Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai Mươi Mốt - Phẩm Như Lai - Tập Ba
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM HAI MƯƠI MỐT
PHẨM NHƯ LAI
TẬP BA
Họ kêu gọi cha mẹ, anh chị em gái, vợ con của mình rằng sao bỏ Cõi Diêm Phù Lợi mà đến đây chịu chết như thế?
Nghe xong, người đi buôn khắp mình nổi ốc, nhưng anh nhiếp giữ tâm ý, tiến thẳng đến chỗ thành. Quan sát cùng khắp, anh thấy vách thành bằng sắt đúc, cũng không có cửa nẻo, chỗ ra vào. Cách thành không xa, có cây Thi Lệ Sư cao lớn. Anh vội chạy đến, leo lên cây, thấy trong thành, có mấy ngàn muôn người đang khóc lóc kêu gào.
Anh liền hỏi vói vào người bên trong: Vì sao lại kêu réo cha mẹ, anh em như thế?
Người trong thành trả lời: Bọn chúng tôi ra khơi tìm châu báu, bị gió thôi trôi giạt. Lại bị các nữ quỷ La Sát dối gạt làm cho rơi vào thế giới quỷ và bị nhốt trong thành vững chắc này. Trước đây có đến năm trăm người, bị giết lần hồi, hiện giờ chỉ còn hai trăm năm mươi người còn sống.
Anh chớ tưởng rằng các cô gái ấy là người, thật sự bọn chúng đều là quỷ La Sát! Nghe xong, anh này vội tuột xuống, trở về trong xóm các cô gái nọ, lén đến nằm bên cạnh cô gái kia.
Sáng bữa sau, anh liền nói với đồng bạn: Tôi có chuyện kín muốn nói, các bạn hãy đến chỗ vắng. Cẩn thận, chớ để ai đi theo. Nghe vậy, mọi người đều hưởng ứng.
Đến chỗ khuất, anh này liền nói: Các bạn biết không, đêm rồi, tôi cứ thắc mắc, không biết tại sao các cô gái kia cứ ân cần nhắc nhở chúng ta chớ đi theo con đường phía bên tay trái. Chờ khi cô gái nọ ngủ say, tôi mới lén ngồi dậy đi qua bên đó, tôi thấy một cái thành bằng sắt rất lớn, cả trăm người bị nhốt trong đó đang gào khóc.
Tôi leo lên ngọn cây và từ xa hỏi cớ sự thì người trong thành bảo rằng: Thuyền chúng tôi bị loài cá Ma Kiệt phá vỡ, gió to sóng lớn đưa chúng tôi lạc tới cõi quỷ này và bị nhốt trong tòa thành sắt cao đến mấy mươi trượng. Rồi người ấy khuyên tôi hãy mau về nhà khéo tìm cách.
Vậy, bây giờ các bạn tính sao?
Các người đi buôn trả lời: Tối hôm qua sao anh không hỏi lại người ấy có cách gì để mọi người và chúng ta được trở về nhà cho an ổn?
Anh này nói: Tối qua, khi trở về, tôi quên hỏi chuyện ấy. Tối nay, tôi sẽ lén đến đó để hỏi lại. Nói xong, mọi người đều trở về nơi mình đang ở. Người có hiểu biết kia, đêm nay cũng ân ái với cô gái nọ.
Đợi cô ngủ say, anh lén ngồi dậy, đến nơi, leo lên cây và hỏi những người trong thành: Các ông có cách gì để giúp mọi người chúng tôi trở về Cõi Diêm Phù Lợi chăng?
Người trong thành nói: Bọn tôi, ai nấy đều muốn trở về Cõi Diêm Phù Lợi, nhưng thành sắt này thì có nhiều lớp, không thể phá tan được. Còn cái chết thì đang tới từng ngày, không thể tránh khỏi. Chỉ có anh, là người đang ở ngoài, may ra tìm được ít cách để có thể trốn thoát mà trở về quê cũ.
Sáng sớm ngày rằm, có một con ngựa đầu đàn ăn toàn gạo nếp tự nhiên, từ Uất Đơn Việt nó sẽ đến nước quỷ này, rồi đứng trên núi cao, tự cất tiếng hô to ba lần rằng: Có ai muốn về Cõi Diêm Phù Lợi không?
Khi nghe tiếng gọi của con ngựa đầu đàn ấy thì anh nên đến kính lễ nó và xin được về quê cũ.
Nghe xong, người hiểu biết này liền trở về, kể lại hết sự việc cho mọi người nghe, họ bảo: Bây giờ, chúng ta đi ngay được chăng?
Người hiểu biết nói: Phải đợi đến ngày rằm kia ngựa đầu đàn mới đến, ta mới đi được.
Quả nhiên, chưa đầy mấy hôm sau, con ngựa đầu đàn bay đến trên đỉnh núi cao.
Nó hô to ba lần: Có ai muốn trở về Cõi Diêm Phù Lợi không?
Tiếng nó vang rất xa. Nghe tiếng nó, những người đi buôn này liền đến chỗ con ngựa đầu đàn, thưa: Chúng tôi, đều muốn trở về quê cũ. Mong ông giúp chúng tôi được trở về.
Ngựa đầu đàn nói: Các vị hãy chú ý nghe lời ta nói! Các vị, những ai muốn trở về quê cũ thì lòng dạ phải chuyên chánh mới về được. Lòng ai không chuyên chánh thì không về được, bởi các cô gái này sẽ ẵm bồng các con trai, con gái đuổi theo các vị, kêu khóc thảm thiết.
Trong các vị, những ai khởi tâm luyến ái, dù đang ngồi trên lưng tôi đi nữa, vẫn không thể trở về được. Nếu ai đã dứt bỏ được ân ái, chuyên tâm nhất ý, không còn chút quyến luyến thì chỉ cần chú ý nắm một sợi lông của ta thì cũng được trở về quê cũ.
Đúng như lời ngựa đầu đàn nói, các cô gái kia kéo đến, bảo các người chồng rằng: Thân hèn mọn của bọn tôi có sá gì, nhưng vì sao các anh nỡ bỏ con cái của chúng ta?
Rồi họ xúi đám con trai, con gái đến ôm cổ cha mà kêu la khóc lóc inh ỏi: Sao cha nỡ bỏ chúng con mà định đi đâu?
Những người tâm còn luyến ái thì cuối cùng không trở về được. Chỉ có một người có đại trí sư tử là được trở về an ổn.
Cho nên nói: Những ai không tin Phật, những loại chúng sinh như vậy, phải rơi vào đường hiểm, như người buôn gặp quỷ La Sát.
Những ai tin Phật: Như loại chúng sinh này, an ổn trở về đều nhờ ngựa đầu đàn cứu thoát, thì chỉ có một người có trí sư tử là được an ổn trở về, con những người khác thì bởi tâm luyến ái nên phải chịu tai ách.
Khi ấy các La Sát ẵm con trai, con gái đuổi theo những người đi buôn sư tử này cùng khắp mọi nơi và bảo những người trong thôn ấp rằng: Sư tử là chồng tôi, cùng tôi sinh con đẻ cái, nhưng nay bỏ tôi, trốn đi, không biết đang ở đâu.
Mọi người nghe nói bèn hỏi sư tử rằng: Ta thấy vợ anh tánh tình, dung mạo xinh đẹp tuyệt diệu trong tất cả mọi người, đám con trai con gái rất đáng thương, vì sao anh lại bỏ chúng nó?
Sư tử trả lời: Đó không phải là người, mà là quỷ La Sát! Chúng nó sống trên một vùng biển nhỏ, ăn thịt vô số những người đi buôn nhiều không kể xiết. Mấy trăm người bạn tôi, hiện đang bị nhốt trong thành bằng sắt, chỉ một mình tôi là người may mắn được thoát khỏi.
Bây giờ, quỷ La Sát cái này đuổi theo tôi, muốn hại tôi, tôi sợ không thoát khỏi nó. Nói xong, người ấy lại đi về phía trước, trở về quê cũ.
Con quỷ La Sát này cũng đuổi theo, nó đến nước của anh này rồi đến trước vua thưa: Thiếp và chàng sư tử là vợ chồng, sinh được đám con này, mong cậy nhờ mai sau. Chẳng ngờ, hôm nay anh ấy bỏ trốn đi. Dù anh ấy không muốn chung sống với thiếp thì cũng phải có bổn phận nuôi nấng đám con thơ này. Phần thiếp, tuổi còn trẻ thì còn có thể thích ứng được.
Vua cho đòi sư tử đến hỏi sự thật: Vợ ngươi còn trẻ, mặt mày xinh xắn, đám con thì đẹp đẽ khác thường, đều có tướng quân tử.
Thế tại sao ngươi nỡ bỏ chúng, không chịu chấp nhận?
Sư tử tâu vua: Chúng chẳng phải người mà là quỷ La Sát ăn thịt người, chúng biến hóa ra hình người trai gái đeo dính theo thần. Nó đợi ai vô ý là giết thần ngay. Trước đây, thần dẫn năm trăm người đi buôn ra biển tìm châu báu, tất cả đều bị quỷ La Sát ăn thịt. Chỉ có thần là người duy nhất thoát được.
Nay lại bị theo đuổi nữa, không biết sẽ tính sao đây?
Vua bảo sư tử rằng: Nếu ngươi không muốn cô ấy làm vợ nữa thì đem đến cho ta!
Sư tử nói: Cô ấy thật sự không phải người mà là quỷ La Sát. Nếu sau này có chuyện tai ách gì thì đừng oán trách.
Sư tử lại nói với các quan đứng hầu vua: Nữ quỷ La Sát cái này đến đây chắc chắn sẽ hại vua, nay vua không tin lời mà lại cho vào cung sâu. Như thế thì không bao lâu, vua và những người trong cung đều thành tro bụi.
Vua tức giận bảo sư tử: Cô gái kia đẹp như ngọc nữ Cõi Trời, tại sao lại nói là quỷ La Sát?
Ngươi hãy mau ra khỏi thành, để ta tự xem xét.
Vua đem cô gái quỷ La Sát vào nội cung. Cửa cấm cung khép chặt, một đêm qua nhanh. Sáng hôm sau, đến giờ ăn, nhưng cửa cung vẫn chưa mở.
Các quan nói với nhau rằng: Vua mới nạp cung phi, lòng còn say mê nên chưa mở cửa.
Sư tử nói: Không phải thế đâu! Có lẽ vua cùng phu nhân và các thể nữ đã bị quỷ La Sát ăn thịt hết rồi, nên cửa không mở đấy.
Mọi người liền lấy thang cao leo tường vào trong thì thấy thây ma và hài cốt chất đầy mấy gian nhà. Lại thấy một cái lỗ sâu mới đào.
Các quan hỏi sư tử: Bây giờ vua chết, người cả cung đều bỏ mạng. Xương chất đống không thể phân biệt ai là ai.
Biết xác vua đâu mà chôn cất?
Sư tử nói: Nên gom xương lại thành đống rồi hỏa thiêu. Chỉ nói là chon vua, còn những người khác thì không tính.
Chôn cất xong, các quan trách sư tử: Chính ngươi đã đem quỷ La Sát về giết vua hại nước, cung điện tiêu tan, bây giờ ngươi tính sao?
Sư tử đáp: Tôi đã nói trước đây rằng cô gái ấy không phải người, mà là quỷ La Sát.
Sau này có tai ương gì chớ trách tôi, giờ đây sao các Ngài còn trách tôi như vậy?
Các quan và dân chúng bước đến thưa với sư tử: Nay vua chết, không ai nối ngôi. Vậy cúi mong Ngài lên ngôi để cai trị nhân dân khiến đất nước được bình yên mãi mãi để chúng tôi có chúa mà tôn thờ.
Sư tử bảo: Nếu các vị muốn cử tôi làm vua thì phải nghe lời tôi, nếu không nghe lời tôi thì bị quỷ La Sát ăn thịt hết.
Mọi người dù thân tướng khác nhau nhưng đều khen là hay lắm và cùng nhau nghe lời vua dạy bảo.
Vua bảo các quan: Bọn nữ quỷ La Sát ngủ nghỉ đúng giờ, ta nên nhóm họp các thứ binh, giong thuyền ra biển đánh úp bọn chúng.
Cả triều đình liền lên đường đánh úp bọn nữ quỷ La Sát, lớn nhỏ đều chết không còn sót một tên nào. Rồi quay sang phá sập thành sắt kia, giải thoát cho những người trong ấy. Nhờ đó nhân dân sống giàu sang tự nhiên với nhiều của báu vật lạ không kể xiết. Nhân đó, đặt tên thành là Sư Tử Di Lạc.
Các quỷ La Sát khác thì di chuyển về phía Tây núi Thiết Vi, còn nhóm ở phía Đông Thiết Vi thì sống theo luật pháp người thường của phong tục địa phương. Nếu có ai không thờ phụng Phật thì đem giao cho quỷ ở phía Tây ăn thịt. Từ đó đến nay, Phật Pháp hưng thịnh, người đắc đạo vô số.
Cho nên nói: Những kẻ tin Phật, như loại chúng sinh này, an ổn về nhà đều nhờ ngựa đầu đàn cứu thoát.
Lại nữa, ở cõi nước ấy, theo tục lệ thông thường thì khi vua sinh thái tử hoặc mười, hoặc trăm, hoặc đến vô số vị đều cho xuất gia học đạo, tụng tập Kinh Phật, thuộc lòng ba tạng, sau đó mới thôi đời sống tu học trở về làm vua. Những người con nào không biết chữ Phạm, không học thông Kinh Điển thì không bao giờ được lên làm vua. Và phải ở ngoài các bãi sông. Cho nên gọi là bãi sông sư tử.
Như Lai, không ai sánh
Tư duy hai quán hạnh
Nơi vắng quán hai hạnh
Trừ tối, vượt thần tiên.
Như Lai không ai sánh: Như Lai sống ở trên đời với oai thần công đức vô lượng. Có khả năng bay lên hư không, chúng sinh được giáo hóa không hạn lượng. Dẫn dắt chúng sinh, chỉ rõ mắt tuệ, giáo dục nuôi dưỡng chúng sinh bằng bốn tâm từ, bi, hỷ, xả, ai gặp Phật đều được độ thoát.
Cho nên nói:
Như Lai, không ai sánh bằng,
Tư duy hai quán hạnh,
Nơi thanh vắng quán hai hạnh,
Trừ tăm tối, vượt hơn Thần Tiên.
Khéo được, được tự tại
Ái hết, không chứa nhóm
Tâm giải thoát, vô lậu
Ban ân tuệ Trời, người.
Khéo được, được tự tại: Chúng sinh sống trong sự lầm than, trôi lăn trong năm đường, bảy sóng kết sử nhồi dập, muốn đến với đạo thì không biết đường nào mà đến, vì vậy: Như Lai không bỏ tâm hoằng thệ, cứu vớt khổ nạn, chỉ bày cho tất cả chúng sinh ngôi nhà tự tại.
Cho nên nói: Khéo được, được tự tại.
Ái hết không chứa nhóm: Được bốn món không sợ hãi, dứt hẳn ái dục.
Cho nên nói: Ái dục dứt hết không còn chứa nhóm.
Tâm giải thoát vô lậu: Tâm được giải thoát mãi mãi, không có gì trở ngại, lại được vô lậu, dứt hẳn các cấu uế.
Cho nên nói: Tâm giải thoát vô lậu.
Ban ân tuệ Trời, người: Tất cả chúng sinh đều đến quy ngưỡng. Cho nên Thánh Nhân tùy thời giáo hóa, cứu giúp, không thiếu sót.
Cho nên nói:
Ban ân tuệ cho cả Trời, người.
Như người đứng đỉnh núi
Nhìn khắp xóm làng người
Quán sát pháp cũng thế
Như lên lầu ngắm vườn
Người lo dứt không lo
Giúp biết đường sinh tử.
Như người đứng đỉnh núi, nhìn khắp xóm người: Như người có mắt sáng nhìn hết cả xóm làng, thấy kẻ ngồi, người đi, kẻ ra vào, đi lại, người khóc lóc, kẻ múa hát, đều thấy rõ hết. Đức Như Lai Thế Tôn cũng như vậy, Ngài đứng trên đỉnh núi trí tuệ nhìn thấy chúng sinh trong năm đường, thấy ai trí tuệ thông minh, ai ngu si, ai đến được, ai không đến được, đều phân biệt rõ ràng mà đến đó giáo hóa họ.
Cho nên nói: Như người đứng trên đỉnh núi nhìn bao quát cả xóm làng của người bên dưới.
Quán sát pháp cũng thế, như lên lầu ngắm vườn: Đức Như Lai dùng thiên nhãn nhìn thấy khắp tất cả, như lên lầu cao thì thấy rõ mọi thứ, phân biệt ai dễ độ, ai khó độ, ai có thể nói thì nói, không thể nói thì im lặng, tùy từng đối tượng mà giúp họ được thành đạo.
Cho nên nói: Quán sát pháp cũng thế, như lên lầu cao ngắm vườn hoa.
Người lo dứt không lo, giúp biết đường sinh tử: Đức Như Lai quán sát ai có lo rầu, ai không lo rầu, ai ít hiểu biết, ai nhiều hiểu biết. Ngài dạy bảo chúng sinh khiến họ biết đường sinh tử.
Cho nên nói: Người lo dứt không lo, giúp họ biết đường sinh tử.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba Mươi Tám - Pháp Hội đại Thừa Phương Tiện - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh ưu Bà Tắc Giới - Phẩm Hai Mươi Bảy - Thiền Ba La Mật
Phật Thuyết Kinh Hải Long Vương - Phẩm Một - Phẩm Hạnh - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thánh Mặc Nhiên
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Sáu - Phẩm Vương Tương ưng - Kinh Tần Bệ Sa La Vương Nghinh Phật
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bốn - Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Thi Lợi Hành
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ - Phần Mười Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Mười Sáu - Phẩm Bát Nhã Ba La Mật đa - Phần Sáu