Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Du Hành - Phần Tám

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

KINH DU HÀNH  

PHẦN TÁM  

Sau khi Phật diệt độ, các Tỳ Kheo buồn đau, vật vã, gieo mình xuống đất, lăn lộn kêu than không tự kềm chế nổi, nức nở mà nói rằng:

Như Lai diệt độ sao chóng thay.

Thế Tôn diệt độ sao sớm thay.

Đại pháp sao chìm lặn sớm thay.

Quần sanh mãi suy sụp, con mắt của thế gian đã tắt.

Như thân cây lớn, trốc rễ, gãy cành. Lại như con rắn bị đứt khúc, bò trườn, uốn lượn, không biết trườn đi lối nào.

Các Tỳ Kheo cũng vậy, buồn đau, vật vã, gieo mình xuống đất, lăn lộn kêu than không tự kềm chế nổi, nức nở mà nói rằng:

Như Lai diệt độ sao chóng thay!

Thế Tôn diệt độ sao sớm thay!

Đại pháp sao chìm lặn sớm thay!

Quần sanh mãi suy sụp, con mắt của thế gian đã tắt.

Bấy giờ, Trưởng Lão A Na Luật khuyên: Thôi các Tỳ Kheo, các Ngài chớ buồn khóc, kẻo có hàng Chư Thiên nhìn xuống ngó thấy họ chê trách.

Các Tỳ Kheo hỏi A Na Luật: Trên ấy có bao nhiêu Thiên Thần?

A Na Luật nói: Đầy kín hư không. Kể sao hết.

Thảy đều ở trong hư không, bồi hồi, bứt rứt, bước đi khập khiễng, gạt nước mắt mà than rằng:

Như Lai diệt độ sao chóng thay!

Thế Tôn diệt độ sao sớm thay!

Đại pháp sao chìm lặn sớm thay!

Quần sanh mãi suy sụp, con mắt của thế gian đã tắt. Như thân cây lớn, trốc rễ, gãy cành. Lại như con rắn bị đứt khúc, bò trườn, uốn lượn, không biết trườn đi lối nào.

Các Chư Thiên cũng vậy, thảy đều ở trong hư không, bồi hồi, bứt rứt, bước đi khập khiễng, gạt nước mắt mà than rằng:

Như Lai diệt độ sao chóng thay!

Thế Tôn diệt độ sao sớm thay!

Đại pháp sao chìm lặn sớm thay!

Quần sanh mãi suy sụp, con mắt của thế gian đã tắt.

Các Tỳ Kheo suốt đêm đến sáng cùng nhau giảng luận pháp ngữ.

Trưởng Lão A Na Luật bảo A Nan đi vào thành báo tin cho dân chúng dòng Mạt La biết Phật đã diệt độ, như họ có muốn cúng dường thế nào thì mau đến kịp thời.

A Nan vâng lời, đứng dậy, lễ chân Phật, rồi dắt theo một Tỳ Kheo, vừa khóc vừa đi vào thành. Từ xa A Nan trông thấy năm trăm người Mạt La do có chút duyên sự đang nhóm tại một chỗ.

Trông thấy A Nan, họ đều đứng dậy nghinh tiếp, đảnh lễ và hỏi: Tôn Giả có việc gì đến đây sớm vậy?

A Nan đáp: Vì lợi ích các Ngài, nên mới sáng sớm tôi đã đến đây. Các Ngài nên biết, Như Lai đêm qua đã diệt độ rồi. Các Ngài muốn cúng dường thế nào thì nên đến kịp thời.

Chúng Mạt La vừa nghe tin, ai nấy bi cảm buồn rơi lệ than kể: Phật vào Niết Bàn sao vội quá. Con mắt của thế gian diệt mất sao mau quá.

A Nan khuyên: Thôi thôi các Ngài! Chớ có buồn khóc!

Muốn cho pháp hữu vi không bị biến hoại, không thể nào được. Đức Như Lai đã dạy hễ có sanh tức có chết, có hội hợp tức có chia ly, hết thảy ân ái đều vô thường cả.

Chúng Mạt La mới bàn nhau rằng: Chúng ta hãy trở về nhà mang hương hoa, kỹ nhạc, đi mau đến rừng cây Song Thọ để cúng dường kim thân suốt một ngày, rồi thỉnh kim thân Phật đặt lên một cái giường, khiến thanh niên Mạt La nâng bốn góc giường khiêng đi. Có Tràng Phan, lọng tàn, đốt hương, rải hoa, trỗi nhạc, cúng dường.

Đưa vào thành cửa Đông khắp các nẻo cho dân chúng cúng dường, rồi đưa ra cửa thành Tây, đến một đồi cao rộng mà trà tỳ.

Bàn xong, ai về nhà nấy, sắm sửa các thứ hương hoa, kỹ nhạc, rồi đi đến rừng Song Thọ, cúng dường Xá Lợi. Suốt một ngày rồi, họ đặt Xá Lợi Phật lên trên một cái giường. Chúng Mạt La cùng đến khiêng. Nhưng giở không lên.

Trưởng Lão A Na Luật mới bảo: Này các Ngài chớ nhọc công khiêng.

Hiện nay có các Chư Thiên muốn đến khiêng giường.

Các người Mạt La hỏi: Ý Chư Thiên thế nào mà lại muốn khiêng giường?

A Na Luật đáp: Các người muốn mang hương hoa, kỹ nhạc cúng dường kim thân suốt một ngày, rồi thỉnh kim thân Phật đặt lên một cái giường, khiến thanh niên Mạt La nâng bốn góc giường khiêng đi.

Có tràng phan, lọng tàn, đốt hương, rải hoa, trỗi nhạc cúng dường. Đưa vào thành cửa Đông khắp các nẻo cho dân chúng cúng dường, rồi đưa ra thành cửa Tây, đến một đồi cao rộng mà trà tỳ.

Theo ý Chư Thiên thì muốn lưu kim thân lại trong bảy ngày để kính lễ cúng dường bằng các thứ hoa hương, kỹ nhạc, sau mới thỉnh lên giường, cho các thanh niên Mạt La nâng bốn góc rước vào thành cửa Đông, đi khắp các nẻo để cho dân chúng cúng dường, rồi đưa ra thành cửa Bắc, qua sông Hi Liên Thiền đến Chùa Thiên Quan mà trà tỳ.

Ý Chư Thiên là như vậy nên khiến cho giường bất động.

Các Mạt La nói: Hay lắm! Xin tùy ý Chư Thiên!

Chúng Mạt La bảo nhau: Chúng ta hãy vào thành trước, đi đến các ngõ đường, dọn bằng phẳng các con đường, quét tước, đốt hương, rồi trở lại đây để cúng dường kim thân trong bảy ngày.

Rồi các Mạt La cùng vào thành, đi đến các ngõ đường, dọn bằng phẳng các con đường, quét tước, đốt hương, xong rồi ra khỏi thành, trở lại rừng Song Thọ, dùng hương hoa, kỹ nhạc để cúng dường kim thân.

Sau bảy ngày, vào lúc Trời chiều, họ thỉnh kim thân Phật đặt lên một cái giường, khiến các thanh niên Mạt La nâng bốn góc khiêng đi thong thả giữa đám đông người hộ tống, có tràng phan, hương hoa, âm nhạc cúng dường.

Từ không trung các vị Trời Đao Lợi dùng hoa Văn Đà La, hoa Ưu Đàm Bát La, hoa Ba Đầu Ma, hoa Câu Vật Đầu, hoa Phân Đà Lỵ và bột hương Chiên Đàn nhà Trời rải trên kim thân và tràn ngập các ngả đường, Chư Thiên tấu nhạc, quỷ thần ca ngâm.

Khi ấy các người Mạt La nói với nhau: Hãy gác qua nhạc loài người. Xin tấu nhạc Trời để cúng dường Xá Lợi.

Rồi các người Mạt La khiêng giường tiến tới dần, vào cửa thành phía Đông, đến mỗi ngả đường thì dừng lại để cho dân chúng đốt hương, tán hoa, trỗi nhạc cúng dường.

Lúc ấy có nàng Lộ Di dòng Mạt La vốn dốc lòng tin Phật, cầm một đóa hoa vàng lớn như bánh xe cúng dường kim thân và một bà lão cất tiếng tán thán rằng: Các Mạt La này may được phúc lợi lớn. Như Lai cuối cùng diệt độ tại đây. Khắp nước nhân dân hớn hở cúng dường.

Họ cúng dường xong, đưa kim thân ra thành cửa Bắc, qua sông Hi Liên Thiền đến Chùa Thiên Quan, đặt giường xuống đất rồi thưa với A Nan: Chúng tôi bây giờ nên cúng dường cách nào nữa?

A Nan bảo: Tôi trực tiếp nghe từ Phật, lãnh thọ lời Phật dạy rằng: Muốn tẩn táng Xá Lợi hãy làm như pháp tẩn táng Chuyển Luân Thánh Vương.

Hỏi: Phép tẩn táng Chuyển Luân Thánh Vương là thế nào?

Đáp: Về phép tẩn táng Chuyển Luân Thánh Vương, trước hết lấy nước thơm tắm rửa thân thể, rồi lấy vải bông mới quấn thân thể, rồi lấy năm trăm tấm vải lần lượt quấn vào, đặt thân vào Kim Quan.

Sau khi đã tẩm dầu mè, lại đặt Kim Quan trong một cái quách thứ hai lớn bằng sắt, bên ngoài là lớp quách bằng gỗ hương Chiên Đàn. Chất các thứ vải dày, hương thơm lên trên mà trà tỳ.

Trà tỳ xong lượm lấy Xá Lợi, dựng Tháp treo phan thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trông thấy Tháp của pháp Vương mà tưởng nhớ lại chánh hóa của Vua đã làm lợi ích cho nhiều người.

A Nan, ngươi muốn tẩn táng ta, trước hết lấy nước thơm tắm rửa thân thể, rồi lấy vải bông mới quấn thân thể, rồi lấy năm trăm tấm vải lần lượt quấn vào, đặt thân vào Kim Quan.

Sau khi đã tẩm dầu mè, lại đặt Kim Quan trong một cái quách thứ hai lớn bằng sắt, bên ngoài là lớp quách bằng gỗ hương Chiên Đàn.

Chất các thứ vải dày, hương thơm lên trên mà trà tỳ. Trà tỳ xong lượm lấy Xá Lợi, dựng Tháp treo phan thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trông thấy Tháp của Phật mà tưởng nhớ lại đạo hóa của pháp Vương Như Lai, sống thì được phước lợi, chết thì sanh Thiên. Trừ người đã đắc đạo.

Chúng Mạt La bảo nhau: Chúng ta về thành sắm sửa các đồ tẩn táng, các thứ hương hoa, bông gòn, quan quách, dầu thơm và vải lụa trắng. Những người Mạt La vào thành sắm sửa các thứ xong, trở lại Chùa Thiên quan, dùng nước hương tắm rửa thân Phật, rồi lấy vải bông mới bọc quanh, tiếp quấn năm trăm lớp vải trắng, rồi đặt vào trong Kim Quan đã tẩm dầu thơm, lại đặt Kim Quan vào một cái quách lớn bằng sắt, rồi một cái quách gỗ Chiên Đàn bọc ngoài. Xong, lấy củi thơm chất đầy lên trên.

Tiếp đó, vị Đại Thần dòng Mạt La tên Lộ di, cầm cây đuốc lớn châm lửa vào giàn hỏa, song lửa không cháy. Các người Mạt La Trưởng Lão cũng cầm lửa châm theo, song lửa vẫn không cháy.

Trưởng Lão A Na Luật bảo chúng Mạt La: Thôi các Ngài, chẳng phải sức các Ngài đốt được đâu. Lửa không cháy là vì ý Chư Thiên vậy.

Chúng Mạt La hỏi: Tại sao Chư Thiên lại khiến cho lửa không cháy?

A Na Luật đáp: Chư Thiên Nhân thấy Đại Ca Diếp đang dẫn năm trăm đệ tử từ nước Ba Bà đi về cho kịp được thấy Phật khi chưa trà tỳ. Hiện Tôn Giả đang ở nửa đường. Chư Thiên biết ý nên làm cho lửa không cháy.

Chúng Mạt La nói: Xin để toại ý ấy. Lúc bấy giờ, Đại Ca Diếp dắt năm trăm đệ tử, từ nước Ba Bà đi về vừa ngang giữa đường, thì gặp một người Ni Kiền Tử trong tay cầm một đóa hoa Văn Đà La.

Đại Ca Diếp đến gần hỏi: Này bạn! Bạn từ đâu đến?

Ni Kiền Tử đáp: Tôi từ thành Câu Thi đến.

Ca Diếp lại hỏi: Bạn có biết thầy ta không?

Có biết.

Lại hỏi: Thầy ta hiện nay thế nào?

Đáp: Đã diệt độ cách đây bảy ngày. Tôi từ đó đến, nên lượm được đóa Thiên hoa này. Ca Diếp nghe xong lòng rất buồn bã.

Năm trăm Tỳ Kheo nghe Phật diệt độ, đều buồn khóc, quay cuồng kêu than không tự kềm chế nổi: Như Lai diệt độ làm sao vội quá. Thế Tôn diệt độ sao vội quá. Đại pháp chìm lặng làm sao mau quá. Con mắt của thế gian đã diệt, chúng sanh suy đọa lâu dài. Ví như cây lớn bị trốc gốc, cành nhánh gãy đổ. Lại như rắn bị chặt đuôi, quay cuồng lăn lóc, không biết trườn đi đâu.

Nhưng trong chúng ấy có một Tỳ Kheo tên Bạt Nan Đà dòng họ Thích, ngăn các Tỳ Kheo rằng: Các ngươi chớ lo buồn. Thế Tôn diệt độ thì chúng ta được tự do. Ông già ấy trước đây thường hay bảo chúng ta nên làm thế này, không nên làm thế này. Nhưng nay về sau thì tùy ý chúng ta làm.

Ca Diếp nghe rồi, lòng càng buồn, mới bảo các Tỳ Kheo sửa soạn y bát đi mau đến Song Thọ trước khi chưa trà tỳ, có thể trông thấy Phật. Các Tỳ Kheo nghe Đại Ca Diếp nói xong đều đứng dậy tùy tùng Ca Diếp đến thành Câu Thi, qua sông Hi Liên Thiền đến Chùa Thiên Quan, rồi đến chỗ A Nan.

Hỏi han xong, đứng sang một bên, nói với A Nan: Chúng tôi muốn được thấy Phật một lần chót khi chưa trà tỳ, có thể được không?

A Nan đáp: Tuy chưa trà tỳ nhưng khó mà thấy được, vì thân Phật đã được tắm nước hương, quấn một lớp kiếp ba ngoài bọc năm trăm lớp vải trắng, đặt trong một Kim Quan.

Kim Quan lại đặt trong một cái quách bằng sắt, ngoài hết có bọc một cái quách bằng gỗ Chiên Đàn, nên khó thấy được. Ca Diếp năn nỉ xin tới ba lần, A Nan vẫn trả lời như cũ, là khó mà thấy Phật được nữa.

Ngài Đại Ca Diếp mới hướng mặt về hỏa đàn để chiêm bái, thì ngay khi ấy bỗng nhiên từ trong ba lớp quan quách, Phật đưa hai bàn chân ra ngoài. Chân có màu sắc khác lạ.

Ca Diếp thấy vậy, ngạc nhiên hỏi A Nan: Thân Phật kim sắc, sao chân Ngài lại có sắc khác?

A Nan đáp: Trước đây có một bà già, tiếc thương Đức Như Lai, tiến tới lấy tay vỗ vào chân Phật, để rơi nước mắt trên chân Ngài cho nên có màu sắc khác như thế. Nghe xong, Ca Diếp lại không vui, liền hướng tới hỏa đàn đảnh lễ kim thân Phật. Bốn bộ chúng và Chư Thiên trên không trung cũng đồng thời tác lễ. Chân Phật bỗng không hiện nữa.

Ngài Đại Ca Diếp vừa đi quanh hỏa đàn ba vòng vừa tán dương rằng:

Con nay cúi đầu lễ

Đức Đạo Sư Vô Thượng,

Thánh trí không nghĩ lường,

Thánh trí cao tột bậc.

Đức Sa Môn tối cao,

Tuyệt đối không tỳ uế,

Thanh tịnh không nhiễm ái,

Tôn quý giữa Nhân Thiên.

Con nay cúi đầu lễ

Đấng Đại Hùng bậc nhất,

Khổ hạnh chẳng ai bằng,

Lìa bỏ để độ sanh.

Kính lễ Đấng Thế Tôn

Không nhiễm ô trần cấu,

Tham, sân, si dứt sạch,

Vui trong hạnh không tịch.

Kính lễ Đấng Thế Tôn,

Không hai, không thể sánh.

Khéo giải thoát thế gian,

Chí Tôn giữa Trời người.

Kính lễ An Ồn Trí,

Ngộ Tứ Đế, tịch tịnh,

Vô Thượng giữa Sa Môn,

Khiến bỏ tà về chánh.

Kính lễ đạo trạm nhiên,

Thế Tôn nơi tịch diệt.

Không nhiệt não tì uế,

Thân tâm thường vắng lặng.

Kính lễ Đấng Vô Nhiễm

Bậc trừ hết trần cấu,

Tuệ Nhãn không hạn lượng,

Cam Lộ tiếng oai vang.

Kính lễ Đấng Vô Đẳng,

Hy hữu khó nghĩ nghì,

Tiếng nói Như Sư Tử,

Ở rừng không khiếp sợ.

Hàng ma, vượt bốn tánh

Cho nên con kính lễ.

Đại Ca Diếp oai đức lớn lao và đủ bốn biện tài, vừa đọc xong bài kệ trên, thì hỏa đàn không đốt mà tự nhiên bừng cháy.

Chúng Mạt La bảo nhau: Ngọn lửa cháy mạnh quá khó ngăn, e cháy tiêu hết Xá Lợi.

Hãy tìm đâu lấy nước dập tắt.

Lúc đó có vị thần cây Song Thọ đang đứng bên giàn hỏa, vốn dốc lòng tin Phật, dùng thần lực làm tắt ngọn lửa.

Chúng Mạt La lại bảo nhau: Mười hai do tuần chung quanh thành Câu Thi này có bao nhiêu hoa thơm hái hết, đem về dâng cúng Xá Lợi.

Rồi họ đi ra hai bên thành tìm các thứ hoa thơm đem về cúng dường Xá Lợi.

Lúc đó dân Mạt La nước Ba Bà nghe Phật diệt độ tại Song Thọ, tự nghĩ: Ta nên đến đó cầu lấy phần Xá Lợi về dựng Tháp cúng dường tại trong nước.

Các người Mạt La nước Ba Bà liền hạ lệnh đem bốn thứ binh là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, đi đến thành Câu Thi và cử sứ giả nói: Chúng tôi nghe Đức Phật đã diệt độ tại đây. Phật cũng là thầy chúng tôi. Vì lòng kính mộ Ngài, chúng tôi đến xin phần Xá Lợi về nước dựng Tháp cúng dường.

Vua Câu Thi đáp: Thật vậy, đúng như Ngài nói. Nhưng vì Ðức Thế Tôn đã giáng lâm và diệt độ tại đây. Nhân dân trong nước tôi tự lo cúng dường. Phiền các Ngài từ xa đến cầu Xá Lợi.

Nhưng điều đó hẳn là không được.

Đồng thời dân Bạt Ly nước Giá La Phả, dân Câu Lỵ nước La Ma Già, dân chúng dòng Bà La Môn nước Tỳ Lưu Đề, dân chúng dòng họ Thích nước Ca Duy La Vệ, dân chúng dòng Lệ Xa nước Tỳ Xá Ly và Vua A Xà Thế nước Ma Kiệt, nghe Đức Như Lai diệt độ tại cây Song Thọ ở thành Câu Thi, đều tự nghĩ: Ta nay nên đến đó chia phần Xá Lợi.

A Xà Thế và các Vua kia mới hạ lệnh trong nước đem bốn thứ binh mã tiến qua Sông Hằng.

Vua A Xà Thế sai Bà La Môn Hương Tánh: Ngươi nhân danh ta vào thành Câu Thi hỏi thăm Vua Mạt La, đời sống thường nhật có thoải mái chăng, lui tới có khỏe mạnh chăng và nói ta với quý quốc xưa nay vốn tôn kính nhau, láng giềng hòa nghĩa, chưa có xảy ra điều chi tranh tụng. Nay ta nghe Như Lai diệt độ tại quý Quốc.

Đối với Ðức Thế Tôn, lòng ta thật hết sức tôn kính, nên chẳng quản xa xôi, đến thỉnh phần di cốt, đem về nước dựng Tháp cúng dường. Nếu nhận lời, ta sẽ chia bớt tài bảo trong nước ta cho.

Bà La Môn Hương Tánh vâng lệnh, đến thành Câu Thi nói với các người Mạt La: Đại Vương nước Ma Kiệt có lời thăm hỏi vô vàn.

Các Ngài đi đứng có nhẹ nhàng không?

Bước đi có khoẻ mạnh không?

Và nhắn rằng, Ta với quý quốc xưa nay vốn tôn kính nhau, láng giềng hòa nghĩa, chưa có xảy ra điều chi tranh tụng. Nay ta nghe Như Lai diệt độ tại quý quốc. Đối với Ðức Thế Tôn, lòng ta thật hết sức tôn kính, nên chẳng quản xa xôi, đến thỉnh phần di cốt, đem về nước dựng Tháp cúng dường. Nếu nhận lời, ta sẽ chia bớt tài bảo trong nước Ta cho.

Các người Mạt La trả lời: Quả như vậy. Quả như lời ông nói. Nhưng vì Ðức Thế Tôn đã giáng lâm và diệt độ tại đây, thì nhân dân trong nước tôi tự lo cúng dường. Phiền các Ngài từ xa đến cầu xin Xá Lợi. Nhưng điều đó hẳn không thể được.

Các Quốc Vương liền triệu tập quần thần lập nghị, tụng cáo rằng:

Chúng ta hòa nghị,

Xa đến cúi đầu,

Khiêm tốn yêu cầu.

Như không chấp nhận

Tứ binh đã sẵn.

Không tiếc thân mạng.

Dùng nghĩa không được,

Tất phải dùng lực.

Vua Câu Thi cũng triệu tập quần thần lập nghị trả lời:

Các người xa nhọc,

Khuất nhục cầu xin

Như Lai di thể,

Nhưng không cho được.

Kia muốn dùng binh,

Ta đây cũng sẵn.

Chống trả đến cùng,

Chưa từng biết sợ.

Bấy giờ, Bà La Môn Hương Tánh đứng ra hiểu dụ mọi người: Chư Hiền lãnh thụ giáo huấn của Phật đã lâu, miêng tụng pháp ngôn, tâm khoác nhân hóa, thường mong cho chúng sanh thảy được an lành, nay há lẽ vì giành Xá Lợi của Phật mà trở nên tàn hại nhau sao?

Di thể Như Lai nếu muốn có lợi ích rộng rãi, thì Xá Lợi hiện tại nên chia ra nhiều phần. Chúng đều khen phải. Họ lại bàn nghị nên nhờ ai đủ sức chia giúp. Mọi người đều nói Bà La Môn Hương Tánh là người nhân trí quân bình, có thể chia được.

Các Quốc Vương bèn sai Hương Tánh: Ngươi hãy vì chúng ta mà chia Xá Lợi làm tám phần bằng nhau. Được lệnh của các Quốc Vương, Hương Tánh đến ngay chỗ Xá Lợi, cúi đầu đảnh lễ, xong từ từ trước hết nhặt lấy răng trên của Phật để riêng một nơi.

Rồi bảo sứ giả mang cái răng trên của Phật đến chỗ Vua A Xà Thế rằng: Ngươi nhân danh ta tâu lên Vua rằng: Đại Vương, đời sống thường nhật có thoải mái chăng?

Bước đi có khỏe không?

Xá Lợi chưa đến chắc Đại Vương trông lắm?

Nay tôi giao sứ giả răng trên của Như Lai để kịp cúng dường cho thỏa lòng Đại Vương trông ngóng. Sáng mai, lúc sao mai mọc, Xá Lợi chia xong, tôi sẽ đích thân dâng đến.

Khi ấy, sứ giả vâng lời, đi đến chỗ Vua A Xà Thế, tâu rằng: Bà La Môn Hương Tánh kính lời thăm hỏi vô vàn: Đại Vương, đời sống thường nhật có thoải mái không?

Bước đi có khỏe không.

Xá Lợi chưa đến chắc Đại Vương trông lắm?

Nay tôi giao sứ giả răng trên của Như Lai để kịp cúng dường cho thỏa lòng Đại Vương trông ngóng. Sáng mai, lúc sao mai mọc, Xá Lợi chia xong, tôi sẽ đích thân dâng đến.

Tiếp đó Hương Tánh lấy một bình dung lượng chừng một thạch, rồi chia đều Xá Lợi ra làm tám phần, xong, ông nói với mọi người: Các Ngài bàn bạc cho tôi xin cái bình đó để dựng Tháp thờ tại nhà riêng.

Mọi người đều nói: Trí tuệ thay. Như thế là thích hợp. Và họ đồng ý cho.

Lúc đó, có người thôn Tất Bát cũng đến xin phần tro còn lại để dựng Tháp cúng dường. Mọi người cũng bằng lòng. Sau khi người nước Câu Thi được Xá Lợi liền dựng Tháp cúng dường. Các nước Ba Bà, Giá La, La Ma Già, Tỳ Lưu Đề, Ca Duy La Vệ, Tỳ Xá Ly, Ma Kiệt sau khi được Xá Lợi đều đem về nước dựng Tháp cúng dường.

Bà La Môn Hương Tánh đem cái bình dùng chia Xá Lợi về nhà dựng Tháp cúng dường. Dân chúng thôn Tất bát đem phần tro còn lại về dựng Tháp cúng dường.

Như vậy, Xá Lợi Phật được chia thờ ở tám Tháp, Tháp thứ chín là cái bình, Tháp thứ mười là Tháp tro và Tháp thứ mười một là Tháp tóc, thờ tóc Phật khi còn tại thế.

Phật sanh giờ nào?

Thành đạo giờ nào?

Diệt độ thời nào?

Sanh khi sao Phất mọc.

Xuất gia khi sao Phất mọc.

Thành đạo khi sao Phất mọc.

Diệt độ khi sao Phất mọc.

Lưỡng Túc Tôn sanh thế nào?

Xuất Gia tu khổ thế nào?

Đắc Tối Thượng đạo thế nào?

Nhập Niết Bàn thành thế nào?

Mồng tám Như Lai sanh.

Mồng tám Phật xuất gia.

Mồng tám thành bồ đề.

Mồng tám vào diệt độ.

Sao Phất mọc, Thế Tôn sanh.

Sao Phất mọc, Phật xuất gia.

Sao Phất mọc, thành Chánh Giác.

Sao Phất mọc, nhập Niết Bàn.

Mồng tám sanh Lưỡng Túc Tôn.

Mồng tám vào rừng tu khổ.

Mồng tám thành tối thượng đạo.

Mồng tám vào thành Niết Bàn.

Tháng hai Như Lai sanh.

Tháng hai Phật xuất gia.

Tháng hai thành bồ đề.

Tháng hai vào diệt độ.

Tháng hai sanh Lưỡng Túc Tôn.

Tháng hai vào rừng tu khổ.

Tháng hai thành đạo tối thượng.

Tháng hai vào thành Niết Bàn.

Sa La hoa nở rộ,

Đủ màu ánh chói nhau,

Tại chỗ bản sanh ấy,

Như Lai nhập Niết Bàn,

Đức Đại Từ Niết Bàn

Nhiều người xưng tán lễ.

Vượt qua các sợ hãi

Quyết định nhập Niết Bàn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường