Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Năm - Thiên đại Phẩm - Chương Ba - Tương ưng Niệm Xứ - Phẩm Nalanda - Phần Hai - Nàlanda
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT
KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP NĂM
THIÊN ĐẠI PHẨM
CHƯƠNG BA
TƯƠNG ƯNG NIỆM XỨ
PHẨM NÀLANDA
PHẦN HAI
NÀLANDA
Một thời, Thế Tôn trú ở Nàlanda, tại rừng Pavàrikamba.
Rồi Tôn Giả Sàriputta đi đến Thế Tôn, Ngồi một bên, Tôn Giả Sàriputta bạch Thế Tôn: Như vậy, bạch Thế Tôn, là lòng tịnh tín của con đối với Thế Tôn. Không thể đã có, không thể sẽ có, không thể hiện có một Sa Môn hay Bà La Môn nào khác có thể vĩ đại hơn, thắng trí hơn Thế Tôn về Chánh Giác.
Thật là đại ngôn ulàra, này Sàriputta, là lời tuyên bố như con ngưu Vương này của ông, lời tuyên bố một chiều, tiếng rống của con sư tử: Như vậy là lòng tịnh tín của con đối với Thế Tôn. Không thể đã có, không thể sẽ có, không thể hiện có một Sa Môn hay một Bà La Môn nào khác, có thể vĩ đại hơn, thắng trí hơn Thế Tôn về Chánh Giác.
Này Sàriputta, đối với các vị A La Hán, Chánh Ðẳng Giác trong thời quá khứ, tất cả các vị Thế Tôn ấy, ông có thể biết rõ tâm niệm với tâm của ông rằng:
Các bậc Thế Tôn ấy đã có giới đức như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy đã có pháp như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy đã có tuệ như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy đã có hạnh trú như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy đã giải thoát như vậy?
Thưa không, bạch Thế Tôn!
Này Sàriputta, đối với các vị A La Hán, Chánh Ðẳng Giác trong thời vị lai, tất cả các vị Thế Tôn ấy, ông có thể biết rõ tâm niệm với tâm của ông:
Các bậc Thế Tôn ấy sẽ có giới đức như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy sẽ có pháp như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy sẽ có tuệ như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy sẽ có hạnh trú như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy sẽ giải thoát như vậy?
Thưa không, bạch Thế Tôn.
Này Sàriputta, đối với các vị A La Hán, Chánh Ðẳng Giác trong thời hiện tại, tất cả các bậc Thế Tôn ấy, ông có thể biết rõ tâm niệm với tâm của ông rằng:
Các bậc Thế Tôn ấy hiện có giới đức như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy hiện có pháp như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy hiện có tuệ như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy hiện có hạnh trú như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy hiện có giải thoát như vậy?
Thưa không, bạch Thế Tôn.
Và này Sàriputta, ở đây, ông không có chánh trí với tâm của ông biết được tâm của các vị A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, quá khứ, vị lai, hiện tại.
Thời này Sàriputta, do ý nghĩa gì ông lại thốt ra lời đại ngôn, lời tuyên bố như con ngưu Vương, lời tuyên bố một chiều, tiếng rống tiếng con sư tử của ông rằng: Như vậy là lòng tịnh tín của con đối với Thế Tôn.
Không thể đã có, không thể sẽ có, không thể hiện có một Sa Môn, hay Bà La Môn nào khác, có thể vĩ đại hơn, thắng trí hơn Thế Tôn về Chánh Giác?
Bạch Thế Tôn, con không có chánh trí với tâm của con biết được tâm các vị A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, quá khứ, vị lai, hiện tại, nhưng bạch Thế Tôn, con biết được pháp truyền thống dhammanvayo.
Ví như, bạch Thế Tôn, tại một thành ở biên giới, với những hào lũy kiên cố, vững chắc, với những thành quách, tháp canh kiên cố và chỉ có một cửa ra vào.
Tại đấy, có một người gác cửa sáng suốt, thông minh, có trí, không cho vào những người lạ mặt, chỉ cho vào những người quen mặt.
Trong khi người ấy đi tuần đến con đường xung quanh thành trì ấy để xem, không thấy có một khe hở ở tường nào, hay lỗ hổng ở tường nào, cho đến một con mèo có thể lọt qua được.
Và người ấy suy nghĩ rằng: Có những sinh loại thô lớn nào đi vào hay đi ra ngôi thành này, tất cả phải đi vào hay đi ra cửa này. Như vậy, bạch Thế Tôn, là pháp truyền thống mà con được biết.
Bạch Thế Tôn, phàm có những bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác nào trong thời quá khứ, tất cả bậc Thế Tôn ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái, những pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu kém trí tuệ, sau khi khéo an trú tâm trên Bốn Niệm Xứ, sau khi như thật tu tập bảy giác chi, đã chứng ngộ Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Bạch Thế Tôn, phàm có những bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác nào trong thời vị lai, tất cả các bậc Thế Tôn ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái, các pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ, sau khi khéo an trú tâm trên bốn niệm xứ, sau khi như thật tu tập bảy giác chi, sẽ chứng ngộ Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Còn Thế Tôn, bạch Thế Tôn, là bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, sau khi đoạn tận năm triền cái, những pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu kém trí tuệ, sau khi khéo an trú tâm trên bốn niệm xứ, sau khi như thật tu tập bảy giác chi, chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.
Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Ông hãy luôn luôn thuyết pháp thoại này cho các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, các nam cư sĩ, các nữ cư sĩ. Này Sàriputta, nếu có những người ngu si nào còn có những nghi ngờ, hay những do dự đối với Như Lai sau khi nghe pháp thoại này của Ta, sự nghi ngờ, do dự ấy của họ đối với Như Lai sẽ trừ diệt.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Tám Mươi Năm - Phẩm Tánh Không
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Vacchagotta
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Bốn Mươi Ba
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Bản Duyên - Phẩm Ba - phẩm Vương Tử Nhất Thiết Trì
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Phần Ba