáp: Bệnh là sự đau đớn bứt rứt, chết sống không biết lúc nào.

Hỏi: Ta cũng sẽ như thế, chưa tránh khỏi cái hoạn này sao?

Đáp: Phải. Phàm có sanh thì có bệnh, không kể gì sang hèn. Nghe vậy Thái Tử trở nên buồn bã không vui, liền bảo quân hầu đánh xe trở về. Ngài lặng lẽ suy nghĩ tới cái khổ bệnh mà Ngài cũng không tránh khỏi.

Rồi Phật nói bài kệ:

Nhìn người bệnh lâu kia,

Nhan sắc bị suy tổn.

Im lặng tự suy ngẫm

Ta chưa khỏi hoạn này.

Bấy giờ, Phụ Vương lại hỏi quân hầu: Thái Tử đi dạo có vui không?

Không vui. Quân hầu đáp.

Tại sao thế?

Tại giữa đường Ngài gặp người bệnh, nên không vui.

Phụ Vương âm thầm suy nghĩ: Ngày trước tướng sư xem tướng Thái Tử có đoán sẽ đi xuất gia.

Ngày nay Thái Tử không vui, hẳn đúng thế chăng?

Ta sẽ tìm cách tăng thêm mọi thứ dục lạc làm nguôi lòng Thái Tử khiến cho khỏi xuất gia. Vua liền hạ lệnh nghiêm sức cung quán, chọn thêm thể nữ để giúp vui.

Phật lại nói kệ:

Sắc, thanh, hương, vị, xúc,

Vi diệu đáng ưa thích,

Bồ Tát phước tột cùng,

Nên sống trong hoan lạc.

Lại một lúc khác, Thái Tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và giữa đường lần này, Ngài gặp một người chết, phan lụa nhiều màu dẫn đường trước sau, dòng họ thân quyến tiếc thương than khóc, đưa ra khỏi thành.

Thái Tử lại hỏi: Đó là người gì?

Đó là người chết, quân hầu đáp.

Hỏi: Chết là thế nào?

Đáp: Chết tức là hết. Hết gió đến lửa cứ tiếp tục làm cho xác thân bại hoại. Kẻ còn kẻ mất đôi đường, gia đình ly biệt.

Thái Tử lại hỏi người đánh xe: Ta đây cũng sẽ như thế, chưa khỏi cái hoạn này chăng?

Đáp: Phải. Phàm đã có sanh tất có chết, chẳng kể sang hèn. Nghe vậy Thái Tử lại càng buồn bã không vui, bảo đánh xe về. Ngài trầm ngâm suy nghĩ tới cái chết khổ mà Ngài cũng không tránh khỏi.

Phật liền dạy bài kệ:

Vừa trông thấy người chết,

Biết họ còn tái sanh,

Thầm lặng tự suy nghĩ:

Ta chưa khỏi hoạn này.

Phụ Vương lại hỏi quân hầu:

Thái Tử đi dạo lần này có vui không?

Không vui, quân hầu đáp.

Tại sao thế?

Tại giữa đường Ngài gặp người chết, nên không vui.

Phụ Vương âm thầm suy nghĩ: Ngày trước tướng sư xem Thái Tử có đoán sẽ đi xuất gia, ngày nay Thái Tử không vui, hẳn là đúng thế chăng?

Ta hãy tìm cách tăng thêm các thứ kỹ nhạc để làm nguôi lòng Thái Tử, khỏi xuất gia. Liền hạ lệnh trang sức cung cấm, chọn thêm thể nữ để khiến cho giúp vui.

Tuổi thơ đã nổi tiếng,

Các thể nữ vây quanh,

Tự vui trong ngũ dục,

Như thú vui Thiên Đế.

Lại một lúc khác, Thái Tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và lần này giữa đường Ngài gặp một vị Sa Môn, mang y cầm bát, mắt ngó xuống đất, chân bước khoan thai.

Thái Tử liền hỏi quân hầu: Đó là người gì?

Đó là vị Sa Môn, quân hầu đáp.

Sao gọi là Sa Môn?

Sa Môn là người xa lìa ân ái, xuất gia học đạo, chế ngự các căn, không nhiễm mê ngoại dục, lòng xót thương hết thảy, không làm tổn hại vật gì, gặp khó cũng không phiền, gặp vui cũng không mong, hay nhẫn như đất, nên gọi là Sa Môn.

Thái Tử bèn nói: Lành thay, đó là đạo chân chính, tuyệt hẳn mọi trần lụy, vi diệu thanh hư. Chỉ có thế là khoái thích thôi.

Thái Tử liền bảo quân hầu đưa xe đến gần và hỏi Sa Môn rằng: Ông cắt tóc, cạo râu mang y cầm bát như vậy, chí ông muốn cầu chuyện gì?

Sa Môn đáp: Phàm người xuất gia là cốt điều phục tâm ý, xa lìa trần cấu, thương cứu quần sanh, không làm điều nhiễu hại, trong lòng rỗng rang tịch mịch, chỉ có bề giữ đạo mà thôi.

Thái Tử khen: Hay lắm. Đạo này rất chân chính.

Liền bảo quân hầu: Mang áo trân bảo của ta và xa giá về, tâu lại Phụ Vương biết rằng ngay tại đây, ta sẽ cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Vì ta muốn điều phục tâm ý, xa lìa trần cấu, giữ mình thanh tịnh để cầu chánh đạo.

Quân hầu liền đem xa giá và y phục của Thái Tử về tâu lại Phụ Vương, còn Thái Tử thì cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường