Phật Thuyết Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô Tướng - Phẩm Mười Tám - Phẩm Pháp Sư Công đức

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm

PHẬT THUYẾT MUÔN PHÁP HỘI

TRỔ MỘT HOA VÔ TƯỚNG

Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm  

PHẨM MƯỜI TÁM

PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC  

Tay thắp đuốc mong soi dòng phù thế

Tay chép tờ Kinh mực đọng như sương.

Thực tướng Pháp Hoa không sắc, không hương

Chẳng tại, chẳng ly, bất đồng, bất dị.

Bất hữu, bất vô, phi nhị, phi bất nhị

Không tướng bồ đề, cũng chẳng tướng thế nhân

Chẳng xã phàm phu, chẳng thủ thánh thần

Chúng sanh giới tướng như Chư Phật giới.

Không thấy tịnh thanh, thấy đâu buộc trói

Nhập pháp không là A Nậu Đa La

Pháp ấn Như Lai thực tướng Pháp Hoa

Không một pháp, không một người, một vật

Ai người khai ân, ai người thọ nhận

Cũng là thân mà cũng chẳng là thân

Pháp thuyết ra đồng một vị xuất trần

Vị giải thoát, vị viễn ly, tịch diệt.

Quán chiếu Pháp Hoa tam bình Đẳng Giác:

Thân chúng sinh đồng tánh với Phật thân

Thân vô biên, thanh tịnh, thể là không

Không tự nhận, đắm chìm trong ngã, pháp.

Chuyển nghiệp lực hóa thân làm Bồ Tát

Chuyển tàn thân, vạt cỏ hóa đài hoa

Áo lụa xanh xuân hạ hóa Cà Sa

Chiếc hài rách vương bụi vàng cõi tịnh.

Tâm đồng thể rỗng rang không loạn, định

Một tâm này nào khác với Phật tâm

Vô minh kia bổn tánh cũng là không

Nhập vô trụ hạnh Bồ Đề Tát Đỏa

Như thật trí biết pháp từ không hóa

Muốn gặp Như Lai, đi đường Phật thường đi

Biết chúng sinh như huyễn, khởi tâm bi

Biết ngã tịnh tức chúng sinh cũng tịnh.

Dấu chân người có đâu ngoài bước Phật

Rừng dâu xanh rụng lá cội Bồ Đề

Pháp giới nhất chân không chỗ đến, chỗ về

Nhập Phật độ không tướng và không cảnh.

Nước hồ tĩnh lặng soi viền trăng lạnh

Viền trăng kia nào lựa chỗ, chọn hình

Ngã đã không, xứ, giới, chỗ nào sinh

Mười phương Phật thương chúng sinh huyễn hiện.

Nên thường tịch, nên thường quang huyền biến

Tánh là không nên tướng cũng là không

Như hằng sa Phật Quốc Cõi Trời Đông

Ai lường được pháp môn vô lượng nghĩa.

Văn tự Pháp Hoa lời là phương tiện

Kẻ tri âm đạt lý bỏ quên lời

Trắng tờ Kinh danh tự hóa ra người

Ai về rải hoa trời thơm cõi tục.

Tụng dòng Kinh ví cưỡi rồng trên sóng nước

Đoạt ngọc long châu chớ lấy chút vảy rồng.

Lúc bấy giờ chư Bồ Tát, Thanh Văn

Quỳ dưới bệ trí rạng ngời huệ giác

Tâm tùy hỷ thơm hương sen Ưu Bát

Linh Thứu sơn bạch hạc múa cung tiên

Chiếc bồ đoàn hóa tòa báu Phạm Thiên

Gió ru lá, xanh đôi cành thiên điểu.

Phật dạy rằng: Trang nghiêm thân vi diệu

Giải lời Kinh hoặc đọc tụng, thọ trì

Mắt huệ quang thấu suốt ngục A tỳ

Vượt Cõi Sắc lên đến Trời Hữu Đỉnh

Tám trăm công đức nhãn căn thanh tịnh

Thấy Trời, người, thấy nghiệp quả đến, đi

Núi Diệu Cao vời vợi ngọn Thiết Vi

Không thiên nhãn đã diệu kỳ thần biến.

Thấy Sắc rỗng không, vô trụ nên vô ngại

Thấy pháp thế gian biến dạng gọi là sinh

Thấy bồ đề không tướng cũng không danh

Thấy địa ngục, thiên đường trong năm uẩn

Thấy giải thoát trong lòng tay mở, nắm

Thấy tham cầu chánh pháp hóa ra tà

Thấy không người, không cảnh cũng không ta

Thấy vạn pháp trên dòng mây phù lãng

Thấy vô tướng như hư không bình đẳng

Thấy pháp thân trên thập giá bao phen

Công đức sinh từ cái thấy gọi là thiền

Không nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý.

Và sáu căn cũng thấy đồng như vậy

Mở một căn là mở cả sáu căn

Một cửa vào thấy sáu thức, sáu trần

Mười tám giới tánh nhiệm mầu thanh tịnh.

Lại dạy rằng: Lắng nghe Thường Tinh Tiến!

Người thiện nam, thiện nữ thọ trì Kinh

Một nghìn hai trăm công đức nhĩ căn

Tiếng khắp Cõi Tam Thiên không sai lạc.

Nghìn âm điệu mở ra lời như thật

Một lần nghe là nghe lại chân tâm

Cầu đoạn trường qua mấy nhịp dư âm

Tiếng rời rã của hoang tàn, ảo tượng

Tiếng đành đoạn một dòng tâm mê loạn

Tiếng thét gào máu pha lệ lầm than

Tiếng Bích Chi, Duyên Giác, tiếng Thanh Văn

Tiếng Hữu Đỉnh, Quang Âm và Biến Tịnh

Tiếng giáo pháp của các hàng đại thánh

Tiếng Như Lai thâm áo nghĩa thiên chân

Tiếng hoa rơi phô dáng vẻ vô thường

Tiếng suối chảy khen lời vi diệu pháp

Công đức sinh từ nhĩ căn vô sở đắc

Dòng khe xanh cá nghe được lời Kinh

Chim vườn xuân im tiếng hót nghiêng mình

Tàu lá mới chen cành nghe mật ngữ.

Người trì Kinh, thiện nam và thiện nữ

Được tám trăm công đức tại tỷ căn

Một làn hơi dài, ngắn, cõi thế trần

Hoặc thanh tịnh ngữi hương trời các cõi

Hoa chiên đàn, mạn thù sa, trầm thủy

Hương trầm thơm thân chư vị thiên vương

Áo thanh đồng, Thiên nữ, lụa bay hương

Thơm chuỗi ngọc tịnh châu ngời thánh thể

Cành thiên hương nở thơm hoa hồng quế

Mây khánh tường năm sắc dấu hài tiên

Núi Thiết Vi, biển Kiềm Hải bao quanh

Tiểu thế giới như vi trần ẩn, hiện

Người trì Kinh biết thiên ma ngọc điện

Gió thiên cung động các vị con trời

Khi tham sân, lúc phóng dật dạo chơi

Biết tâm niệm, biết thân nam, thân nữ

Chốn hoang vu, núi dựng thành hiểm trở

Biết giang san mãnh hổ chúa sơn lâm

Sư Tử Vương tiếng rống động núi rừng

Bờ suối vắng in dấu chân bạch tượng

Cửa thạch động dạ minh châu thắp đuốc

Vườn tàn xuân rơi nửa cánh phù dung

Kệ đôi dòng phóng bút của người tu

Phiến lá quỳ bức tiên hoa đậm nét.

Hoa phước báu ai rụng tàn cung nguyệt

Hạt thiện tâm nẩy lộc cửa thiên đình

Trời Quang Âm, Hữu Đỉnh, Biến Tịnh Thiên

Xuất nhập định cung thiền Trời Phạm Thế.

Hoặc lều cỏ vách đề đôi câu kệ

Hoặc cầu mây thanh thoát lối kinh hành

Hoặc ven rừng, dốc suối, tụng dòng Kinh

Hoặc nghiêm tịnh tọa thiền nơi thảo dã.

Hội Linh Sơn, lời Thế Tôn giáo hóa

Như nghìn năm chưa dứt khói trầm bay

Như nghìn năm sáo ngọc trổi đất này

Áo chư thánh bày vai, quỳ gối hữu.

Người trì Kinh nhất vị đồng tánh giác

Một nghìn hai trăm công đức thiệt căn

Lưỡi sen hồng cánh ngọc vỡ nhất âm

Từ tâm xuất miệng thơm lời vô thượng

Thuyền duyệt thực nuôi thân, tâm tăng trưởng

Pháp Như Lai làm hoa trái, dưa rau

Lời nguyện giữa Trời đối diện trăng sao

Niệm danh Phật làm khẩu xưng tam muội

Niệm chân như là Niết Bàn giải thoát

Ngôn ngữ hợp hòa, chính, thực, thuận nhu

Như sương mai trên nhánh lá nghìn thu

Như suối mát tuôn giọt châu như ý

Khi cần mở miệng, nói lời thượng trí

Môi hồng thơm pháp vị uống trăng thanh

Tạo nhân duyên ngôn giáo dẩn chúng sinh

Cõi Trời, người đồng chắp tay cung kính

Trang sách ngọc tụng câu Kinh viên diệu

Đất hộ trì, trời che chở giữ gìn

Phật hiện thân khiến tăng trưởng lòng tin

Lời như thực viên âm làm công đức.

Vô lượng thân hóa muôn thiên bách ức

Đại từ tâm viên mật Phật hóa người

Bỏ lại trầm luân, đời bỏ lại đời

Người hóa Phật cũng đồng tâm, đồng cảnh.

Ánh sáng trên thân rạng ngời nguyệt bạch

Như dòng trong phai nhạt dấu lục phàm

Một thân này thâu lại đại tam thiên

Mở trời đất, dựng thiên đường, địa ngục.

Trận cuồng lưu đổ tràn trên sức sóng

Giọt sương hồng có mặt giữa đại dương

Thân rồi thân hóa hiện cõi vô thường

Hạnh thanh tịnh được tám trăm công đức.

Người trì Kinh mắt huệ đồng tánh giác

Biết danh ngôn, văn tự tánh là không

Dùng ý căn tịnh huệ thọ trì Kinh

Không nắm giữ tức hộ trì chánh tạng

Ý không ý tức không ngoài pháp ý

Một dòng Kinh thấu suốt tánh vô biên

Đạt biện tài giải nói nghĩa thâm huyền

Vô lượng nghĩa sinh ra từ một pháp.

Biết thế pháp tánh đồng như Phật Pháp

Thánh trí từ năm ấm mở bày ra

Như cây khô một sớm nở hồng hoa

Tàn sương gió trải bao mùa ấm lạnh.

Lìa thân, cảnh, không, thời là chánh định

Một nghìn hai trăm công đức ý căn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần