Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Phổ Siêu Tam Muội - Phẩm Mười - Phẩm Quyết Nghi - Tập Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
VĂN THÙ SƯ LỢI PHỔ SIÊU TAM MUỘI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM MƯỜI
PHẨM QUYẾT NGHI
TẬP MỘT
Đến đây, Vua A Xà Thế thấy các vị Bồ Tát và chúng Thanh Văn ăn xong, rửa tay rồi, Nhà Vua lấy cái giường thấp, ngồi trước Bồ Tát Phổ Thủ để lắng nghe thuyết pháp.
Nhà Vua thưa: Kính xin Bồ Tát Phổ Thủ giải cho tôi sự hồ nghi.
Bồ Tát Phổ Thủ đáp: Sự hồ nghi Đại Vương dù cho hằng hà sa số các Đức Phật Thế Tôn cũng chẳng có thể giải quyết được.
Khi Nhà Vua tự xét mình không cứu, không hộ được nên rơi từ giường xuống như cây đại thọ bị xô đổ xuống đất.
Tôn Giả Đại Ca Diếp nói: Xin Đại Vương hãy tự yên ổn, chớ hốt hoảng, chớ lấy làm sợ hãi.
Vì sao?
Vì Bồ Tát Phổ Thủ mặc áo giáp đại đức, phương tiện thiện xảo mà thiết lập lên lời nói này. Nhà Vua có thể từ từ mà hỏi.
Nhà Vua liền bắt đầu hỏi Bồ Tát Phổ Thủ: Thưa Đại Sĩ! Sao Đại Sĩ nói sự hồ nghi của tôi dù cho số Đức Phật Thế Tôn nhiều như cát Sông Hằng cũng không thể vì tôi giải quyết được?
Bồ Tát Phổ Thủ đáp: Ý Nhà Vua thế nào?
Các Đức Phật Thế Tôn duyên theo tâm mà làm ư?
Đáp: Chẳng phải vậy.
Bồ Tát Phổ Thủ lại hỏi: Các Đức Phật Thế Tôn phát tâm mà làm ư?
Đáp rằng: Chẳng phải vậy.
Các Đức Phật Thế Tôn diệt tâm mà làm ư?
Đáp rằng: Chẳng phải vậy.
Lại hỏi: Các Đức Phật Thế Tôn làm theo hữu vi ư?
Đáp rằng: Chẳng phải vậy.
Lại hỏi: Các Đức Phật Thế Tôn đã dạy hành vô vi ư?
Đáp rằng: Chẳng phải vậy.
Bồ Tát Phổ Thủ lại hỏi: Ý Vua thế nào?
Các pháp ấy mà không có pháp, không có người thực hành, không có chỗ hướng đến mà có thể có người giáo hóa đối với sự đoạn trừ pháp đó sao?
Đáp rằng: Chẳng phải vậy
Bồ Tát Phổ Thủ nói tiếp: Nhà Vua nên biết, do vậy tôi mới nói lời này, sự hồ nghi của Nhà Vua dù cho các Đức Phật Thế Tôn nhiều như cát Sông Hằng cũng chẳng thể giải quyết được.
Lại nữa, này Đại Vương! Giả sử có người tự nói rằng: Ta lấy bụi đất, tro, khói, mây mù làm cho ô nhiễm hư không.
Người ấy đủ sức làm ư?
Đáp rằng: Chẳng thể làm ô nhiễm được!
Bồ Tát Phổ Thủ lại hỏi: Giả sử Đại Vương sai tôi lấy hư không này đem rửa sạch, tôi làm được ư?
Đáp rằng: Không thể được!
Bồ Tát Phổ Thủ lại nói: Thưa Đại Vương! Như vậy bản thân Đức Như Lai hiểu rõ các pháp giống như hư không. Đã thành Tối Chánh Giác thì tự nhiên thanh tịnh, không chỗ nhiễm ô.
Vì vậy, nên thấy có pháp nào bị ô nhiễm là thấy ngược ư?
Đâu có thể thấy rõ là trừ sạch được?
Đại Vương hãy quán sát cái nhìn của pháp ấy.
Vì vậy nên vừa rồi tôi nói rằng: Các Đức Phật Thế Tôn nhiều như các Sông Hằng cũng chẳng thể giải quyết được vậy.
Lại nữa, này Đại Vương! Các Đức Phật Thế Tôn chẳng chứng đắc bên trong tâm mà có chỗ trụ, chẳng chứng đắc bên ngoài tâm mà có chỗ trụ.
Vì sao?
Vì tất cả các pháp tự nhiên thanh tịnh, không có xứ sở. Tự nhiên ấy là không có xứ sở, không có chí nguyện.
Có chỗ trụ ấy là vì sao?
Là vì được tự tại vậy.
Các pháp tự nhiên nên không tự nhiên vậy.
Các pháp không kiến lập nên không ngã đổ vậy.
Các pháp không thật có nên không thể nắm bắt vậy.
Các pháp rời khỏi hình dáng nên không hình dáng vậy.
Các pháp rỗng rang nên không ngăn ngại vậy.
Các pháp không có tướng giáo hóa nên không thể giáo hóa vậy.
Các pháp tự nhiên không vướng mắc nên lìa khỏi chấp trước vậy.
Các pháp bỏ nơi hướng đến nên không hướng đến vậy.
Các pháp không biệt ly nên không biệt ly vậy.
Các pháp không chỗ sinh nên không chỗ nương tựa vậy.
Các pháp tự nhiên thanh tịnh nên tâm tánh thanh tịnh vậy.
Các pháp không phân chia bình đẳng như hư không nên không gì so sánh vậy.
Các pháp không bè đảng nên không có bạn bè vậy.
Các pháp lìa khỏi hai nên không có hai vậy.
Các pháp rỗng lặng nên không lường vậy.
Các pháp không chấm dứt nên không biên tế vậy.
Các pháp không bến bờ nên không chân thật vậy.
Các pháp từ điên đảo chẳng chân thật mà không có chỗ trụ nên không điên đảo vậy.
Các pháp thường thanh tịnh, được an ổn rồi nên yên ổn vậy.
Các pháp không nơi hướng đến nên thanh tịnh vậy.
Các pháp vốn thanh tịnh, do minh đạt nên đã tự nhiên vậy.
Các pháp vô ngã mà hiện sáng nên yên ổn vậy.
Các pháp không tưởng niệm nên không do dự vậy.
Các pháp bên trong tịch nhiên nên không lừa dối vậy.
Các pháp hoàn toàn không chân thật nên tịch mịch vậy.
Các pháp tướng rỗng rang nên không có ngã, ngã sở vậy.
Các pháp trừ tận ngã nên không xuyên thủng rơi rớt vậy.
Các pháp tướng giải thoát nên về với tịch diệt vậy.
Các pháp lìa nhớ nghĩ nên không sợ sệt vậy.
Các pháp lìa số lượng nên tạo ra một bình đẳng vậy.
Các pháp đều ngự thoát nên hoảng hốt vậy.
Các pháp chẳng tưởng, chẳng bờ cõi nên không có tưởng vậy.
Các pháp không hủy hoại cái duyên an nhàn tịch mặc nên thuận với lý không vậy.
Các pháp lìa các kiến chấp nên không có nguyện cầu vậy.
Các pháp lìa được ba đời nên đoạn dứt được ba đời vậy.
Các pháp không quá khứ, vị lai và hiện tại nên vô vi bình đẳng vậy.
Các pháp hoàn toàn vô sinh nên theo ý Nhà Vua thì thế nào?
Pháp kia không sinh cũng không khởi, cũng không thật có, không chân đế, đâu ai có thể làm ô nhiễm nó được ư?
Nhà Vua đáp: Chẳng được vậy.
Bồ Tát Phổ Thủ nói: Pháp kia chắc có thể đoạn trừ được chăng?
Đáp rằng: Chẳng được vậy.
Bồ Tát Phổ Thủ lại nói: Tất cả các pháp bình đẳng với Nê Hoàn. Đức Như Lai hiểu được điều này nên đạt đến Tối Chánh Giác. Do điều này nên sự hồ nghi của Nhà Vua chẳng thể giải quyết được.
Vậy nên, Đại Vương chẳng thể tu hành, có chỗ tạo lập cũng chỉ theo tâm điên đảo. Nhà Vua phải tu hành tạo lập quán sát của chân đế, quán sát bản thể vô vi, thiết lập được khả năng quán sát ấy thì đối với các pháp không chỗ nắm bắt, cũng không chỗ hiểu, chẳng cùng chung ở.
Nếu Đại Vương chẳng ở cùng với các pháp thì ấy mới là tin. Có niềm tin ấy mới là tịch mịch. Có sự tịch mịch ấy mới là tự nhiên tịnh. Có tự nhiên thanh tịnh mới là không chỗ tạo tác. Có sự không tạo tác thì tất cả các pháp không có chủ. Nhờ đó tạo ra Nhẫn, tất cả các pháp không có tác giả.
Nhà Vua nên biết điều này, không tạo tác là diệt độ. Xét các pháp kia cũng không tạo tác, không phá hoại, cũng không có tạo, cũng không chẳng tạo, đó là diệt độ. Giả sử Đại Vương thuận theo sự giải thoát là bình đẳng giải thoát. Đã bình đẳng giải thoát rồi thì đối với pháp ấy không nơi chốn, không đuổi kịp, chẳng tăng, chẳng giảm.
Vì sao?
Vì ở tất cả các pháp không lợi ích, cũng không mong cầu, các pháp không nguồn gốc. Các pháp không nguồn gốc thì không chỗ sinh. Không chỗ sinh thì không nguồn gốc. Bản thể vô vi ấy bình đẳng không sai khác, nên gọi là không nguồn gốc.
Giả sử Đại Vương tin hiểu bản thể vô vi thì tất cả hồ nghi tự nhiên bị đoạn dứt. Lại nữa, nếu Nhà Vua mắt không nhiễm ô, cũng không sáng sạch, sự tự nhiên của mắt là không nguồn gốc vậy, không nguồn gốc tự nhiên thì gọi là mắt vậy. Tai, mũi, lưỡi, thân và tâm ý cũng lại như vậy.
Này Đại Vương! Tâm ấy không có nhiễm ô, cũng không thanh tịnh. Tự nhiên của tâm là không nguồn gốc. Không nguồn gốc thì gọi là tâm. Nhà Vua nên biết, sắc không nhiễm ô cũng không thanh tịnh, sắc ấy tự nhiên là không nguồn gốc. Không nguồn gốc tự nhiên thì gọi là sắc vậy. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Thức không nhiễm ô, cũng không thanh tịnh. Sự tự nhiên của thức là không nguồn gốc. Không nguồn gốc tự nhiên thì gọi là thức vậy. Nhà Vua nên biết, tất cả các pháp không có nhiễm ô, cũng không thanh tịnh. Các pháp tự nhiên là không nguồn gốc, không nguồn gốc tự nhiên thì gọi là các pháp. Tâm không hình sắc, cũng không thể thấy không chỗ nguy hại, không có xứ sở, không có ngôn giáo.
Ví như huyễn, chẳng ở bên ngoài, chẳng ở bên trong. Tâm ấy vốn tịnh mà tự nhiên sáng. Giả sử tâm thanh tịnh thì không nhiễm ô, cũng không thanh tịnh. Nhà Vua nên hiểu, đây, kia vốn thanh tịnh, tâm chẳng thể nhiễm ô, không có thanh tịnh, không có hư vọng, cũng không nhiễm trước, không chỗ nguy hại, do không có tưởng chân thật nên có tạo tác, không có chân thật nên thiết lập chỗ trụ.
Phàm phu ngu si dựa vào ham muốn trần lao thì sao gọi là không có chân thật mà phát khởi tưởng không chân thật. Do không chân thật nên không thể khởi chân thật. Tất cả các pháp trụ đều chẳng chân thật. Do chấp ở đó nên không có tưởng chân thật.
Thưa Đại Vương! Ví dụ như hư không này không màu sắc, không thấy chẳng thể cầm nắm được, cũng không bỏ được, cũng không ngôn giáo.
Giả sử có người nói rằng: Nay hư không này không màu sắc, không thấy không cầm nắm được, cũng không thể bỏ, không có ngôn giáo. Ta nay muốn dùng bụi, khói, tro, mây mù để làm ô nhiễm hư không.
Nhà Vua đáp: Chẳng thể được.
Bồ Tát Phổ Thủ nói: Như vậy, này Đại Vương! Tâm vốn thanh tịnh, tự nhiên hiển sáng thì chẳng có thể dùng bụi, khói, tro, mây, sương mù làm ngăn ngại, làm ô nhiễm. Ví như bụi khói mây mù trụ ở hư không, nhưng nhất định chẳng nhiễm vào hư không, làm nó dơ bẩn được.
Như vậy, thưa Đại Vương! Phát khởi tư tưởng ngã, ngã sở là do duyên kết sử là tham, sân, si chứ chẳng nhiễm ô tâm pháp, chẳng nhiễm ô cái thanh tịnh tự nhiên của tâm pháp. Vậy nên, Đại Vương đối với điều kia chớ ôm lấy hoài nghi. Nhà Vua nên biết, tâm quá khứ và tâm vị lai kia thì không hình dáng.
Tâm vị lai và tâm quá khứ cũng không hình mạo. Tâm hiện tại thì không chỗ nương tựa, cũng không thật có. Ý của tâm trước, chẳng ngăn ngại tâm sau. Ý niệm của tâm sau, chẳng ngăn ngại tâm trước. Tâm hiện tại ấy cũng lại như vậy. Bậc trí đối với việc kia mà tạo ra sự quan sát ấy.
Tâm không thật có cũng chẳng phải không thật có. Tâm quá khứ đã diệt tận, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không trụ, nhìn thấy các pháp, tâm vị lai không trụ, tiêu trừ các kiến chấp không chỗ ngăn ngại thì đó là giải thoát. Tưởng thanh tịnh thì các pháp lìa khỏi dơ bẩn, bình đẳng, khắp thế gian sáng suốt bình đẳng khắp không chỗ sinh ra thì không có ngôn giáo, không có ngôn giáo thì không chỗ nào chẳng ở.
Đức Thế Tôn đã nói cái ý nghĩa của tịch nhiên, tịch nhiên ấy đối với pháp kia thì không có chỗ. Giả sử có người tìm cầu nơi ngôn giáo, tìm tòi các pháp.
Thưa Đại Vương! Giả sử ở tại các pháp mà không ý niệm thì trừ được tất cả kết sử hồ nghi, mà đối với các pháp không chỗ đoạn trừ.
Vì sao?
Vì sự hồ nghi ấy cùng pháp vừa bình đẳng lại không sai khác. Vậy nên nói là các pháp ngự trị bình đẳng, tất cả các pháp và cả pháp giới, ở các pháp này sẽ ngự trị bình đẳng.
Vì sao?
Vì tất cả các pháp nhập vào trong pháp giới. Thiết lập pháp giới bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Vậy nên nói rằng pháp giới bình đẳng với tất cả các pháp. Pháp giới ấy bình đẳng thống lãnh các pháp.
Khi Bồ Tát Phổ Thủ nói lời này, thì Vua A Xà Thế đạt được pháp nhẫn nhu thuận, vui mừng hớn hở, lòng được an lạc lớn.
Nhà Vua liền chắp tay khen rằng: Hay thay! Rất sung sướng được nghe lời diệt trừ sự hồ nghi của tôi.
Bồ Tát Phổ Thủ đáp: Nhà Vua nên biết, đây là cái kết sử hồ nghi rất tối tăm vậy.
Nhà Vua đã hoàn toàn xa lìa tất cả các pháp nên nói: Hay thay! Thưa Bồ Tát Phổ Thủ! Tôi rất sung sướng nghe lời đoạn trừ nghi hoặc ấy.
Nhà Vua lại nói: Do vì diệt hết các sự ngăn che của các ấm chấp ngã, giả sử thân mạng tôi đến lúc chết thì sẽ được đến với đạo.
Bồ Tát Phổ Thủ đáp: Đó là sự nghi ngại rất lớn của Đại Vương. Diệt được nó mới đạt được cứu cánh tất cả các pháp đến với diệt độ, mới có thể mong cầu tưởng đến Nê Hoàn.
Tất cả các pháp là Niết Bàn rốt ráo mà lại mong tưởng diệt độ ư?
Nê Hoàn cứu cánh ấy là bản tánh thanh tịnh của các pháp mà không chỗ sinh.
Bấy giờ, Vua A Xà Thế lấy áo mềm mại, đẹp đẽ trị giá hàng trăm ngàn, dâng lên Bồ Tát Phổ Thủ để đền đáp ân pháp mà Bồ Tát đã che chở cho mình.
Bồ Tát Phổ Thủ bỗng nhiên biến mất, chẳng biết thân Bồ Tát đã đi về đâu, ở hư không có tiếng nói: Như hôm nay Đại Vương chẳng nhìn thấy thân của Bồ Tát Phổ Thủ thì quan sát sự hồ nghi ấy cũng sẽ như thế. Như thấy sự hồ nghi, thấy tất cả các pháp cũng lại như vậy. Như quan sát các pháp đã thấy như vậy, thấy không chỗ thấy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Pháp Môn Căn Bản - Phần Chín - đấng Như Lai Ii
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Năm - Phẩm Tập Tương ưng - Kinh Tận Trí
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Chánh Tri Kiến - Phần Mười Bảy - Lậu Hoặc
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng Vô Tưởng - Chương Mười Ba - điện Chuyển
Phật Thuyết Kinh Pháp Hoa Tam Muội - Phần Một