Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Mười Bảy - Phẩm Bốn Mươi bài Kệ - Chuyện Long Vương Samkhapàla Tiền Thân Samkhapàla

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP MƯỜI

CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT  

CHƯƠNG MƯỜI BẢY  

PHẨM BỐN MƯƠI BÀI KỆ  

CHUYỆN LONG VƯƠNG SAMKHAPÀLA

TIỀN THÂN SAMKHAPÀLA  

Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh. Câu chuyện này được bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, liên quan đến các phận sự trong những ngày trai giới Bồ Tát giới.

Lúc bấy giờ, nhân dịp này bậc Đạo Sư tán thán một số cư sĩ hành trì trai giới và bảo: Các Hiền Nhân ngày xưa đã từ bỏ cảnh giới huy hoàng của Long Vương Nàga và hành trì trai giới. Rồi theo lời thỉnh cầu của các Tỳ Kheo, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

Ngày xưa một vị Vua xứ Magadha Ma Kiệt Đà cai trị thành Ràjagaha Vương Xá. Thời bấy giờ, Bồ Tát sinh làm Vương Tử của chánh hậu, được đặt tên là Duyyodhana.

Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài thông đạt các môn học thuật tại Takkasilà và trở về triều thăm Vua cha, Phụ Vương liền truyền ngôi cho Ngài và xuất gia tu hành tại ngự viên. Cứ ba lần trong ngày, Bồ Tát đến yến kiến Phụ Vương thời bấy giờ được tôn kính và cung phụng trọng thể.

Việc này gây trở ngại khiến Vua cha không thể thực hành ngay cả những pháp môn làm phát khởi thiền định, nên Ngài suy nghĩ: Ta đang hưởng đầy lợi dưỡng cùng với sự tôn sùng tột bậc, nếu ta còn ở đây thì không thể nào đoạn trừ tham dục được. Vậy ta đừng nói gì với hoàng nhi cả, cứ việc bỏ đi nơi khác.

Thế là không nói gì với một ai, Ngài rời ngự viên và vượt qua biên giới của Quốc Độ Ma Kiệt Đà, Ngài dựng một lều lá trong Quốc Độ Mahimsaka, gần núi Candaka, bên dòng sông Kannapenà uốn khúc, là nơi nó bắt nguồn từ hồ Samkhapàla.

Ngài an trú tại nơi đó đến khi thành tựu các pháp môn làm phát khởi thiền định, Ngài tu tập các Thắng trí, và chỉ thọ thực những gì Ngài kiếm được.

Một vị Long Vương loài Rồng Nàga, có Danh Hiệu Samkhapàla, sinh trưởng từ dòng sông Kannapennà cùng hội chúng đông đảo loài Rồng, thỉnh thoảng đến yết kiến vị Ẩn Sĩ này, nên Ngài thuyết pháp cho Long Vương.

Lúc bấy giờ Vương Tử nóng lòng gặp cha mà không biết hiện Ngài ở đâu, nên thân hành đi tìm. Khi biết được nơi Ngài đang cư ngụ như thế, Vua cùng đám tùy tùng đông đảo đến yết kiến Ngài. Sau khi dừng lại ở một đoạn đường ngăn cách nơi ấy, Vua cùng một số cận thần đi về phía lều Ẩn Sĩ.

Lúc ấy Long Vương Samkhapàla đang cùng đám tùy tùng nghe thuyết pháp, nhưng khi thấy Vua đến gần, liền đứng dậy vái chào bậc Trí Giả rồi từ tạ ra về.

Vua vái chào Phụ Vương và sau các nghi lễ thông thường của đôi bên trao đổi xong, Vua hỏi: Bạch Tôn Giả, vị Vua nào vừa yết kiến Tôn Giả?

Này Vương nhi, đó là Long Vương Samkhapàla. Vương Tử liền mong ước viếng thăm cảnh giới Nàga vì vẻ huy hoàng vĩ đại ở đó. Khi ở lại cùng cha vài ngày, Ngài cung cấp Phụ Vương đủ thực phẩm như thường lệ rồi trở về thành.

Nơi đó, Ngài đã cho xây bố thí đường tại bốn cổng thành, nhờ công đức bố thí ấy, Ngài đã gây chấn động khắp Cõi Diêm Phù Đề.

Vì ước nguyện lên cảnh giới Rồng Nàga, Ngài luôn hành trì giới luật và giữ các phận sự trong ngày trai giới nên khi mạng chung, Ngài tái sinh vào cảnh giới Rồng Nàga làm Long Vương Samkhapàla.

Dần dần qua thời gian, Ngài đâm chán cảnh huy hoàng này, nên từ khi ước nguyện tái sinh làm người, Ngài lại hành trì các ngày trai giới. Nhưng ở trong cảnh giới Rồng Nàga, việc hành trì giới luật không có kết quả gì, giới đức của Ngài lại bị hao tổn.

Từ đó, Ngài lìa bỏ cảnh giới Nàga và đến một nơi không xa dòng sông Kannapennà ấy, cuộn mình quanh tổ kiến giữa đường cái và đường mòn, Ngài quyết tâm giữa ngày trai giới và thực hành giới đức.

Và Ngài bảo: Kẻ nào cần da thịt ta thì cứ lấy hết đi. Và như vậy theo hạnh bố thí, Ngài hy sinh thân mình, nằm trên tổ kiến, an nghỉ tại đó trong các ngày mười bốn và rằm giữa tháng, cứ hai tuần Ngài trở về cảnh giới Nàga.

Một ngày kia, khi Ngài đang nằm đó, thực hành giới luật xong, có một đám mười sáu nam nhân từ làng bên cạnh, thèm ăn thịt nên lang thang vào rừng, cầm vũ khí trong tay.

Khi trở về chẳng kiếm được thú vật gì, chúng thấy Ngài nằm trên tổ kiến liền nghĩ: Hôm nay ta chẳng bắt được một con tắc kè nhỏ nào nữa, vậy ta phải giết rắn chúa này mà ăn thịt. Nhưng vì sợ thân mình Ngài quá to lớn, dù chúng có bắt được Ngài, Ngài cũng sẽ thoát ra, nên chúng nghĩ rằng phải đâm Ngài bằng các cây cọc ngay khi Ngài đang nằm cuộn mình ở đó và sau khi gây thương tích cho Ngài như vậy, chúng sẽ bắt Ngài đi. Thế là chúng cầm cọc tiến đến gần Ngài.

Lúc bấy giờ Bồ Tát biến hình to lớn như chiếc thuyền rộng cực kỳ xinh đẹp tựa vòng hoa lài đặt trên mặt đất, đôi mắt như quả Gunja, chiếc đầu như đóa hoa Jayasumana.

Khi nghe tiếng chân của mười sáu người kia, Ngài ngẩng đầu lên từ thân thể cuộn tròn, mở to đôi mắt rực lửa nhìn cả bọn đi đến cầm cả cọc trong tay.

Ngài suy nghĩ: Hôm nay ước nguyện của ta sẽ thành tựu trong lúc ta nằm ở đây, vậy ta phải nhất tâm cao độ và hy sinh thân mạng ta cho bọn chúng, khi chúng lấy dao đâm ta, gây thương tích đầy mình mẩy ta, ta cũng không được mở mắt ra căm hận nhìn chúng.

Rồi để giữ vững quyết tâm này vì sợ phạm giới luật, Ngài dấu đầu vào giữa đám mào và nằm yên. Bọn người kia đến gần Ngài nắm ấy đuôi kéo lê đi trên mặt đất.

Sau đó lại thả Ngài xuống, chúng dùng cọc nhọn đâm vào tám chỗ trên thân Ngài rồi lấy gậy tre màu đen, gai nhọn đủ thứ đâm vào các vết thương đang nứt nẻ, xong lại tiến bước, lôi Ngài theo bằng dây thừng buộc vào tám chỗ ấy.

Bậc Đại Sĩ từ lúc bị thương tích bởi cọc nhọn kia, chẳng hề mở mắt hay căm hận nhìn chúng, song khi Ngài bị kéo lê đi bằng tám sợi dây ấy, đầu Ngài chúc xuống, đập vào đất.

Vì thế khi chúng thấy đầu Ngài rủ xuống, chúng đặt Ngài trên con đường dốc cao, đâm qua mũi Ngài một chiếc cọc mỏng, nhấc đầu Ngài lên, luồn sợi dây vào mũi, và sau khi buộc đầu dây xong, chúng lại nhấc đầu Ngài tiếp tục kéo đi.

Vừa lúc ấy một vị điền chủ tên gọi là Alàra ở trong thành Mithila thuộc Quốc Độ Videha, đang ngồi trong một cỗ xe sang trọng du hành cùng năm trăm cỗ xe nữa, trông thấy bọn ác nhân đang cố lôi Bồ Tát trên đường, liền cho cả mười sáu người trong bọn chúng mỗi người một con bò, một nắm tiền vàng, đầy đủ y phục bên trong lẫn bên ngoài, lại cho vợ con chúng đồ kim hoàn để đeo, xong bảo chúng thả Ngài ra.

Bồ Tát liền trở về cung điện Nàga, lập tức đem theo đám tùy tùng đông đảo, đến gặp Alàra, và sau khi tán dương cảnh đẹp của Long Cung Nàga, Ngài đem ông về đó. Ngài ban tặng đại vinh hoa phú quý cho ông, cùng với ba trăm Long nữ và mời thọ hưởng đủ lạc thú Thiên Giới.

Alàra sống một năm tròn tại cung thất Nàga hưởng mọi thiên lạc xong, liền bảo Long Vương: Này hiền hữu, ta muốn trở thành Ẩn Sĩ tu hành. Rồi đem theo đủ mọi thứ cần dùng cho đời Ẩn Sĩ, ông rời Long Cung Nàga đi đến vùng Tuyết Sơn tu hành, an trú tại đó một thời gian dài.

Dần dần, Ngài tiếp tục ra đi đến gần thành Ba La Nại và an trú trong ngự viên. Hôm sau Ngài vào thành đi khất thực, tiến vào cung. Vua Ba La Nại thấy diện mạo Ngài quả thật uy nghi liền cho gọi Ngài vào yết kiến, đặt Ngài lên chiếc bảo tọa đặc biệt và ban đủ cao lương mỹ vị.

Còn Vua ngồi trên chiếc bảo tọa thắp hơn, đảnh lễ Ngài xong, lại đàm đạo với Ngài, Vua ngâm vần kệ đầu:

Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh,

Chắc con dòng thế phiệt trâm anh,

Niềm vui thế tục sao rời bỏ,

Khoác áo tu, theo luật Thánh hành?

Các vần kệ sau đây là những lời đối đáp xen kẽ giữa vị Ẩn Sĩ khổ hạnh và Vua:

Ẩn Sĩ Alàra:

Tâu Chúa Công, ta nhớ rõ rành

Cung Long Vương nọ, dáng oai linh,

Quả lành phát xuất từ thanh tịnh,

Nên nguyện khoác áo Thánh hành.

Đức Vua:

Chẳng mối hãi kinh hoặc dục, sân

Khiến Hiền Nhân phải bỏ lời chân:

Nói cho ta rõ điều mong biết,

Tịnh tín tâm ta phát triển dần.

Ẩn Sĩ Alàra:

Tâu Đại Vương, trong bước hải hồ,

Trên đường ta thấy lũ côn đồ

Đang lôi Rồng lớn, dây xiềng trói,

Chiến thắng cười vui trở lại nhà.

Chúa Thượng, ta liền đến hét to:

kinh hoàng, ta sửng sốt không ngờ

Các Ngài, lôi quái long đâu đó,

Ác đàng, làm gì nó nữa được?

Ác đảng:

Rồng lớn Ngài đang thấy trói vậy

Dị hình, cho thực phẩm ta đây

A là ra, chẳng còn mơ ước

Hưởng món ngon hơn mỹ vị này.

Từ đây ta vụt thẳng về nhà

Mỗi đứa dùng dao xẻ thịt ra,

Thưởng thức thịt ngon, vì phải biết,

Từ thủ Rồng rắn chính nhà ta.

Alàra:

Vì Rồng này mới bắt trong rừng

Đang bị kéo về nấu món ăn,

Ta tặng mỗi bò cho một vị,

Các Ngài thả nó khỏi dây chăng?

Ác đảng:

Thịt bò nghe quả thật bùi tai,

Rồng rắn ê hề thịt bấy nay,

Lời ấy, A là, ta chấp thuận,

Từ đây, tình bạn sẽ lâu dài.

Alàra:

Chúng thả Ngài ra khỏi sợi dây

Buộc xuyên qua lỗ mũi căng thay,

Chúa Rồng thoát được vòng tù tội

Hướng mặt về đông, nghỉ lát giây.

Vẫn nhìn đông, đã sẵn sàng bay,

Quay lại ngắm ta, mắt lệ đầy,

Trong lúc ta nhìn theo hướng ấy,

Như người cầu nguyện chắp đôi tay:

Nhanh chân chạy trốn, hỡi thân bằng,

E lại sa vào lũ địch nhân,

Tránh bọn bạo tàn, dù thoáng thấy,

Nếu không, ắt phải họa vào thân.

Ngài vội đến hồ nước đẹp trong,

Đôi bờ lau sậy lẫn đào hồng,

Trong lòng hoan hỷ, không còn sợ,

Lặn xuống vực sâu thẳm mịt mùng.

Vừa khi biến mất, vị Long Vương

Hiển lộ thần thông thực rõ ràng,

Thái độ ân cần, đầy tin cẩn,

Lời tri ân cảm động can tràng.

Long Vương:

Ngài thân thiết vượt đấng sinh thành,

Đã cứu đời ta, bạn chí tình

Đến tận tay xương, nhờ chính bạn

Niềm hoan lạc trước được hồi sinh,

A là, Ngài viếng nơi ta ngự,

Cung điện đầy kho thực phẩm lành.

Chẳng khác In dra thành thượng giới,

Masakka, xứ sở lừng danh.

Tâu Đại Vương, sau khi nói xong những lời này, Long Vương còn ca tụng thêm cảnh giới của Ngài qua các vần kệ:

Long Vương:

Quốc Độ ta bao cảnh tuyệt vời

Dưới chân cỏ mướt phủ xanh tươi

chẳng vươn cát bụi trên đường lộ,

chốn ấy, ly sầu, hưởng lạc thôi.

Sân bằng, tường ngọc bích bao quanh,

Xoài đẹp sum suê tứ diện thành,

Chùm trái chín muồi khoe sắc thắm,

Bốn mùa thay đổi suốt năm lành.

Giữa rừng xoài ấy, điện bằng vàng

Ngài ngắm, then cài bạc chắn ngang,

Rực rỡ cung đình kia nổi bật

Hơn làn chớp lóe giữa không gian.

Tô điểm bảo châu, đẹp dị thường

Biết bao tranh vẽ quý trang hoàng,

Bầy tiên phục sức xa hoa quá,

Trước ngực đong đưa chuỗi hạt vàng.

Alàra:

Sam kha Đại Đế ngự lên mau

Lầu thượng, quyền uy thật tối cao

Được dựng lên ngàn hàng cột trụ,

Ấy cung Hoàng Hậu được Ngài giao.

Nhanh nhẹn một Tiên Nữ giữa bầy,

Cầm viên ngọc báu ở trong tay

Ngọc lam quý hóa đầy thần lực,

Tự ý mời ta một chiếc ngai.

Rồng chúa nắm tay dẫn đến nơi

Sừng sững cao sang, một chiếc ngai:

Xin Ngài an tọa, ta ngồi cạnh

Như đấng sinh thành, thắm thiết thay!

Thêm một nàng theo kịp lệnh Ngài

Đến cùng bình nước ở trong tay,

Rửa chân, hầu hạ ta chu đáo

Như chánh hậu chầu Long Đế đây.

Thêm nàng Tiên nữa thật nhanh chân

Dâng chén vàng cơm thập cẩm ngon

Gia vị thơm nồng càng cám dỗ

Kẻ thèm ăn mỹ vị cao lương.

Trỗi nhạc lên vì chàng hiểu rằng

Đó là ý chúa chúng hằng mong

Chiếm lòng ta, cũng như Long Đế

Đem thù Thần Tiên để tấn công.

Rồi vị chúa Rồng đến gần ta ngăm thêm vần kệ:

Ba trăm tỷ thiếp, hỡi A là,

Trẫm có sẵn đây cả ấy mà,

Tất cả đều lưng thon yểu điệu,

Yêu kiều dung sắc vượt Liên Hoa,

Kìa xem! Chúng chỉ chiều tôn ý,

Xin nhận lời ban tặng của ta.

Alàra nói tiếp:

Một năm Thiên lạc hưởng tràn đầy,

Ta hỏi Long Vương một chuyện này:

Sao được Tiên Cung làm nội thất,

Làm sao cung điện đến phần Ngài?

Tiên cảnh này thành tựu ngẫu nhiên,

Được Ngài xây? Tặng vật Chư Thiên?

Long Vương xin nói điều chân thật,

Sao đến an nhàn ở cảnh Tiên?

Sau đây là các vấn kệ đối đáp nhau giữa đôi bên:

Long Vương:

Chẳng phải tình cờ, chẳng tự nhiên,

Chẳng do ta tạo, hoặc Chư Thiên,

Chính nhờ thiện nghiệp ta, Ngài biết,

Nhờ Đức Hạnh, ta hưởng cảnh Tiên.

Alàra:

Hạnh Nguyện gì, đâu Thánh Đạo cao,

Đức gì tích trữ phước ngày sau?

Long Vương, xin nói, ta mong biết

Ngài huởng tiên cung bởi cách nào?

Long Vương:

Ta nguyện lời kia, sống trọn đời

Tu nhân tích đức góp gom hoài,

Cung này, nhờ đó, sau cùng hưởng,

Thực phẩm tràn đầy chứa khắp nơi.

Alàra:

Cuộc đời dù sáng rực bao ngày,

Vũ khúc, hoan ca chẳng kéo dài,

Kẻ yếu hại Ngài vì đại lực,

Lũ hèn làm dũng sĩ xa bay:

Răng thần sao đấu không cân sức,

Ngài chịu thua bầy hạ tiện vậy?

Ngài chịu đau vì quá hãi hùng?

Do đâu nọc độc đã tiêu vong?

Sao Ngài thần lực đầy răng ấy,

Mà phải chịu đau bởi ác nhân?

Long Vương:

Ta chẳng thua vì quá hãi hùng,

Chẳng ai làm đại lực tiêu vong,

Mọi người thừa nhận bao công đức

Như biển bờ cao, chẳng ngập tràn.

Ngày trai mỗi tháng giữ hai lần,

Chính buổi kia ngăn chặn bước đàng,

Mười sáu chàng trai, tay nắm đủ

Dây thừng, thòng lọng cực kỳ sang.

Bọn ác nhân đâm thủng mũi ta

Xuyên dây thừng ấy, kéo ta qua,

Đớn đau, ta chịu, ôi đành phận,

Giữ Thánh nhật cho khỏi phạm mà.

Alàra:

Thấy trên đường vắng, trải giăng dài

Hình đẹp, khổng lồ, đại lực oai:

Bậc trí hiển vinh, ta thét lớn,

Sao nguyền đời khổ hạnh, thưa Ngài?

Long Vương:

Ta chẳng cầu con, chẳng ước giàu,

Chẳng mong thọ mạng được dài lâu,

Song trên nhân thế ta mong sống

Nỗ lực anh hùng đạt đích cao.

Alàra:

Tóc râu chải chuốt, dáng oai hùng,

Phục sức hoàng y, mắt lửa bừng,

Đỏ thắm chiên đàn, Ngài rực rỡ

Xa xa, nào khác nhạc Thiên Thần.

Hưởng bao ân huệ lộc Trời cho,

Đầy đủ mọi điều dạ ước mơ,

Ta hỏi Long Vương, xin nói thật,

Cõi người sao lại muốn an cư?

Long Vương:

 Không đâu trừ Thế Giới người đời

Thanh tịnh, điều thân được thấy rồi,

Chỉ sống giữa đời người thế tục

Đọan trừ sinh tử kiếp sau thôi.

Alàra:

Dù hưởng đầy hoan lạc dị thường,

Cùng Long Vương sống suốt năm trường,

Giờ ta vĩnh biệt, ra đi mau,

Không ở nữa, vì xa cố hương.

Long Vương:

Thê nhi trẫm với lũ cung nhân

Được luyện hầu Ngài, lệnh phục tuân,

Chắc chẳng kẻ nào gây xúc phạm,

Vì Ngài, trẫm thấy rất thương thân.

Alàra:

Đủ mặt mẹ cha thắm thiết tình,

Hân hoan tràn ngập cả gia đình,

Còn nhiều người quý yêu con trẻ,

Song lạc tối cao giữa chúng sinh

Ta được thấy đây, Long Đế hỡi,

Vì Ngài đầy thắm thiết bên mình.

Long Vương:

Bảo châu trẫm có điểm hồng vân

Đem đại phú cho kẻ thiếu phần,

Nhận lấy về nhà, khi phú quý,

Xin đưa trả ngọc lại Long quân.

Ẩn Sĩ sau khi nói xong những lời này, liền tiếp tục như sau: Tâu Đại Vương, sau đó ta đáp lời Long Vương: Tâu Đại Đế, ta không mang giàu sang, ta chỉ muốn xuất gia tu hành. Sau khi xin ban đủ mọi vật cần thiết cho đời sống tu hành Ẩn Sĩ, ta từ giã cảnh giới Nàga cùng với Long Vương, và khi đã mời Ngài trở lui về, phần ta vào vùng Tuyết Sơn tu tập.

Nói xong, Ẩn Sĩ này lại thuyết giáo cho Vua Ba La Nại và ngâm thêm hai vần kệ:

Dục tham trần thế thoáng qua nhanh

Chẳng phục tuân quy luật trưởng thành,

Thấy khổ phát sinh từ ái dục,

Tín tâm dẫn bước đến tu hành.

Người tàn như trái rụng, tiêu vong,

Già trẻ, muôn loài rã mục thân,

Ta chỉ trú an trong Thánh hạnh,

Tối ưu là thực thể thuần chân.

Nghe lời này, Vua ngâm kệ đáp lời:

Bậc Hiền có trí tuệ uyên thâm,

Chư vị tu thiền định chú tâm

Đề mục tối cao, mà tất cả

Chúng ta phải luyện tập tinh cần.

Nghe lời Ngài dạy, cùng Long Đế,

Trẫm thực hành toàn nghiệp thiện chân.

Vị Ẩn Sĩ muốn khuyến khích tinh tấn lực của Vua, liền ngâm kệ kết thúc:

Bậc Hiền, có trí tuệ uyên thâm,

Chư vị tu thiền định chú tâm

Đề mục tối cao, mà tất cả

Chúng ta phải luyện tập tinh cần.

Nghe lời ta dạy, cùng Long Đế,

Chúa Thượng thực hành nghiệp thiện chân.

Vị này thuyết giáo như vậy với Vua và sau khi ở lại đó bốn tháng mùa mưa, liền trở về Tuyết Sơn sống và tu tập tứ vô lượng tâm đến khi mạng chung, được tái sinh Phạm Thiên Giới.

Còn Vua Samkhapàla. Trong suốt quãng đời còn lại, chuyên tâm hành trì các ngày trai giới, bố thí, cùng nhiều thiện sự khác, nên sau khi mạng chung, Ngài đi theo nghiệp của mình.

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Đạo Sư nhận diện tiền thân: Thời bấy giờ, vị Vua cha trở thành Ẩn Sĩ khổ hạnh chính là Kassapa Ca Diếp, Vua Ba La Nại là Ànanda A Nan, Ẩn Sĩ Alàra là Sàriputta Xá Lợi Phất và Long Vương Samkhapàla chính là ta.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần