Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Du Hành - Phần Ba

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

KINH DU HÀNH  

PHẦN BA  

Thế Tôn vì Bà La Môn mà nói một bài tụng:

Nếu đem ẩm thực,

Y phục, ngọa cụ,

Cho người trì giới,

Tất được quả lớn.

Đó là bạn thật,

Chung thủy theo nhau

Đến bất cứ đâu,

Như bóng theo hình.

Vậy nên gieo thiện,

Làm lương đời sau.

Phước là nền tảng,

Chúng sanh an trụ.

Phước là Thiên hộ,

Đường đi không nguy.

Sống không gặp nạn,

Chết được sanh Thiên.

Rồi Thế Tôn nói pháp vi diệu cho Bà La Môn, mở bày, chỉ dẫn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ. Sau đó, Ngài rời chỗ ngồi mà đi.

Lúc ấy, ở địa phương này thóc quý, đói kém, nên khất thực khó được.

Phật bảo A Nan: Hãy gọi các Tỳ Kheo hiện ở địa phương này tập họp ở giảng đường.

A Nan đáp vâng, rồi thừa lệnh Phật kêu gọi các Tỳ Kheo xa gần về tập họp hết ở giảng đường.

Sau khi đại chúng trong nước này đều đã tập họp, A Nan bạch Phật: Đại chúng đã tập họp, cúi mong Đức Thánh biết thời.

Bấy giờ, Phật rời chỗ ngồi, đi đến giảng đường, ngồi lên chỗ dọn sẵn, bảo các Tỳ Kheo: Đất này đói kém, khất thực khó khăn, các ngươi nên chia thành từng nhóm, tùy theo chỗ quen biết, hãy đến Tỳ Xá Ly và nước Việt Kỳ mà an cư ở đó để có thể không bị thiếu thốn.

Ta một mình cùng với A Nan an cư ở đây.

Các Tỳ Kheo vâng lời dạy, ra đi. Riêng Phật với A Nan ở lại. Về sau, trong lúc an cư, thân Phật nhuốm bệnh, khắp cả mình đều đau.

Phật tự nghĩ: Ta nay cả người đều đau mà các đệ tử đều không ở đây. Nếu ta nhập Niết Bàn thì không thích hợp. Vậy ta hãy tinh cần tự lực lưu lại thọ mạng. Rồi Thế Tôn ra khỏi Tịnh Thất, đến ngồi chỗ mát mẻ.

A Nan trông thấy liền vội đến, bạch Phật rằng: Nay con xem gương mặt Thế Tôn, bệnh hình như có bớt.

A Nan lại nói: Thế Tôn bệnh, tâm con sợ hãi, lo buồn thắt chặt, hoang mang không biết phương hướng.

Nhưng hơi thở chưa dứt, còn chút tỉnh táo, con thầm nghĩ rằng: Thế Tôn chưa diệt độ ngay, con mắt của đời chưa tắt, đại pháp chưa suy tổn, sao nay Ngài không có điều gì dạy bảo các đệ tử?

Phật bảo A Nan: Chúng Tăng còn có điều gì cần ở ta nữa?

Nếu có ai tự mình nói: Ta duy trì Chúng Tăng, ta nhiếp hộ Chúng Tăng, thì người ấy nên có lời di giáo cho Chúng Tăng.

Như Lai không nói: Ta duy Trì Chúng Tăng. Ta nhiếp hộ Chúng Tăng.

Vậy tại sao ta lại phải có lời di giáo cho Chúng Tăng?

Này A Nan, những pháp ta đã giảng thuyết, trong cũng như ngoài đều đã hoàn tất. Ta không bao giờ tự xưng sở kiến thông đạt. Ta nay đã già rồi, tuổi đã đến tám mươi rồi. Cũng như cỗ xe cũ kỹ, nhờ phương tiện tu sửa mà có thể đi đến nơi.

Thân ta cũng vậy, nhờ sức phương tiện còn hơi duy trì được tuổi thọ, tự lực tinh tấn mà nhẫn chịu sự đau nhức này. Không suy niệm tất cả tưởng, khi nhập vô tưởng định, thân an ổn, không có não hoạn.

Vì vậy, A Nan, hãy tự mình thắp sáng, thắp sáng nơi pháp, chớ thắp sáng nơi khác. Hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi pháp, chớ nương tựa nơi khác.

Thế nào là hãy tự mình thắp sáng, thắp sáng nơi pháp, chớ thắp sáng nơi khác, hãy tự nương tựa mình, nương tựa pháp, chớ nương tựa nơi khác?

Này A Nan, Tỳ Kheo quán nội thân, tinh cần không biếng nhác, ghi nhớ không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán ngoại thân. Quán nội ngoại thân, tinh cần không biếng nhác, ghi nhớ không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thọ, quán ý, quán pháp cũng vậy.

Này A Nan, đó gọi là hãy tự thắp sáng, thắp sáng nơi pháp, chớ thắp sáng nơi khác. Hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi pháp, chớ nương tựa nơi khác.

Này A Nan, sau khi ta diệt độ, nếu có ai có thể tu hành pháp này, người đó là đệ tử chân thật của Ta, là bậc nhất hữu học.

Phật bảo A Nan, hãy cùng đi đến Tháp Giá Bà La. A Nan vâng lời.

Như Lai bèn đứng dậy, mang y cầm bát đến dưới một gốc cây, bảo A Nan: Hãy trải chỗ ngồi. ta đau lưng, muốn nghỉ lại đây.

An Nan đáp: Vâng.

Trải chỗ ngồi và sau khi Như Lai đã ngồi xuống, A Nan dọn một chỗ ngồi nhỏ ngồi trước Phật.

Phật nói: Này A Nan, những ai tu Bốn Thần Túc, tu tập nhiều, thường ghi nhớ không quên, người ấy tùy theo ý muốn có thể kéo dài tuổi thọ hơn một kiếp.

A Nan, Phật đã tu tập nhiều Bốn Thần Túc, chuyên niệm không quên, tùy theo ý muốn, Như Lai có thể sống hơn một kiếp, để trừ minh ám cho đời, đem lại nhiều lợi ích, Trời và người đều được an ổn.

Lúc bấy giờ A Nan im lặng không trả lời. Phật nói như vậy ba lần, A Nan cũng im lặng không trả lời. Khi ấy A Nan bị ma ám, mê muội không tỏ rõ. Phật đã ba lần hiện tướng, nhưng A Nan không biết mà thỉnh cầu.

Phật bảo A Nan: Hãy biết thời. A Nan vâng ý chỉ của Phật, đứng dậy lễ Phật rồi lui. A Nan đi cách Phật không xa, ngồi dưới một gốc cây, tĩnh ý tư duy.

Trong khoảng thời gian không lâu, Ma Ba Tuần đến bạch Phật: Ý Phật không muốn vào Niết Bàn sớm. Nay chính là lúc, Phật nên mau chóng diệt độ.

Phật bảo Ma Ba Tuần: Hãy thôi! Hãy thôi!

Ta tự biết thời. Như Lai nay chưa nhập Niết Bàn, vì còn đợi Chúng Tỳ Kheo của ta hội đủ.

Có người có thể tự điều phục, dũng mãnh, không khiếp sợ, đã đến chỗ an ổn, đã đạt được mục đích của mình, là hướng đạo của loài người, thuyết giảng Kinh Giáo, hiển bày cú nghĩa, nếu có dị luận thì có thể hàng phục bằng chánh pháp, lại có thể bằng thần biến mà tự mình tác chứng.

Các đệ tử như thế chưa hội đủ. Lại còn có các Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả cũng như thế, đều chưa tụ hội đủ. Nay điều cần thiết là triển khai phạm hạnh, phổ biến giác ý, khiến cho Chư Thiên và loài người thảy đều thấy được sự thần diệu.

Bấy giờ Ma Ba Tuần lại bạch Phật: Thuở xưa, ở Uất Bệ La bên dòng sông Ni Liên Thuyền, dưới gốc cây A Du Ba Ni Câu Luật, Phật khi mới thành Chánh Giác, tôi đã đến chỗ Như Lai mà khuyên mời Ngài hãy nhập Niết Bàn rằng: Nay thật là đúng lúc, Ngài hãy nhanh chóng nhập Niết Bàn.

Khi ấy Như Lai trả lời tôi rằng: Hãy thôi đi, này Ba Tuần. Ta tự biết thời. Như Lai nay chưa nhập Niết Bàn, vì còn đợi đệ tử ta tụ hội đông đủ v.v... cho đến, Chư Thiên và loài người thấy được sự thần thông biến hóa, khi ấy ta mới nhập Niết Bàn.

Nay chính là lúc ấy, sao Ngài không nhập Niết Bàn?

Phật nói: Hãy thôi đi, này Ba Tuần. Phật tự biết thời. ta không trụ thế bao lâu nữa. Sau ba tháng nữa, tại bản sanh địa Câu Thi Na Kiệt, vườn Sa La, giữa đôi cây, ta sẽ diệt độ.

Lúc ấy, Ma Ba Tuần nghĩ rằng Phật tất không nói dối, nhất định sẽ diệt độ, bèn vui mừng phấn khởi, hốt nhiên biến mất.

Ma đi chưa bao lâu, Phật ở nơi Tháp Giá Bà La, bằng định ý tam muội, xả thọ hành. Ngay lúc đó, Đại Địa chấn động. Nhân dân cả nước thảy đều kinh sợ, lông tóc dựng ngược.

Phật phóng ánh sáng rọi suốt vô cùng, nơi chỗ tối tăm cũng được soi sáng, thảy đều trông thấy nhau.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ tụng rằng:

Trong hai hành hữu vô,

Ta nay xả hữu vi.

Nội chuyên tam muội định

Như chim ra khỏi trứng.

Lúc bấy giờ Hiền Giả A Nan tâm kinh sợ, lông tóc dựng ngược, vội vàng đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng sang một bên, bạch Phật: Lạ thay, Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà đất rung động?

Phật bảo A Nan: Ở đời, có tám nguyên nhân khiến đất rung động.

Những gì là tám?

Đất y trên nước. Nước y trên gió. Gió y trên hư không. Trong hư không có ngọn gió lớn có khi tự nổi lên, khi ấy khối lớn nước bị khuấy động. Khối nước lớn bị khuấy động thì khắp cả đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ nhất.

Lại nữa, này A Nan, có khi có Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni đắc đạo, hoặc Tôn Thiên Đại Thần quán thể tánh nước nhiều, quán thể tánh đất ít, muốn tự thử năng lực của mình, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ hai.

Lại nữa, này A Nan, khi Bồ Tát từ Trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ ba.

Lại nữa, A Nan, khi Bồ Tát ra khỏi thai mẹ, sanh từ hông phải, chuyên niệm không tán loạn, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ tư.

Lại nữa, A Nan, khi Bồ Tát vừa thành Vô Thượng Chánh Giác, ngay lúc ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ năm.

Lại nữa, A Nan, khi Phật vừa thành đạo chuyển Vô Thượng pháp luân mà ma hoặc Thiên Ma, Sa Môn, Bà La Môn thảy đều không thể chuyển, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ sáu.

Lại nữa, A Nan, khi sự giáo giới của Phật gần hoàn tất, chuyên tâm không tán loạn, Phật xả bỏ thọ hành, khi đó khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ bảy.

Lại nữa, này A Nan, khi Như Lai ở nơi Vô Dư Niết Bàn mà nhập Niết Bàn, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ tám.

Do tám nguyên nhân ấy mà đất rung động.

Rồi Thế Tôn nói bài kệ:

Đấng Lưỡng Túc Tối Tôn,

Đại Sa Môn soi sáng đời,

Được A Nan thưa hỏi:

Nguyên nhân gì đất rung?

Như Lai diễn từ âm,

Tiếng như chim Ca Lăng:

Ta nói, hãy lắng nghe,

Nguyên do đất rung động.

Đất nhân y trên nước,

Nước nhân y trên gió.

Nếu gió trổi hư không,

Đất vì thế rung mạnh.

Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni

Muốn thử thần thông lực,

Núi, biển, trăm cây cỏ,

Cõi đất thảy rung động.

Thích, Phạm, các Tôn Thiên,

Ý muốn đất rung động,

Núi biển các quỷ thần,

Cõi đất thảy rung động.

Bồ Tát, Lưỡng Túc Tôn,

Trăm phước tướng đã đủ,

Khi mới nhập thai mẹ,

Khi ấy đất rung động.

Mười tháng trong thai mẹ,

Như rồng nằm thảm đệm,

Từ hông hữu xuất sanh,

Khi ấy đất rung động.

Phật khi còn trai trẻ

Tiêu diệt dây kết sử,

Thành đạo thắng vô thượng,

Khi ấy đất rung động.

Thành Phật, Chuyển Pháp Luân,

Ở trong vườn Lộc Dã,

Đạo lực hàng phục ma,

Khi ấy đất rung động.

Thiên ma nhiều phen thỉnh,

Khuyên Phật nhập Niết Bàn.

Khi Phật xả thọ mạng,

Khi ấy đất rung động.

Đại Đạo Sư, Chí Tôn,

Thần Tiên, không tái sanh,

Vào tịch diệt, bất động,

Khi ấy đất rung động.

Tịnh nhãn, nói các duyên,

Đất rung vì tám sự.

Do đây và khác nữa,

Khi ấy đất rung động.

Phật nói với A Nan:

Này A Nan.

Đời có tám chúng:

Một là chúng Sát Lỵ.

Hai là chúng Bà La Môn.

Ba là chúng Cư Sĩ.

Bốn là chúng Sa Môn.

Năm là chúng Tứ Thiên Vương.

Sáu là chúng Đao Lợi Thiên.

Bảy là chúng ma.

Tám là chúng Phạm Thiên.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường