KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN (Trọn Bộ - Bản chuẩn nhất)
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện, xuất từ Đại Thừa tập - tạng Địa Tạng Thập luân kinh cuốn một, nằm trong Đại Tạng Kinh, tập mười ba, từ trang 721 đến trang 777. Tam Tạng Kinh Điển - Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Thích Trí Tịnh
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng
Việt nghĩa: Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Việt dịch: Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Vạn Phật Thánh Thành
|ĐẠO PHẬT ONLINE|TRANG CHỦ PHẬT GIÁO ORG|VẬT PHẨM PHẬT GIÁO|
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện, xuất từ Đại Thừa tập - tạng Địa Tạng Thập luân kinh cuốn một, nằm trong Đại Tạng Kinh, tập mười ba, từ trang 721 đến trang 777.
____________________________________________
- TỤNG KINH ĐỊA TẠNG HỒI HƯỚNG TỔ TIÊN CỬU HUYỀN THẤT TỔ, HƯƠNG LINH, OAN GAI TRÁI CHỦ, VONG LINH
- HƯỚNG DẪN TỤNG KINH ĐỊA TẠNG TẠI NHÀ
Hô Chuông Đại Hồng Sáng | Sư Chú Chơn Tạng | Làng Mai
MỤC LỤC
- Duyên khởi của Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
- Nghi thức khai Kinh
Phần I: Quyển Thượng
- Phẩm thứ nhất: Phật hiện thần thông trên cung trời Đao Lợi.
- Phẩm thứ hai: Phân thân tập hội
- Phẩm thứ ba: Quán nghiệp duyên chúng sinh
- Phẩm thứ tư: Nghiệp cảm chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề
Phần II: Quyển Trung
- Phẩm thứ năm: Danh hiệu của Địa Ngục
- Phẩm thứ sáu: Như Lai tán thán
- Phẩm thứ bảy: Lợi ích cho kẻ còn, cả người mất
- Phẩm thứ tám: Các vua Diêm La và quyến thuộc khen ngợi
- Phẩm thứ chín: Xưng danh hiệu chư Phật
Phần III: Quyển Hạ.
- Phẩm thứ mười: Nhân duyên và sự so sánh công đức bố thí
- Phẩm thứ mười một: Địa Thần Hộ Pháp
- Phẩm thứ mười hai: Thấy nghe đều được lợi ích
- Phẩm thứ mười ba: Giao phó trời người
- Đôi nét về dịch giải: Hoà Thượng Thích Trí Tịnh
________________________________________________
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN - QUYỂN THƯỢNG
DUYÊN KHỞI KINH ĐỊA TẠNG.
Duyên khởi để Phật thuyết Kinh Địa Tạng tại Trời Đao Lợi.
"Khi thành Phật, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp ròng rã suốt bốn mươi chín năm, giảng Kinh tại hơn ba trăm Pháp Hội, song thủy chung vẫn chưa siêu độ cho Ma-Da Phu Nhân, thân mẫu của Phật. Ðức Phật Thích Ca vốn được sanh ra từ cạnh sườn (phía trên bụng) bên trái của thân mẫu, và hạ sinh Ngài xong thì Ma-Da Phu Nhân qua đời. Sau khi chứng đắc Phật Quả, Ngài quán xét và biết là Thánh Mẫu đã được thác sanh lên cõi trời.
Bấy giờ, lúc đã thuyết xong Kinh Pháp Hoa và trước khi thuyết Kinh Niết Bàn, Phật Thích Ca nhớ đến mẫu thân nên liền lên cung trời Ðao Lợi ba tháng để thuyết Pháp cho Thánh Mẫu nghe. Phật đã thuyết Kinh Ðịa Tạng, một bộ kinh dạy về đạo hiếu. Vậy, do muốn cứu độ từ mẫu nên Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã lên cung trời Ðao Lợi thuyết giảng Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Ðức Phật vì mẹ mà tuyên thuyết giáo pháp Kinh Ðịa Tạng; thế thì bộ Kinh này phải chăng rất trọng yếu!
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lên cõi trời Ðao Lợi là để độ thân mẫu. Sau khi Phật ra đời được bảy ngày, thì thân mẫu của Phật là Ma Da Phu Nhân qua đời và sau đó được sanh lên cõi trời Ðao Lợi. "Ma Da" (Maya) là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là "Ðại Thuật", và cũng là "Huyễn". Thánh Mẫu Ma Da từng là mẹ của ngàn đức Phật trong thời quá khứ, là đấng sanh thành của tất cả chư Phật xuất thế.
Thánh Mẫu làm mẹ của Ðức Phật, đến khi Ðức Phật thành Phật lại đi thuyết pháp để độ Thánh Mẫu - đây có thể ví như một vở tuồng ở nhân gian chúng ta vậy. Thế gian này, nếu quý vị hiểu rõ thì sẽ thấy tất cả đều giống như một vở kịch, mà các tình tiết, các màn diễn trong đó đều nói lên chân đế của cuộc đời, một thứ chân lý của nhân sinh. Nếu thấu suốt được một chân lý này, thì quý vị cũng sẽ thông hiểu được chân lý kia. Cho nên, những kẻ không hiểu mà xem kịch thì chỉ thấy các tình tiết diễn tiến cùng những cảm xúc vui buồn tan hợp, hoặc vui mừng, đau đớn, xót xa, sợ sệt, yêu thương, ganh ghét, thù hận, mong cầu... của vở kịch. Còn người sáng suốt, từng trải thì sao? Họ biết rằng đó chỉ là một vở kịch và tất cả vốn như huyễn như hóa - đời người chẳng qua là như thế mà thôi! Kinh Kim Cang có dạy:
"Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn, bọt nước,
Như sương mai, điện chớp,
Nên quán tưởng như vậy."
Thế nên, việc giáo hóa chúng sanh đối với Phật cũng là Du Hý Tam Muội, Phật không xem đó là điều đáng kể. Phật không như phàm phu chúng ta - chấp đông chấp tây, chấp nam chấp bắc, chấp trên chấp dưới, không thấy được tất cả đều là viên dung vô ngại. Kỳ thực, mọi cảnh giới chẳng qua đều là giả dối, không thật; nếu quý vị không có được cái nhìn như vậy, tức là còn chấp trước.
Phật Mẫu Ma Da Phu Nhân là mẹ của cả ngàn đức Phật; và mỗi đức Phật sau khi thành Phật đều lên cõi trời Ðao Lợi thuyết Pháp cho mẫu thân nghe.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp gì cho Phật Mẫu nghe? Phật thuyết Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, một giáo pháp về hiếu đạo.
Chúng ta, ai ai cũng phải hiếu thảo với cha mẹ; vì sao? Vì cha mẹ là gốc rễ của con người - chúng ta hiếu thảo với cha mẹ thì cũng giống như tự chăm bón, vun bồi cái gốc của chính mình vậy. Cho nên, kẻ bất hiếu thì tương lai chắc chắn chẳng có triển vọng gì. Người biết hiếu thảo với cha mẹ, tức là biết chăm sóc, bồi đắp gốc rễ của mình cho vững chắc, thì tiền đồ nhất định sẽ huy hoàng, xán lạn. Có câu:
Bổn cố chi vinh, căn thâm diệp mậu (Gốc vững cành nhiều, rễ sâu lá tốt). Nghĩa là cái gốc mà được vun phân tưới nước, chăm sóc kỹ lưỡng thì cây sẽ đâm chồi nẩy lộc; rễ mà bám sâu vào đất thì cành lá sẽ sum xuê, tươi tốt.
Như vậy, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vì mẹ mà tuyên thuyết giáo pháp về hiếu đạo này."
Trích: Bài giảng Kinh Địa Tạng-Hoà Thượng Tuyên Hoá
NGHI THỨC KHAI KINH
(dâng hương, thành tâm trước ban thờ Phật hoặc gia tiên)
CHÚ ĐẠI BI
TỰA ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
CHÍ TÂM QUY MẠNG LỄ:
U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
Lạy đức từ bi đại Giáo Chủ
“Địa” là dày chắc, “Tạng” chứa đủ
Cõi nước phương Nam nổi mây thơm,
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ
Mây xinh, mưa báu số không lường
Lành tốt, trang nghiêm cảnh dị thường.
Người, Trời bạch Phật: Nhơn gì thế?
Phật rằng: Địa Tạng đến Thiên Đường
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng.
Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng
Nay con sẵn có thiện nhơn duyên
Ngợi khen Địa Tạng đức vô lượng
Lòng từ do chứa hạnh lành
Trải bao số kiếp độ sinh khỏi nàn
Trong tay đã sẵn gậy vàng,
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sinh
Tay cầm châu sáng tròn vìn,
Hào quang soi khắp ba nghìn
Đại Thiên Diêm Vương trước điện chẳng hiền
Đài cao nghiệp cảnh soi liền tội căn
Địa Tạng Bồ Tát thượng nhân
Chứng minh công đức của dân DiêmPhù
Đại Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh, Đại Từ, Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (Câu chót đọc 3 lần)
TÁN NGUYỆN HƯƠNG
Nguyện mây hương mầu nầy
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn pháp, các Bồ Tát,
Vô biên chúng Thanh Văn
Và cả thảy Thánh Hiền,
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi
Xông khắp các chúng sinh
Đều phát Bồ Đề tâm
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô thượng
Nam mô Hương cúng dường Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
VĂN PHÁT NGUYỆN
Lạy đấng Tam Giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện rộng
Thọ trì kinh Địa Tạng
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ tam đồ,
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát Bồ Đề tâm
Hết một báo thân nầy
Sinh qua cõi Cực Lạc
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(3 lần)
KỆ KHAI KINH
Pháp vi diệu rất sâu vô lượng
Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Phật.
Nam mô U Minh giáo chủ hoằng nguyện độ sanh:
Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật
Chúng sinh độ tận phương chứng Bồ Đề
Đại Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh, Đại Từ,Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
QUYỂN THƯỢNG
PHẨM THỨ NHẤT
THẦN THÔNG TRÊN CUNG TRỜI ĐAO LỢI
1) PHẬT HIỆN THẦN THÔNG.
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao Lợi, Ðức Phật vì Thánh Mẫu mà thuyết Pháp.
Lúc ấy, không thể nói hết không thể nói hết tất cả chư Phật và Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát trong vô lượng thế giới ở mười phương đều đến hội họp tán thán Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể ở trong đời ác Ngũ Trược mà hiện sức Ðại Trí Huệ, Thần Thông không thể nghĩ bàn điều phục những chúng sanh cang cường, khiến cho họ biết được pháp khổ, pháp vui. Rồi mỗi Ngài đều sai thị giả đến vấn an Ðức Thế Tôn.
Bấy giờ, Ðức Như Lai mỉm cười, phóng ra trăm ngàn muôn ức vầng mây sáng rỡ lớn như là;
- Vầng mây sáng Ðại Viên Mãn
- Vầng mây sáng Ðại Từ Bi
- Vầng mây sáng Ðại Trí Huệ
- Vầng mây sáng Ðại Bát Nhã
- Vầng mây sáng Ðại Tam Muội
- Vầng mây sáng Ðại Kiết Tường
- Vầng mây sáng Ðại Phước Ðức
- Vầng mây sáng Ðại Công Ðức
- Vầng mây sáng Ðại Quy Y
- Vầng mây sáng Ðại Tán Thán.
Ðức Phật phóng ra không thể nói hết vầng mây sáng rỡ như thế rồi lại phát ra các âm thanh vi diệu, như là;
- Tiếng Ðàn Ba La Mật
- Tiếng Thi Ba La Mật
- Tiếng Sằn Ðề Ba La Mật
- Tiếng Tỳ Ly Da Ba La Mật
- Tiếng Thiền Ba La Mật
- Tiếng Bát Nhã Ba La Mật
- Tiếng Từ Bi
- Tiếng Hỷ Xả
- Tiếng Giải Thoát
- Tiếng Vô Lậu
- Tiếng Trí Huệ
- TIếng Ðại Trí Huệ
- Tiếng Sư Tử Hống
- Tiếng Ðại Sư Tử Hống
- Tiếng Mây Sấm, tiếng Mây Sấm Lớn.
2) TRỜI RỒNG … HỘI HỌP
Khi Ðức Phật phát ra không thể nói hết không thể nói hết âm thanh như thế xong từ thế giới Ta Bà và các cõi nước phương khác, có vô lượng ức Thiên, Long, Quỷ, Thần cũng đến tụ tập tại cung trời Ðao Lợi. Ðó là;
- Thiên chúng ở trời Tứ Thiên Vương, Trời Ðao Lợi
- Trời Tu Diệm Ma, trời Ðâu Suất Ðà, trời Hóa Lạc
- Trời Tha Hóa Tự Tại, trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ
- Trời Ðại Phạm, trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang
- Trời Quang Âm, trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh
- Trời Biến Tịnh, trời Phước Sanh, trời Phước Ái
- Trời Quảng Quả, trời Vô Tưởng, trời Vô Phiền
- Trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện
- Trời Sắc Cứu Cánh, trời Ma Hê Thủ La, cho đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Tất cả Thiên chúng, Long chúng, cùng các chúng Quỷ, Thần đều đến hội họp.
Lại có những vị thần ở các cõi nước phương khác cùng thế giới Ta Bà, như Thần biển, Thần sông cái, Thần sông con, Thần cây, Thần núi, Thần đất, Thần suối và ao đầm, Thần cây con và hạt giống, Thần ngày, Thần đêm, Thần hư không, Thần trên trời, Thần ăn uống, Thần cỏ cây và gỗ; các vị thần như thế đều đến hội họp.
Lại có chư đại quỷ vương ở các cõi nước phương khác cùng thế giới Ta Bà, như Ác Mục Quỷ Vương, Ðạm Huyết Quỷ Vương, Ðạm Tinh Khí Quỷ Vương, Ðạm Thai Noãn Quỷ Vương, Hành Bệnh Quỷ Vương, Nhiếp Ðộc Quỷ Vương, Từ Tâm Quỷ Vương, Phước Lợi Quỷ Vương, Ðại Ái Kính Quỷ Vương..., các quỷ vương như thế đều đến hội họp.
3) ĐỨC PHẬT PHÁT KHỞI.
Bấy giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: "Ông xem tất cả chư Phật, Bồ Tát và Trời, Rồng, Quỷ, Thần ở trong thế giới này cùng thế giới khác, quốc độ này cùng quốc độ khác, nay đều đến hội họp tại cung trời Ðao Lợi như thế, Ông có biết số bao nhiêu chăng?"
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu dùng thần lực của con để tính đếm trong ngàn kiếp, cũng không thể biết được!"
Ðức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: "Ngay Ta dùng Phật Nhãn xem hãy còn không đếm xiết! Ðây đều là do Ðịa Tạng Bồ Tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay, hoặc đã độ, đương độ, chưa độ, hoặc đã thành tựu, đương thành tựu, chưa thành tựu."
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ thuở lâu xa về trước con đã tu căn lành, chứng được Trí Vô Ngại, nghe lời Phật nói đó thời tin nhận liền. Còn hàng Tiểu Quả Thanh Văn, Thiên Long Bát Bộ, và những chúng sanh đời vị lai, dẫu nghe lời thành thật của Như Lai, nhưng chắc là sanh lòng nghi ngờ, dầu cho có lạy vâng đi nữa cũng chưa khỏi hủy báng. Cúi mong Ðức Thế Tôn nói rõ Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ở nhân địa đã tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?"
Ðức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: "Ví dụ trong cõi Tam Thiên Ðại Thiên thế giới có bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, đay, tre, lau, núi, đá, bụi bặm, cứ mỗi vật một số, mỗi số là một sông Hằng; rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, mỗi hạt cát làm một cõi giới; rồi trong mỗi cõi giới, cứ mỗi hạt bụi làm một kiếp; rồi bao nhiêu số bụi chứa trong mỗi kiếp đều đem làm kiếp cả; thì từ lúc Ðịa Tạng Bồ Tát chứng quả vị Thập Ðịa đến nay, ngàn lần lâu hơn số kiếp tỷ dụ ở trên, huống là từ những thuở Ðịa Tạng Bồ Tát còn ở bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật!"
"Này Văn Thù Sư Lợi! Oai thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn đến được. Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào nghe thấy danh tự của Bồ Tát đó rồi hoặc tán thán, hoặc chiêm lễ, hoặc xưng niệm danh hiệu, hoặc cúng dường, cho đến tô vẽ, chạm khắc, tạc đúc, sơn thếp hình tượng, thì người ấy sẽ được một trăm lần sanh lên cõi trời Ba MươI Ba, vĩnh viễn chẳng còn bị đọa vào ác đạo.
4) TRƯỞNG GIẢ TỬ PHÁT NGUYỆN
Này Văn Thù Sư Lợi! Không thể nói hết không thể nói hết số kiếp lâu xa về trước, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát là con trai của một vị đại Trưởng Giả. Thuở đó, trong đời có đức Phật hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai.
Lúc bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả thấy Ðức Phật tướng mạo tốt đẹp, ngàn phước trang nghiêm, bèn bạch hỏi Ðức Phật đó tu hạnh nguyện gì mà được tướng mạo như thế.
Khi ấy, Ðức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo con trai vị Trưởng Giả rằng: ‘Muốn chứng được thân tướng này, cần phải lâu đời độ thoát tất cả những chúng sanh bị khốn khổ.’
"Này Văn Thù Sư Lợi! Bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả nhân đó liền phát nguyện rằng: ‘Từ nay cho đến tận vị lai kiếp chẳng thể tính đếm về sau, tôi sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo mà rộng lập nhiều phương tiện, làm cho họ được giải thoát tất cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo.’
Bởi đã ở trước Ðức Phật đó mà lập đại nguyện như thế, nên đến nay đã trăm ngàn vạn ức na-do-tha không thể nói hết số kiếp, mà vẫn còn làm vị Bồ Tát.
5) BÀ LA MÔN NỮ CỨU MẸ
Lại không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp về trước, thuở đó trong đời có đức Phật hiệu là Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai; thọ mạng của Ðức Phật ấy là bốn trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp.
Trong thời Tượng Pháp, có một người con gái dòng Bà La Môn nhiều đời tích phước sâu dày, được mọi người kính nể, đi đứng nằm ngồi đều được chư Thiên theo hộ vệ; song bà mẹ lại tin theo tà đạo, thường khinh chê ngôi Tam Bảo.
Thuở ấy, Thánh Nữ lập nhiều phương tiện để khuyến dụ mẹ, hầu làm cho bà sanh chánh kiến, nhưng bà chưa tin hẳn; và chẳng bao lâu thì bà mệnh chung, thần hồn bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
Lúc đó, Thánh Nữ Bà La Môn biết rằng bà mẹ khi còn sống không tin nhân quả, ắt phải theo nghiệp mà sanh vào đường ác, bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương, hoa, cùng những đồ lễ cúng, rồi đem đến chùa tháp thờ tiên Phật mà làm đại lễ cúng dường.
Trong một ngôi chùa kia, trông thấy hình tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm, Thánh Nữ Bà La Môn chiêm lễ tôn dung, lòng càng bội phần kính ngưỡng, thầm nghĩ rằng: ‘Ðức Phật là đấng Ðại Giác đầy đủ mọi trí huệ. Nếu Ðức Phật còn tại thế, thì sau khi mẹ tôi mất, thảng như tôi đến bạch hỏi Phật, tất biết được nơi mẹ tôi thác sanh!’
Lúc ấy, Thánh Nữ Bà La Môn cúi đầu khóc rất lâu, rồi lại chiêm luyến tôn tượng của Như Lai, bỗng nghe trên không trung có tiếng bảo rằng: ‘Này Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay Ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi!’
Thánh Nữ chắp tay hướng lên hư không mà bạch rằng: ‘Chẳng hay đức thần nào đã giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi ngày đêm thương nhớ, không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào.’
Bấy giờ, trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: ‘Ta là Ðức Phật quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đương chiêm lễ đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh, nên Ta đến chỉ bảo.’
Thánh Nữ Bà La Môn nghe nói xong liền nhảy chồm lên và bị té rớt xuống, các khớp tay chân đều bị tổn thương; những người ở cạnh bên liền đỡ dậy. Một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại, rồi bạch cùng trên hư không rằng: ‘Cúi xin Ðức Phật từ bi thương xót, bảo ngay cho con rõ chỗ thác sanh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!’
Lúc ấy, Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ rằng: ‘Cúng dường xong, ngươi hãy mau trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời sẽ biết được chỗ thác sanh của mẹ ngươi.’
Bấy giờ, lễ Phật xong Thánh Nữ Bà La Môn liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu của Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Trải suốt một ngày một đêm, Thánh Nữ bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia, nước trong biển đó sôi sùng sục, có rất nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhảy trên mặt biển, chạy rảo bên này, xua đuổi bên kia; và thấy những trai cùng gái, số nhiều đến trăm ngàn muôn, thoạt chìm thoạt nổi trong biển, bị các thú dữ giành nhau ăn thịt; lại thấy các Dạ Xoa hình thù khác nhau hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều chân, nhiều đầu..., răng nanh chìa ra ngoài miệng, bén nhọn dường gươm đang lùa những người tội đến gần thú dữ. Rồi chúng lại tự chụp bắt, túm quắp đầu chân lại với nhau, hình trạng muôn thứ, chẳng dám nhìn lâu.
Khi ấy, Thánh Nữ Bà La Môn nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ. Có một Quỷ Vương tên là Vô Ðộc, đến cúi đầu nghênh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: ‘Lành thay, Bồ Tát! Do duyên sự gì mà Ngài đến chốn này?’
Bấy giờ, Thánh Nữ Bà La Môn hỏi Quỷ Vương rằng: ‘Ðây là chốn nào?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ðây là tầng biển thứ nhất ở phía Tây núi Ðại Thiết Vi.’
Thánh Nữ hỏi rằng: ‘Tôi nghe trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thật chăng?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Thật có địa ngục!’
Thánh Nữ hỏi rằng: ‘Nay tôi làm sao được đến chốn địa ngục?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Nếu không phải sức oai thần, cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra, ắt không bao giờ có thể đến được.’
Thánh Nữ lại hỏi: ‘Do duyên cớ gì mà nước trong biển này sôi sùng sục và có những người tội cùng các thú dữ như thế?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ðây là những chúng sanh tạo ác ở cõi Diêm Phù Ðề mới chết, quá bốn mươi chín ngày không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho; lúc sống, họ lại không làm được nhân lành nào cả; vì thế nên cứ theo bổn nghiệp mà chiêu cảm lấy địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này trước. Cách biển này mười vạn do-tuần về phía Ðông lại có một cái biển, những sự thống khổ ở đó còn gấp bội chốn này. Phía Ðông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ ở đó càng trội hơn. Do ác nhân của Tam Nghiệp cảm vời ra và gọi chung là biển nghiệp, chính là chốn này vậy.’
Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Ðộc rằng: ‘Ðịa ngục ở đâu?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ở trong ba cái biển đó đều là đại địa ngục, nhiều đến số trăm ngàn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thì có mươi tám chỗ; bực kế đó có năm trăm chỗ, đủ không lường sự khổ sở; bực kế nữa có đến ngàn trăm, cũng đầy không lường sự thống khổ.’
Thánh Nữ lại hỏi Ðại Quỷ Vương rằng: ‘Thân mẫu tôi mới mất gần đây, song không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?’
Quỷ Vương hỏi Thánh Nữ rằng: ‘Thân mẫu của Bồ Tát khi còn sống, quen làm những nghiệp gì?’
Thánh Nữ đáp rằng: ‘Thân mẫu tôi tà kiến, khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm tin, nhưng rồi chẳng kính; dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ thác sanh về đâu.’
Vô Ðộc hỏi rằng: ‘Thân mẫu của Bồ Tát tên họ là gì?’
Thánh Nữ đáp rằng: ‘Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà La Môn. Thân phụ tôi hiệu là Thi La Thiện Kiến, thân mẫu tôi tên là Duyệt Ðế Lợi.’
Vô Ðộc chắp tay thưa Bồ Tát rằng: ‘Xin Thánh Giả hãy trở về, và chớ thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt Ðế Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi. Nghe nói nhờ con trai của bà có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà thiết cúng để tu phước, và bố thí chùa tháp thờ Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ thân mẫu của Bồ Tát được thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhân Vô Gián cũng đều được an lạc, đồng được thác sanh cả.’
Nói xong, Quỷ Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui."
Thánh Nữ Bà La Môn dường chiêm bao chợt tỉnh, rõ biết các việc rồi, bèn đối trước tháp tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà lập hoằng thệ nguyện rằng: ‘Tôi nguyện từ nay cho đến tận vị lai kiếp, sẽ vì những chúng sanh mắc phải tội khổ mà rộng lập phương tiện, khiến cho họ đều được giải thoát.’
Ðức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: "Quỷ Vương Vô Ðộc ngày trước, nay chính là Tài Thủ Bồ Tát; còn Thánh Nữ Bà La Môn đó, nay là Bồ tát Ðịa Tạng vậy."
PHẨM THỨ HAI
PHÂN THÂN TẬP HỘI
1) HÓA THÂN CÙNG QUYẾN THUỘC.
Lúc đó, phân thân của Bồ Tát Ðịa Tạng từ các nơi có địa ngục trong trăm ngàn muôn ức không thể nghĩ, không thể bàn, không thể tính đếm, không thể nói hềt, vô lượng a-tăng-kỳ thế giới, đều đến hội họp tại cung trời Ðao Lợi.
Do nhờ thần lực của Ðức Như Lai, phân thân từ mỗi phương hợp cùng những chúng đã được giải thoát khỏi chốn nghiệp đạo, cũng đông đến số ngàn muôn ức na-do-tha, đồng cầm hương hoa đến cúng dường Phật.
Những chúng cùng đến ấy thảy đều nhờ Bồ Tát Ðịa Tạng giáo hóa, làm cho vĩnh viễn không còn thối chuyển nơi A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
Những chúng sanh này từ nhiều kiếp lâu xa đến nay, trôi lăn trong vòng sanh tử, chịu khổ trong sáu đường, không lúc nào tạm ngừng dứt. Nhờ lòng từ bi quảng đại và thệ nguyện thâm sâu của Bồ Tát Ðịa Tạng, nên tất cả đều chứng được quả vị. Khi đến được cung trời Ðao Lợi, lòng họ vui mừng hớn hở chiêm ngưỡng Ðức Như Lai, mắt nhìn mãi không rời.
2) ĐỨC NHƯ LAI AN ỦI ỦY THÁC.
Bấy giờ, Ðức Thế Tôn đưa cánh tay sắc vàng xoa đảnh các phân thân của Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát trong trăm ngàn vạn ức không thể nghĩ, không thể bàn, không thể tính đếm, không thể nói hềt, vô lượng a-tăng-kỳ thế giới, rồi dạy rằng:
"Ta ở trong đời ác Ngũ Trược giáo hóa những chúng sanh cang cường như thế, làm cho lòng chúng nó điều phục, bỏ tà về chánh; nhưng trong mười phần, vẫn còn một hai phần quen theo thói ác.
Ta cũng phân ngàn trăm ức thân, rộng lập ra nhiều phương tiện. Hoặc có kẻ có lợi căn, nghe thấy liền tín thọ; hoặc có kẻ có thiện quả, phải ân cần khuyên bảo mới thành tựu; hoặc có kẻ ám độn, phải giáo hóa thời lâu mới quay về; hoặc có kẻ nghiệp nặng, chẳng sanh lòng kính ngưỡng; Ta bèn phân ra nhiều thân để độ thoát những hạng chúng sanh mỗi mỗi sai khác như thế.
Hoặc hiện thân người nam, hoặc hiện thân người nữ; hoặc hiện thân Trời, Rồng; hoặc hiện thân Quỷ, Thần; hoặc hiện ra núi, rừng, nguồn sông, đồng bằng, sông rạch, ao hồ, khe suối, giếng nước, để làm lợi ích cho con người, khiến tất cả đều được độ thoát.
Hoặc hiện thân Thiên Ðế, hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Chuyển Luân Vương, hoặc hiện thân Cư Sĩ, hoặc hiện thân Quốc Vương, hoặc hiện thân Tể Phụ, hoặc hiện ra thân các hàng quan thuộc, hoặc hiện ra thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, cho đến các thân Thanh Văn, La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát... để hóa độ chúng sanh; chớ chẳng phải chỉ có thân Phật hiện ra trước chúng thôi đâu!
Ông xem Ta trải qua biết bao số kiếp cần cù khó nhọc độ thoát những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa như thế. Còn những kẻ chưa được điều phục, thì phải theo nghiệp mà chịu báo ứng. Nếu họ bị đọa vào đường dữ và chịu nhiều sự thống khổ, thì Ông nên nhớ nghĩ đến Ta ở cung trời Ðao Lợi đã ân cần phó chúc, mà làm cho chúng sanh ở thế giới Ta Bà đến lúc Ðức Phật Di Lặc xuất thế đều được độ thoát, xa lìa vĩnh viễn mọi điều khổ, được gặp Phật và được thọ ký."
Bấy giờ, các phân thân của Bồ Tát Ðịa Tạng ở các thế giới hợp lại thành một hình, rơi lệ ai luyến mà bạch Phật rằng:
"Từ số kiếp lâu xa đến nay, con nhờ Ðức Thế Tôn tiếp độ dắt dìu, khiến con có được thần lực chẳng thể nghĩ bàn, đầy đủ trí huệ rộng lớn. Các phân thân của con thị hiện ở khắp trăm ngàn muôn ức thế giới nhiều như cát sông Hằng; trong mỗi thế giới hóa hiện trăm ngàn muôn ức thân, mỗi một thân đó hóa độ trăm ngàn muôn ức người, khiến cho họ quy kính Tam Bảo, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, đến được Niết Bàn an lạc.
Những chúng sanh nào ở trong Phật Pháp, dù chỉ làm việc lành bằng chừng một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, một hạt bụi, hoặc mảy lông tơ, con đều độ thoát lần lần, làm cho họ được lợi ích lớn.
Con cúi mong Ðức Thế Tôn chớ vì những chúng sanh ác nghiệp đời sau mà sanh lòng lo lắng!" Ngài bạch cùng Ðức Phật ba lần như thế.
Lúc ấy, Ðức Phật khen ngợi Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Lành thay! Lành thay! Ta hộ trợ cho điều Ông muốn để Ông thành tựu được các hoằng thệ nguyện đã lập từ số kiếp lâu xa đến nay. Việc quảng độ xong rồi, Ông liền chứng quả Bồ Ðề."
PHẨM THỨ BA
QUÁN CHÚNG SINH NGHIỆP DUYÊN
1) PHẬT MẪU THƯA HỎI.
Lúc đó, Ðức Phật Mẫu Ma Da Phu Nhân cung kính chắp tay hỏi Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Thánh Giả! Chúng sanh trong cõi Diêm Phù tạo nghiệp sai khác, cảm thọ sự báo ứng như thế nào?"
Ngài Ðịa Tạng đáp rằng: "Trong ngàn muôn thế giới cho đến các quốc độ, nơi có địa ngục hoặc không địa ngục, nơi có người nữ hoặc không người nữ, nơi có Phật Pháp hoặc không Phật Pháp, cho đến cả Thanh Văn và Bích Chi Phật cũng đều như thế, chứ chẳng phải riêng tội báo nơi địa ngục thôi đâu!"
Ma Da Phu Nhân lại bạch cùng Bồ Tát rằng: "Nay tôi muốn nghe về tội báo trong cõi Diêm Phù chiêu cảm lấy ác đạo."
Ngài Ðịa Tạng đáp rằng: "Thánh Mẫu! Mong Ngài lắng nghe nhận lấy, tôi sẽ lược nói việc đó."
Phật Mẫu bạch rằng: "Xin Thánh Giả nói cho."
2) BỒ TÁT LƯỢC THUẬT.
Bấy giờ Ðịa Tạng Bồ Tát nói với Thánh Mẫu rằng: "Danh hiệu của những tội báo trong cõi Nam Diêm Phù Ðề là như vầy: Như có chúng sanh chẳng hiếu thảo với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ, kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.
Nếu có chúng sanh nào làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính tôn kinh, kẻ đó cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.
Nếu có chúng sanh xâm tổn của Thường Trụ, làm nhơ nhuốc Tăng Ni, hoặc tứ tình hành dâm trong chốn Già Lam, hoặc giết hoặc hại; hạng người như thế phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.
Nếu có chúng sanh giả làm Sa Môn mà tâm chẳng phải Sa Môn, phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ, gạt gẫm hàng bạch y, trái phạm Giới Luật, tạo vô số tội ác; hạng người như thế phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.
Nếu có chúng sanh trộm cắp tài vật, lúa gạo, đồ ăn thức uống, y phục của Thường Trụ, cho đến không cho mà lấy một vật; kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được."
Ngài Ðịa Tạng thưa rằng: "Thánh Mẫu! Nếu có chúng sanh nào phạm những tội như thế, thì kẻ đó phải đọa vào Ngũ Vô Gián địa ngục, cầu tạm ngừng sự đau khổ trong chừng một niệm cũng không được."
Ma Da Phu Nhân lại bạch cùng Bồ Tát Ðịa Tạng: "Thế nào gọi là địa ngục Vô Gián?"
Ngài Ðịa Tạng thưa rằng: "Thánh Mẫu! Tất cả địa ngục đều ở trong núi Ðại Thiết Vi. Ðịa ngục lớn có mười tám chỗ; thứ kế có năm trăm chỗ, danh hiệu đều khác nhau; thứ kế nữa lại có đến ngàn trăm, danh hiệu cũng đều khác nhau.
Ngục Vô Gián có ngục thành giáp vòng hơn tám vạn dặm; thành đó thuần bằng sắt, cao một vạn dặm; trên thành có lửa tụ, không chỗ nào hở trống. Trong ngục thành đó, các nhà ngục nối tiếp nhau, danh hiệu đều sai khác.
Chỉ có một ngục tên là Vô Gián. Ngục này chu vi một vạn tám ngàn dặm; tường ngục cao một ngàn dặm, toàn bằng sắt và có lửa cháy suốt trên suốt dưới. Trên tường ngục có rắn sắt, chó sắt phun lửa đuổi nhau chạy bên này sang bên kia.
Trong ngục có giường rộng khắp muôn dặm; một người thọ tội thì tự thấy thân mình nằm chật cả giường, ngàn muôn người thọ tội thì mỗi người cũng đều tự thấy thân mình đầy chật cả giường. Ðó là do các nghiệp chiêu cảm mà gặt lấy quả báo như thế.
Lại nữa, các tội nhân còn phải chịu đủ sự khổ sở; như có cả ngàn trăm Dạ-xoa cùng các ác quỷ, răng nanh như đao kiếm, mắt như ánh điện chớp, tay có móng đồng, lôi kéo người tội.
Lại có quỷ Dạ-xoa cầm cây kích sắt lớn đâm vào mình người tội, hoặc đâm trúng miệng mũi, hoặc đâm trúng bụng lưng, rồi hất tung lên trên không và hứng lấy, hoặc để lại trên giường.
Lại có chim ưng bằng sắt mổ ăn mắt người tội.
Lại có rắn sắt quấn cổ người tội.
Tội nhân còn bị đóng đinh dài vào các khớp xương và lóng đốt trong thân, kéo lưỡi cày bừa, móc ruột bằm chặt, rót nước đồng vào miệng, quấn sắt nóng quanh thân; muôn lần chết đi sống lại.
Nghiệp cảm như thế, trải qua ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.
Lúc thế giới này hư hoại thì sanh nhờ qua thế giới khác; thế giới khác đó hư hoại thì chuyển sang phương khác; lúc phương khác đó hư hoại thì lại lần lượt chuyển đi; rồi sau khi thế giới này thành thì trở về lại. Những sự tội báo trong ngục Vô Gián là như thế.
Lại do có năm sự nghiệp cảm, nên gọi là Vô Gián. Những gì là năm?
Một là ngày đêm thọ tội, cho đến bao kiếp, không lúc nào dứt, nên gọi là Vô Gián.
Hai là một người cũng đầy chật, nhiều người cũng đầy chật, nên gọi là Vô Gián.
Ba là có những khí cụ hành hình người tội như cái chỉa, gậy, chim ưng, rắn, chó sói, chó, cối, cưa, đục, giũa, búa rìu, vạc dầu sôi, lưới sắt, dây sắt, lừa sắt, ngựa sắt, da sống niềng đầu, nước sắt nóng rưới thân; và khi đói thì nuốt viên sắt, khát uống nước sắt ...; quanh năm suốt kiếp, cho đến na-do-tha kiếp, khổ sở triền miên, không hề gián đoạn, nên gọi là Vô Gián.
Bốn là bất luận kẻ nam người nữ, Khương Hồ di địch, người già trẻ nhỏ, kẻ sang người hèn, hoặc rồng hoặc thần, hoặc trời hoặc quỷ, hễ gây tội ác thì chiêu cảm lấy nghiệp, tất cả đồng chịu như nhau, nên gọi là Vô Gián.
Năm là nếu bị đọa vào địa ngục này, thì từ khi mới vào cho tới trăm ngàn kiếp, mỗi ngày mỗi đêm đều muôn lần chết đi muôn lần sống lại, muốn cầu tạm ngừng trong chừng một niệm cũng không được, trừ phi nghiệp tội tiêu hết mới được thọ sanh; do cứ liên miên như thế nên gọi là Vô Gián."
Ðịa Tạng Bồ Tát thưa với Thánh Mẫu rằng: "Nói sơ lược về địa ngục Vô Gián là như thế. Nếu nói rộng ra về tên của những khí cụ hành tội cùng những sự thống khổ trong địa ngục đó, thì trong suốt một kiếp cũng không thể nào nói hết được!"
Ma Da Phu Nhân nghe xong, ưu sầu chắp tay đảnh lễ mà lui ra.
PHẨM THỨ TƯ
NGHIỆP CẢM CỦA CHÚNG SINH Ở CÕI DIÊM PHÙ
1) BỒ TÁT VÂNG CHỈ.
Lúc đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con nhờ nương sức oai thần của Ðức Phật Như Lai, nên chia được thân hình này đến khắp trăm ngàn vạn ức thế giới để cứu vớt tất cả chúng sanh bị nghiệp báo.
Nếu không nhờ sức đại từ của Ðức Như Lai, thì chẳng thể biến hóa được như thế. Con nay lại được Ðức Phật phó chúc: Từ nay cho đến khi Ngài A Dật Ða thành Phật, phải làm cho chúng sanh trong Lục Ðạo đều được độ thoát. Con xin vâng! Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài chớ lo âu!"
Bấy giờ Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Những chúng sanh chưa được giải thoát thì tánh thức không định, quen làm điều ác thì kết thành nghiệp, quen làm điều thiện thì kết thành quả; làm thiện làm ác đều theo cảnh mà sanh, luân chuyển trong Ngũ Ðạo, chẳng tạm ngừng ngớt; trải qua trần kiếp, mê hoặc chướng nạn, như cá bơi trong lưới theo dòng nước chảy, tạm thoát ra được rồi lại mắc vào lưới. Vì những kẻ đó mà Ta phải lo nghĩ.
Ðời trước Ông đã phát nguyện, nhiều kiếp lập trọng thệ quảng độ những kẻ có tội, thì Ta còn lo gì nữa!"
Nói đến đây, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát hiệu là Ðịnh Tự Tại Vương, bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, Bồ Tát Ðịa Tạng đã phát thệ nguyện gì mà nay được Ðức Thế Tôn ân cần ngợi khen như thế? Cúi mong Ðức Thế Tôn lược nói cho."
Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát: "Lóng nghe! Lóng nghe! Phải khéo suy xét đó, Ta sẽ vì Ông mà giải bày rõ ràng."
3) ÔNG VUA NƯỚC LÂN CẬN.
Vào thuở quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ na-do-tha không thể nói hết số kiếp về trước, lúc đó có Ðức Phật hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Phật này thọ sáu vạn kiếp.
Khi chưa xuất gia, Ngài là vua một nước nhỏ và kết bạn với vua của một nước lân cận; rồi cùng nhau thực hành Thập Thiện, nhiêu ích chúng sanh. Nhân dân trong nước lân cận đó đa số tạo nhiều việc ác, hai vua bèn bàn tính, rộng lập phương tiện.
Một vua phát nguyện: "Tôi nguyện sớm thành Phật Ðạo để độ hết những kẻ ấy, không sót một ai."
Một vua thì nguyện: "Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ, làm cho họ được an vui, cho đến đắc quả Bồ Ðề, thì tôi nguyện chưa thành Phật."
Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịnh Tự Tại Vương rằng: "Vị vua phát nguyện sớm thành Phật đó chính là Ðức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai; còn vị vua phát nguyện vĩnh viễn cứu độ chúng sanh tội khổ, chưa chịu thành Phật đó, chính là Bồ Tát Ðịa Tạng vậy.
4) QUANG MỤC CỨU MẸ.
Lại trong đời quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về trước, có Ðức Phật ra đời hiệu là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai. Ðức Phật đó thọ bốn mươi kiếp.
Trong thời Tượng Pháp, có một vị La Hán phước đức cứu độ chúng sanh. Nhân đi tuần tự giáo hóa, vị La Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục thiết bày vật thực cúng dường.
Vị La Hán bèn hỏi: "Ngươi muốn cầu điều chi?"
Quang Mục thưa rằng: "Ngày thân mẫu con mất, con có làm việc phước thiện hầu cứu vớt bà; song chưa rõ thân mẫu con thác sanh về đâu!"
Vị La Hán cảm thương, bèn nhập Ðịnh quan sát, thì thấy bà mẹ của Quang Mục bị đọa vào đường ác, vô cùng khổ sở. Vị La Hán hỏi Quang Mục rằng: "Thân mẫu ngươi lúc sanh tiền đã làm những hạnh nghiệp gì, mà nay phải ở trong đường ác, chịu cực khổ như thế?"
Quang Mục thưa rằng: "Tánh thân mẫu con chỉ thích ăn cá, ba ba, cùng trứng và con của các loài ấy; hoặc chiên hoặc nấu, tha hồ mà ăn; nếu tính đếm số sanh mạng đó thì đến hơn nghìn muôn. Thưa Tôn Giả từ mẫn, con phải làm thế nào để giải cứu mẫu thân?"
Vị La Hán xót thương bèn lập phương tiện khuyên Quang Mục rằng: "Ngươi phải chí thành niệm Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai và vẽ đắp hình tượng, thì kẻ còn cùng người mất đều được phước báo!"
Quang Mục nghe xong, liền từ bỏ những thứ yêu thích, rồi tô vẽ tượng Phật để thờ cúng, và lại đem lòng cung kính, khóc thương chiêm lễ. Bỗng đến giữa khuya thì mộng thấy thân Phật, sắc vàng sáng chói, như núi Tu Di, phóng ánh sáng lớn mà bảo với Quang Mục rằng: "Chẳng bao lâu nữa thân mẫu ngươi sẽ sanh vào nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thì liền biết nói."
Sau đó, người nữ tỳ trong nhà sanh một bé trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói. Ðứa bé đó buồn khóc mà nói với Quang Mục rằng:
"Nghiệp duyên sanh tử, quả báo tự thọ. Tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối tăm. Từ khi vĩnh biệt người, tôi phải đọa vào đại địa ngục. Nhờ phước lực của người nên mới được thọ sanh làm kẻ hạ tiện, lại thêm thọ mạng ngắn ngủi, đến năm mười ba tuổi lại phải đọa vào ác đạo. Người có phương kế gì khiến tôi được thoát miễn chăng?"
Quang Mục nghe nói, biết là mẹ mình chẳng sai, nên nghẹn ngào thương khóc mà nói với con kẻ nữ tỳ rằng: "Ðã là mẹ tôi, tất biết bổn tội; do làm hạnh nghiệp gì mà phải đọa vào ác đạo như thế?"
Con kẻ nữ tỳ đáp rằng: "Do hai nghiệp là sát hại và hủy mạ mà phải thọ báo. Nếu không nhờ phước đức của người cứu nạn cho, thời cứ theo những nghiệp đó thì tôi vẫn chưa được giải thoát."
Quang Mục hỏi rằng: "Những việc tội báo trong địa ngục ra sao?"
Con kẻ nữ tỳ đáp rằng: "Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn, suốt cả trăm ngàn năm cũng khó mà kể cho hết được!"
Quang Mục nghe xong, rơi lệ gào khóc, bạch cùng giữa hư không rằng: "Nguyện cho thân mẫu con được vĩnh viễn thoát khỏi chốn địa ngục, và khi mãn mười ba tuổi thì không còn trọng tội, cũng chẳng phải trải qua các ác đạo nữa.
Cúi xin thập phương chư Phật từ bi thương xót, lắng nghe con nay vì mẹ mà phát lời thệ nguyện rộng lớn rằng:
Như thân mẫu con được vĩnh viễn lìa khỏi chốn Tam Ðồ và hàng hạ tiện, cho tới cùng kiếp không phải thọ thân người nữ nữa, con xin đối trước tượng của Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai mà phát lời nguyện rằng: Kể từ nay cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, hễ nơi nào có thế giới còn có các chúng sanh chịu tội khổ nơi địa ngục cùng Tam Ác Ðạo, con nguyện sẽ cứu vớt và làm cho tất cả đều xa lìa các nẻo ác Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh... Những kẻ mắc tội báo như thế thành Phật cả rồi, thì sau đó con mới thành Chánh Giác."
Phát thệ nguyện xong, liền nghe rõ tiếng của Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai dạy rằng: "Này Quang Mục! Ngươi quả có lòng đại từ mẫn, khéo vì mẹ mà phát lời đại nguyện như thế!
Ta quan sát thấy mẹ ngươi lúc mãn mười ba tuổi, khi bỏ báo thân này rồi, sẽ thọ sanh làm người Phạm Chí sống lâu trăm tuổi; sau khi hết báo thân ấy, sẽ được sanh về cõi nước Vô Ưu, thọ mạng lâu dài đến không thể tính kể; và sau rốt sẽ thành tựu Phật Quả, quảng độ nhân thiên số nhiều như cát sông Hằng."
Ðức Phật bảo Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát rằng: "Vị La Hán phước lành độ Quang Mục thuở đó, chính là Vô Tận Ý Bồ Tát; thân mẫu của Quang Mục là Giải Thoát Bồ Tát; còn Quang Mục là Ðịa Tạng Bồ Tát đây vậy!
Trong nhiều kiếp lâu xa ở quá khứ, Bồ Tát đã có lòng từ mẫn, lập thệ nguyện nhiều như cát sông Hằng rộng độ chúng sanh như thế.
Trong đời vị lai, như có kẻ nam người nữ nào không làm lành mà làm ác, cho đến kẻ chẳng tin nhân quả, kẻ tà dâm vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt ác khẩu, kẻ hủy báng Ðại Thừa; những chúng sanh có các nghiệp như thế tất phải đọa vào đường ác.
Nếu gặp được hàng Thiện Tri Thức khuyên bảo khiến trong chừng khảy móng tay liền quy y Ðịa Tạng Bồ Tát, những chúng sanh đó lập tức được thoát khỏi báo khổ của Ba Ác Ðạo.
Nếu có thể chí tâm quy kính và chiêm lễ tán thán, cùng dùng hương, hoa, y phục, các thứ trân bảo, hoặc đồ ăn thức uống, mà cúng phụng, thì trong trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, thường được ở cõi Trời, hưởng thọ sự vui thù thắng vi diệu. Nếu phước trời hết, phải sanh xuống nhân gian, thì vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm bậc Ðế Vương, lại nhớ được túc mạng cùng cội ngành nhân quả.
Này Ðịnh Tự Tại Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng có không thể nghĩ bàn oai thần lực lớn, lợi ích rộng lớn cho chúng sanh như thế. Các Ông, những bậc Bồ Tát, phải ghi nhớ Kinh này hầu tuyên dương, lưu bố rộng ra."
Ngài Ðịnh Tự Tại Vương bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Xin Ngài chớ lo nghĩ! Ngàn muôn ức Bồ Tát Ma Ha Tát chúng con đều có thể nương oai thần của Phật mà tuyên diễn rộng rãi Kinh này nơi cõi Diêm Phù Ðề để lợi ích cho chúng sanh."
Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát bạch với Ðức Thế Tôn xong, bèn cung kính chắp tay làm lễ mà lui ra.
5) TỨ THIÊN VƯƠNG HỎI PHẬT
Bấy giờ, bốn vị Thiên Vương cai quản bốn phương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã phát đại nguyện như thế, vì sao đến nay vẫn độ chưa hết, lại còn phát quảng đại thệ nguyện nữa? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ."
Ðức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: "Lành thay! Lành thay! Ta nay sẽ vì sự lợi ích rộng lớn của các Ông cùng các chúng trời, người ở hiện tại và vị lai, mà nói việc Bồ Tát Ðịa Tạng ở Ta Bà Thế Giới, trong đường sanh tử nơi cõi Diêm Phù Ðề, từ mẫn cứu vớt, phương tiện độ thoát tất cả chúng sanh tội khổ."
Bốn vị Thiên Vương bạch rằng: "Vâng! Bạch Ðức Thế Tôn, chúng con xin muốn được nghe."
Ðức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: "Bồ Tát Ðịa Tạng từ bao kiếp lâu xa cho đến nay, độ thoát chúng sanh vẫn còn chưa mãn nguyện. Bồ Tát từ bi thương xót những chúng sanh tội khổ ở đời này, lại quán thấy vô lượng kiếp về sau, nghiệp nhân cứ lây dây chẳng dứt; vì lẽ đó nên lại phát trọng nguyện. Bồ Tát ở Ta Bà Thế Giới, trong cõi Diêm Phù Ðề, dùng trăm ngàn vạn ức phương tiện để giáo hóa.
Này bốn ông Thiên Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng nếu gặp kẻ sát sanh, thì dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải chết yểu.
- Nếu gặp kẻ trộm cắp, thì dạy rõ quả báo bần cùng khổ sở.
- Nếu gặp kẻ tà dâm, thì dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.
- Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thì dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.
- Nếu gặp kẻ hay hủy báng, thì dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.
- Nếu gặp kẻ nóng giận, thì dạy rõ quả báo xấu xí, bệnh hoạn, tàn tật.
- Nếu gặp kẻ bỏn xẻn, thì dạy rõ quả báo sở cầu không toại nguyện.
- Nếu gặp kẻ ăn uống vô độ, thì dạy rõ quả báo đói, khát, cổ họng đau đớn.
- Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung, thì dạy rõ quả báo kinh cuồng, mất mạng.
- Nếu gặp kẻ ngỗ nghịch với cha mẹ, thì dạy rõ quả báo trời đất đánh chết.
- Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cối, thì dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.
- Nếu gặp kẻ làm cha mẹ trước hoặc cha mẹ sau mà độc ác, thì dạy rõ quả báo sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.
- Nếu gặp kẻ đặt lưới, giăng bẫy để bắt các sinh vật còn non yếu, thì dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.
- Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thì dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.
- Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.
- Nếu gặp kẻ phá hoại của Thường Trụ, thì dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.
- Nếu gặp kẻ ô nhục phạm hạnh và vu báng Tăng Già, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh.
- Nếu gặp kẻ làm bỏng, đốt, chém, chặt, hoặc đả thương sinh vật, thì dạy rõ quả báo phải luân hồi đền trả lẫn nhau.
- Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thì dạy rõ quả báo làm thân cầm thú đói khát.
- Nếu gặp kẻ phá hủy vật dụng một cách phi lý, thì dạy rõ quả báo mọi sở cầu đều thiếu hụt.
- Nếu gặp kẻ kiêu mạn cống cao, thì dạy rõ quả báo làm nô dịch hèn hạ.
- Nếu gặp kẻ nói hai lưỡi gây xích mích, thì dạy rõ quả báo không lưỡi hoặc trăm lưỡi.
- Nếu gặp kẻ tà kiến, thì dạy rõ quả báo thọ sanh ở vùng biên địa.
Trăm ngàn sự báo ứng kết quả bởi tập khí xấu ác từ thân khẩu ý nghiệp của chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề như thế, nay chỉ nói sơ lược đó thôi.
Nghiệp cảm của chúng sanh trong chốn Diêm Phù Ðề sai biệt như thế, nên Bồ Tát Ðịa Tạng phải dùng trăm ngàn phương tiện để giáo hóa. Các chúng sanh ấy, trước tiên phải thọ lãnh các quả báo như thế, sau đó lại đọa vào địa ngục, trải qua nhiều kiếp không có kỳ hạn thoát ra. Vì thế cho nên, các Ông phải hộ trì người, hộ trì quốc gia, chớ để những nghiệp chướng đó làm mê hoặc chúng sanh."
Bốn vị Thiên Vương nghe xong, rơi lệ than thở, chắp tay lễ Phật mà lui ra.
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
QUYỂN THƯỢNG HẾT
Bổn nguyện Địa Tạng
Đao Lợi Thiên cung
Thần thông biến hóa độ quần mông
Đời ngũ trược khó thông
Chúng sanh cang cường,
Ham vui khổ vô cùng
Nam mô Thường Trụ thập phương Phật (3 lần)
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Bồ Tát (3 lần)
QUYỂN TRUNG
PHẨM THỨ NĂM
DANH HIỆU CỦA ÐỊA NGỤC
1) PHỔ HIỀN HAN HỎI.
Lúc đó, Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát thưa cùng Ðịa Tạng Bồ Tát rằng: "Thưa Nhân Giả! Xin Ngài hãy vì trời, rồng, tứ chúng và tất cả chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai, mà nói rõ danh hiệu của các địa ngục, nơi thọ báo của các chúng sanh tội khổ ở thế giới Ta Bà và cõi Diêm Phù Ðề, cùng những sự ác báo, để cho chúng sanh trong thời Mạt Pháp ở đời sau biết rõ những quả báo đó."
Ngài Ðịa Tạng đáp rằng: "Thưa Nhân Giả! Nay tôi. nương oai thần của Ðức Phật cùng oai lực của Ðại Sĩ, mà lược nói danh hiệu của các địa ngục, cùng những sự về tội báo và ác báo.
2) DANH HIỆU CỦA ĐỊA NGỤC.
"Thưa Nhân Giả! Phương Ðông của cõi Diêm Phù Ðề có dãy núi tên là Thiết Vi. Dãy núi đó tối thẫm, không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng; trong đó có địa ngục lớn tên là Cực Vô Gián, lại có địa ngục tên là Ðại A Tỳ, lại có địa ngục tên là Bốn Sừng , lại có địa ngục tên là Dao Bay .."
"Lại có địa ngục tên là Tên Lửa , lại có địa ngục tên là Núi Ép, lại có địa ngục tên là Giáo Đâm, lại có địa ngục tên là Xe Sắt, lại có địa ngục tên là Giường Sắt, lại có địa ngục tên là Trâu Sắt, lại có địa ngục tên là Áo Sắt..."
"Lại có địa ngục tên là Ngàn Mũi Nhọn, lại có địa ngục tên là Lừa Sắt, lại có địa ngục tên là Nước Đồng Sôi, lại có địa ngục tên là Ôm Trụ Đồng, lại có địa ngục tên là Lửa Chảy, lại có địa ngục tên là Cày Lưỡi, lại có địa ngục tên là Chém Đầu, lại có địa ngục tên là Đốt Chân, lại có địa ngục tên là Móc Mắt, lại có địa ngục tên là Viên Sắt..."
"Lại có địa ngục tên là Cãi Cọ, lại có địa ngục tên là Rìu Sắt, lại có địa ngục tên là Nhiều Nóng Giận."
Ngài Ðịa Tạng nói rằng: "Thưa Nhân Giả! Trong dãy núi Thiết Vi có những địa ngục như thế, số nhiều vô hạn. Lại có địa ngục Kêu Gào, địa ngục Rút Lưỡi, địa ngục Phân và Nước Tiểu, địa ngục Khóa Đồng, địa ngục Voi Lửa, địa ngục Chó Lửa, địa ngục Ngựa Lửa, địa ngục Trâu Bò Lửa, địa ngục Núi Lửa, địa ngục Đá Lửa, địa ngục Giường Lửa, địa ngục Rường Lửa, địa ngục Chim Ưng Lửa, địa ngục Cưa Răng, địa ngục Lột Da, địa ngục Uống Máu, địa ngục Đốt Tay, địa ngục Đốt Chân, địa ngục Đâm Ngược, địa ngục Nhà Lửa, địa ngục Nhà Sắt, địa ngục Chó Sói Lửa.
"Các thứ địa ngục như thế, trong mỗi thứ lại có những địa ngục nhỏ, hoặc một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, cho đến trăm, ngàn; trong số đó danh hiệu đều chẳng đồng nhau."
Ðịa Tạng Bồ Tát nói với Phổ Hiền Bồ Tát rằng: "Thưa Nhân Giả! Ðây đều là do chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề làm điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra như thế. Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu Di, có thể sâu dường biển cả, có thể chướng ngăn Thánh Ðạo. Vì thế, chúng sanh chớ khinh điều ác nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo, dầu mảy mún đều phải thọ chịu. Chí thân như cha với con, mỗi người đều mỗi ngả đường khác nhau, dầu có gặp gỡ cũng chẳng bằng lòng chịu khổ thay cho nhau. Nay tôi nương oai lực của Ðức Phật mà lược nói những sự tội báo nơi địa ngục; mong Nhân Giả tạm nghe lời đó."
Ngài Phổ Hiền đáp rằng: "Tôi từ lâu đã rõ tội báo nơi Ba Ác Ðạo. Tôi mong Nhân Giả nói ra để khiến cho tất cả chúng sanh ác hạnh trong đời Mạt Pháp sau này, nghe được lời dạy của Nhân Giả mà quay về với Phật."
Ngài Ðịa Tạng nói rằng: "Thưa Nhân Giả! Về tội báo ở chốn địa ngục, việc ấy như vầy:
3) TỘI BÁO TRONG ĐỊA NGỤC.
Hoặc có địa ngục kéo lưỡi người tội ra cho trâu cày lên; hoặc có địa ngục moi tim người tội cho quỷ Dạ Xoa ăn; hoặc có địa ngục vạc nước sôi sùng sục nấu thân người tội; hoặc có địa ngục đốt trụ đồng nóng đỏ rồi bắt người tội ôm lấy; hoặc có địa ngục các bựng lửa đuổi theo người tội; hoặc có địa ngục toàn là băng giá; hoặc có địa ngục đầy vô hạn đồ phẩn tiểu; hoặc có địa ngục toàn là loại chùy gai bay; hoặc có địa ngục có nhiều giáo lửa; hoặc có địa ngục chỉ đập ngực lưng; hoặc có địa ngục chỉ đốt tay chân; hoặc có địa ngục rắn sắt quấn cắn; hoặc có địa ngục xua đuổi chó sắt; hoặc có địa ngục toàn kéo la sắt ..."
"Nhân Giả! Những quả báo như thế, trong mỗi ngục có trăm ngàn thứ khí cụ nghiệp đạo đều là bằng đồng, bằng sắt, bằng đá, bằng lửa; bốn thứ này là do các hành nghiệp cảm vời ra. Nếu nói rộng ra về những sự tội báo ở địa ngục, thì trong mỗi ngục còn có cả trăm ngàn thứ khổ sở, huống chi là nhiều ngục!
Nay tôi nương sức oai thần của Ðức Phật và vì Nhân Giả hỏi đến mà nói sơ lược như thế; nếu nói rộng ra thì cùng kiếp nói cũng không hết được!"
PHẨM THỨ SÁU
NHƯ LAI TÁN THÁN
1) PHẬT PHÓNG QUANG DẶN BẢO.
Lúc đó, toàn thân của Ðức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn soi khắp trăm ngàn muôn ức thế giới nhiều như cát sông Hằng của chư Phật, lại phát ra âm thanh lớn bảo khắp các thế giới của chư Phật rằng:
"Tất cả hàng Bồ Tát Ma Ha Tát cùng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, nhân, phi nhân, v. v... hãy lắng nghe hôm nay Ta xưng dương tán thán Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát về việc ở trong mười phương thế giới, hiện sức từ bi oai thần to lớn không thể nghĩ bàn, để cứu giúp tất cả những kẻ tội khổ.
Sau khi Ta diệt độ, thì hàng Bồ Tát Ðại Sĩ các Ông, cùng với Trời, Rồng, Quỷ, Thần v. v... nên dùng nhiều phương tiện để gìn giữ Kinh này, khiến tất cả chúng sanh đều chứng được cảnh vui Niết Bàn."
2) PHỔ QUẢNG THƯA THỈNH.
Nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát tên là Phổ Quảng cung kính chắp tay bạch cùng Ðức Phật rằng: "Nay con nghe Ðức Thế Tôn tán thán Ðịa Tạng Bồ Tát có đức oai thần rộng lớn bất khả tư nghì như thế, con trông mong Ðức Thế Tôn lại vì những chúng sanh trong thời Mạt Pháp ở đời sau, mà tuyên thuyết các sự nhân quả của Ðịa Tạng Bồ Tát làm lợi ích cho hàng Trời, Người; hầu làm cho Thiên Long Bát Bộ và chúng sanh trong đời sau thảy đều kính vâng lời của Ðức Phật."
Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn bảo Bồ Tát Phổ Quảng cùng tứ chúng rằng: "Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì các Ông mà lược nói về những sự phước đức của Ðịa Tạng Bồ Tát làm lợi ích cho hàng Trời, Người."
Ngài Phổ Quảng bạch rằng: "Vâng! Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng con vui mừng muốn được nghe."
3) PHẬT DẠY SỰ LỢI ÍCH.
Ðức Phật bảo Bồ Tát Phổ Quảng: "Trong đời vị lai, như có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào nghe được danh hiệu của Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, hoặc là chắp tay, hoặc là tán thán, hoặc là đảnh lễ, hoặc là luyến mộ, người đó sẽ qua khỏi tội khổ trong ba mươi kiếp.
Này Phổ Quảng! Như có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào, hoặc tô vẽ hình tượng, hoặc dùng đất, đá, keo, sơn, vàng, bạc, đồng, sắt, tạc tượng Bồ Tát này, rồi cứ một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, thì người đó sẽ được sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba một trăm lần, vĩnh viễn không phải đọa vào ác đạo.
Giả sử phước trời đã hết, phải sanh xuống nhân gian, cũng vẫn làm vị Quốc Vương, không hề mất sự lợi lớn."
4) KHỎI NỮ THÂN
"Giả sử có người nữ nào nhàm chán nữ thân, hết lòng cúng dường tượng vẽ của Bồ Tát Ðịa Tạng, cùng những tượng bằng đất, đá, keo, sơn, đồng, sắt, v.v..., ngày ngày như thế, không hề thối chuyển; lại thường đem hoa, hương, đồ ăn, thức uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, vật báu v.v... cúng dường; thì người thiện nữ đó sau khi mãn một báo thân nữ hiện tại, thời đến trăm ngàn muôn kiếp còn không sanh vào thế giới có người nữ, huống hồ là thọ lại nữ thân!
Trừ phi vì nguyện lực từ bi, muốn thọ nữ thân để độ thoát chúng sanh, còn thì nương nơi sức cúng dường Ngài Ðịa Tạng cùng sức công đức, trong trăm ngàn muôn kiếp chẳng còn phải thọ nữ thân nữa."
5) THÂN XINH ĐẸP.
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật, đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ trong chừng một bữa ăn, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn. Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân gái, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ, cho đến Vương Phi, hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả, đoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn.
Do chí tâm chiêm lễ hình tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế."
6) QUỈ THẦN HỘ VỆ.
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Như có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào có thể đối trước tượng Bồ Tát mà trổi các thứ kỹ nhạc, cùng ca vịnh, tán thán, cúng dường hương hoa, cho đến khuyến hóa được một người hay nhiều người; hạng người đó ở trong đời hiện tại cùng vị lai thường được trăm ngàn Quỷ Thần ngày đêm theo hộ vệ, không để cho những việc hung dữ đến tai, huống là để cho chịu các tai vạ bất ngờ!"
7) KHINH CHÊ MẮC TỘI.
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Trong đời sau như có ác nhân cùng ác thần, ác quỷ nào thấy kẻ thiện nam, thiện nữ quy kính cúng dường, tán thán, chiêm lễ hình tượng của Bồ Tát Ðịa Tạng, mà vọng sanh khinh chê là không có công đức cùng sự lợi ích, hoặc nhăn răng ra cười, hoặc chê sau lưng, hoặc khuyên bảo người khác cùng chê, hoặc một người chê, hoặc nhiều người chê, cho đến sanh lòng chê bai trong chừng một niệm; những kẻ như thế, sau khi một ngàn đức Phật trong Hiền Kiếp diệt độ cả, vì tội báo khinh chê nên vẫn còn ở trong địa ngục A Tỳ chịu tội cực nặng.
Qua khỏi kiếp này xong mới thọ thân ngạ quỷ, rồi mãi đến một ngàn kiếp sau mới thọ thân súc sanh; lại phải trải qua một ngàn kiếp nữa mới được thân người. Dầu thọ thân người, nhưng là hạng bần cùng hạ tiện, các căn không đầy đủ, thường hay bị nghiệp ác kết buộc vào tâm, chẳng bao lâu lại phải đọa vào ác đạo."
"Cho nên, Phổ Quảng, khinh chê sự cúng dường của người khác mà còn mắc phải tội báo như thế, huống là tự sanh ác kiến hủy diệt!"
8) TIÊU TỘI CHƯỚNG.
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu trong đời sau có người nam hay người nữ nào nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay cầu chết đều không được, hoặc đêm mộng thấy ác quỷ cho đến kẻ thân thích trong nhà, hoặc đi trên đường hiểm, hoặc nhiều lần bị bóng đè, hoặc cùng quỷ thần dạo chơi..."
"Trải qua nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm, trở nên gầy mòn, lao sái; trong giấc ngủ kêu gào khổ sở, thảm thiết không vui. Ðây đều là do nơi nghiệp đạo còn đang luận đối, chưa quyết định là nhẹ hay nặng, nên hoặc là khó chết, hoặc là khó lành.
Mắt phàm tục của kẻ nam, người nữ không thể biện rõ việc đó, chỉ nên đối trước tượng của chư Phật, chư Bồ Tát, lớn tiếng đọc tụng Kinh này một biến; hoặc lấy những vật ưa thích của người bệnh như y phục, đồ quý báu, nhà cửa, ruộng vườn..., đối trước người bệnh mà lớn tiếng xướng rằng:
‘Chúng con, tên đó họ đó, xin vì người bệnh này mà đối trước kinh, tượng, thí xả những vật này để hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo hình tượng của Phật, Bồ Tát, hoặc xây dựng chùa tháp, hoặc sắm đèn dầu thắp cúng, hoặc cúng vào Thường Trụ.’
Xướng lên như vậy ba lần để cho người bệnh được nghe biết.
Giả sử các thức của người bệnh đã phân tán, đến hơi thở đã dứt, thì hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, cho đến bảy ngày, cứ lớn tiếng xướng bạch như trên và lớn tiếng tụng Kinh này. Sau khi người bệnh đó mạng chung, thời dẫu cho từ trước có tội nặng, thậm chí năm tội Vô Gián, cũng được thoát khỏi hẳn, thọ sanh nơi nào cũng thường nhớ biết việc đời trước.
Huống nữa là người thiện nam, người thiện nữ nào tự mình biên chép Kinh này, hoặc bảo người biên chép, hoặc tự mình đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát, cho đến bảo người khác đắp vẽ, thì quả báo mà người đó thọ nhận tất được lợi ích lớn.
Vì thế, Phổ Quảng, nếu thấy có người nào đọc tụng Kinh này, cho đến chỉ trong một niệm tán thán Kinh này hoặc tỏ lòng cung kính, thì ông phải dùng trăm ngàn phương tiện khuyến hóa người đó phát lòng siêng năng, chứ đừng thối thất, thì sẽ được trăm ngàn vạn ức công đức không thể nghĩ bàn ở hiện tại và vị lai."
9) SIÊU ĐỘ VONG LINH
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Như những chúng sanh ở đời vị lai, hoặc trong mộng trong mị, trông thấy các quỷ thần cùng các hình bóng khác, hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt; đây đều là cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, quyến thuộc từ một đời, mười đời, trăm đời, hay ngàn đời trong quá khứ, còn đang bị đọa lạc trong ác đạo, chưa được ra khỏi, lại không trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt, nên mới mách bảo với kẻ có tình cốt nhục trong đời trước, khiến làm phương tiện hầu mong được thoát khỏi ác đạo.
Này Phổ Quảng! Ông nên dùng thần lực khiến hàng quyến thuộc đó đối trước tượng của chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc Kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc, đủ số ba biến hoặc bảy biến. Như vậy, kẻ quyến thuộc đang ở trong ác đạo kia, khi tiếng tụng kinh đủ số mấy biến đó xong, sẽ được giải thoát, cho đến trong mộng trong mị không thấy hiện về nữa."
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Như đời sau có những hạng người hạ tiện, hoặc tớ trai, hoặc tớ gái, cho đến những kẻ không được quyền tự do, rõ biết là do túc nghiệp, cần phải sám hối, bèn chí tâm chiêm lễ hình tượng của Bồ Tát Ðịa Tạng, rồi trong một ngày cho tới bảy ngày niệm danh hiệu của Bồ Tát đủ một vạn biến; những người như thế sau khi mãn báo thân này, trong ngàn vạn đời về sau thường sanh vào nhà tôn quý, không phải trải qua nỗi khổ nơi ba đường ác nữa."
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Như trong đời vị lai, nơi cõi Diêm Phù Ðề, trong hàng Sát Lợi, Bà La Môn, trưởng giả, cư sĩ, tất cả các hạng người và những chủng tộc dòng họ khác, có người nào mới sinh được con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ đó mà tụng Kinh điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Bồ Tát đủ một vạn biến; thì đứa trẻ mới sinh đó, hoặc trai hoặc gái, nếu đời trước có ương báo thì đều được giải trừ, lại thêm an ổn, vui vẻ, dễ nuôi, thọ mạng tăng trưởng, còn nếu là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thì đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn."
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Trong mỗi tháng, ngày mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi là những ngày kết tập các nghiệp tội, thẩm định nặng nhẹ. Tất cả mọi cử chỉ, động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không chi là không nghiệp, không chi là không tội, huống hồ là buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, trăm ngàn tội trạng.
Nếu sau này trong đời vị lai, có chúng sanh nào trong mười ngày trai này có thể đối trước hình tượng của Phật, Bồ Tát, cùng chư Hiền Thánh mà đọc tụng Kinh này một biến, thì chung quanh chỗ người đó ở, bốn hướng Ðông Tây Nam Bắc, trong khoảng một trăm do-tuần, sẽ không có các tai nạn. Còn ở chính nhà của người đó, hoặc già hoặc trẻ, về hiện tại và vị lai, trong trăm ngàn năm được vĩnh viễn xa lìa ác đạo.
Nếu trong mười ngày trai này có thể mỗi ngày đều tụng một biến thì ngay đời hiện tại, những người trong nhà không bị tai ương hoặc bệnh tật, đồ ăn đồ mặc lại được dư dật."
"Vì thế Phổ Quảng, nên biết rằng Ðịa Tạng Bồ Tát có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết sự đại oai thần lực lợi ích như thế.
Chúng sanh trong cõi Diêm Phù có đại nhân duyên với vị Ðại Sĩ này. Nếu những chúng sanh đó được nghe danh của Bồ Tát, thấy tượng của Bồ Tát, cho đến được nghe chừng ba chữ hoặc năm chữ trong Kinh này, hoặc một bài kệ hay một câu, thì hiện tại được sự an vui thù thắng vi diệu, và trăm ngàn vạn đời về vị lai thường được đoan chánh, sanh vào nhà tôn quý."
Lúc đó, Bồ Tát Phổ Quảng nghe Ðức Phật Như Lai xưng dương tán thán Bồ Tát Ðịa Tạng xong, liền quỳ xuống chắp tay mà bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ lâu con đã biết vị Ðại Sĩ này có thần lực không thể nghĩ bàn cùng đại thệ nguyện lực như thế rồi, song vì muốn cho chúng sanh đời sau rõ biết sự lợi ích, nên con mới thỉnh vấn Ðức Như Lai. Vâng, con xin cung kính lãnh thọ. Bạch Ðức Thế Tôn! Kinh này đặt tên là gì và định cho con lưu lưu hành rộng ra như thế nào?"
Ðức Phật bảo Ngài Phổ Quảng: "Kinh này có ba danh hiệu: Một là Ðịa Tạng Bổn Nguyện, cũng gọi là Ðịa Tạng Bổn Hạnh, cũng gọi là Ðịa Tạng Bổn Thệ Lực Kinh. Do vì Bồ Tát này từ thuở kiếp lâu xa đến nay từng phát đại trọng nguyện làm lợi ích cho chúng sanh, cho nên các Ông phải y theo tâm nguyện mà lưu hành rộng ra."
Ngài Phổ Quảng nghe xong liền cung kính chắp tay làm lễ mà lui ra.
PHẨM THỨ BẢY
LỢI ÍCH CHO CẢ KẺ CÒN NGƯỜI MẤT
1) KHUYÊN TU THÁNH ĐẠO.
Lúc đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong cõi Diêm Phù, cử tâm động niệm không chi là chẳng phải tội. Họ từ bỏ những thiện lợi có được và phần nhiều thối thất tâm tốt ban đầu, nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Những hạng người này như kẻ đi trong bùn lầy mà còn mang đá nặng, nên càng khốn đốn, nặng thêm dần, chân càng lún xuống sâu.
Nếu được gặp hàng Tri Thức thì sẽ được gánh vác giùm bớt, hoặc gánh hết cho. Vì hàng Tri Thức đó có sức rất mạnh, lại dìu đỡ, khuyến khích làm cho mạnh chân lên. Nếu đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thì phải xét nghĩ đến con đường hiểm xấu ấy, không đi vào đó nữa."
"Bạch Ðức Thế Tôn! Những chúng sanh tập khí xấu ác, bắt đầu từ mảy mún rồi lần đến nhiều vô lượng.
Ðến khi những chúng sanh có tập khí như thế sắp sửa mạng chung, thì cha mẹ cùng quyến thuộc nên vì họ mà tạo phước đức, để giúp cho lộ trình phía trước của họ. Hoặc treo phan lọng và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc tôn kinh, hoặc cúng dường tượng Phật cùng tượng của chư Thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật, Bồ Tát cùng Bích Chi Phật, làm cho mỗi danh mỗi hiệu đều thấu vào nhĩ căn của người sắp mạng chung, hoặc nơi bổn thức nghe biết.
Các chúng sanh đó, cứ theo nghiệp ác đã gây tạo mà suy lường quả báo chiêu cảm, tất phải đọa vào ác đạo; song nhờ quyến thuộc vì kẻ lâm chung mà tu nhân Thánh này, các tội đó thảy đều tiêu sạch.
Như sau khi người ấy đã chết, nếu lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành, thì có thể làm cho người chết đó vĩnh viễn xa lìa chốn ác đạo, được sanh vào cõi trời hoặc cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu; quyến thuộc hiện tại cũng được vô lượng lợi ích."
"Vì lẽ đó nên nay con đối trước Ðức Phật Thế Tôn, cùng Thiên Long Bát Bộ, nhân và phi nhân v.v... mà khuyên bảo các chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề: Vào ngày lâm chung, cần phải cẩn thận, chớ giết hại và chớ gây tạo ác duyên, cũng đừng bái tế quỷ thần, cầu xin vọng lượng.
Vì sao thế? Vì việc sát hại cho đến tế bái đó không có mảy may năng lực lợi ích cho người mất, mà chỉ kết thêm tội duyên, làm cho nặng thêm mà thôi.
Giả sử người chết đó, trong đời vị lai hoặc đời hiện tại, đắc được phần Thánh Quả, sẽ sanh vào cõi trời, cõi người; nhưng vì lúc lâm chung bị hàng quyến thuộc gây tạo ác nhân, làm cho người chết cũng mắc lấy ương lụy, phải đối biện, chậm sanh vào chốn tốt lành.
Huống chi là người sắp chết lúc sống chưa từng có chút thiện căn, phải y theo bổn nghiệp mà tự đọa ác đạo! Hàng quyến thuộc nỡ nào làm tăng nghiệp tội của người ấy?!
Ví như có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, lại vác theo đồ vật nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận gởi ít món đồ nữa, vì thế mà càng khốn đốn, nặng nề thêm."
"Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh cõi Diêm Phù Ðề, ở trong giáo pháp của chư Phật, nếu có thể làm thiện sự chừng bằng một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, một mảy bụi, thì tất cả đều tự mình được sự lợi ích."
2) TRUỞNG GIẢ BẠCH HỎI.
Nói lời như thế xong, trong Pháp Hội có một vị Trưởng Giả tên là Ðại Biện, ông Trưởng Giả này từ lâu đã chứng Vô Sanh, hiện thân Trưởng Giả để hóa độ mười phương, chắp tay cung kính hỏi Ðịa Tạng Bồ Tát rằng: "Thưa Ðại Sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có chúng sanh nào sau khi mạng chung mà hàng quyến thuộc kẻ lớn người nhỏ, đều vì người chết đó mà tu công đức, cho đến thiết trai, tạo những thiện nhân, thì người chết đó có được lợi ích lớn và được giải thoát chăng?"
3) KẺ CÒN, NGƯỜI MẤT ĐỀU ĐƯỢC LỢI.
Ðịa Tạng Bồ Tát đáp rằng: "Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại cùng vị lai, nương oai lực của Ðức Phật mà lược nói về việc đó.
Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, danh hiệu của một vị Bích Chi Phật, thì bất luận là có tội hay không tội, thảy đều được giải thoát cả."
"Như có người nam hoặc người nữ nào, lúc sống đã không tu thiện nhân mà lại tạo nhiều nghiệp tội, sau khi mạng chung lại được hàng quyến thuộc vì người chết mà tu tạo phước lợi lớn nhỏ; thì tất cả Thánh sự, trong bảy phần công đức, người chết được một phần, còn sáu phần thuộc về người sống hiện lo tu tạo đó.
Vì thế cho nên, các thiện nam thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng tự tu hành, thì được hưởng trọn phần công đức.
Ðại quỷ Vô Thường không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ, chưa rõ là tội hay phước, trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở tại các ty sở để biện luận về nghiệp quả, sau khi thẩm định xong thì cứ y theo nghiệp mà thọ sanh.
Trong lúc chưa biết ra sao đó thì đã ngàn muôn sầu khổ, huống là phải bị đọa vào các ác đạo!
Người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục quyến thuộc tu tạo phước lực để cứu vớt cho. Quá ngày ấy rồi thì cứ theo nghiệp mà thọ báo.
Nếu là tội nhân thì phải trải qua trong trăm ngàn năm, không có ngày được giải thoát; còn nếu là năm tội Vô Gián thì phải đọa vào đại địa ngục, chịu mãi những sự đau khổ trong ngàn kiếp muôn kiếp."
"Lại nữa, này ông Trưởng Giả! Sau khi những chúng sanh gây nghiệp tội như thế mạng chung, hàng cốt nhục quyến thuộc vì họ mà làm chay cúng dường để trợ giúp nghiệp đạo, thì khi thức ăn chưa làm xong cùng trong lúc đang làm, chớ có đem nước gạo, lá rau đổ vung vãi nơi đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dâng cúng cho Phật và chư Tăng thì chẳng được ăn trước.
Nếu ăn trái phép và không được tinh sạch kỹ lưỡng, thì người chết đó trọn không được trợ lực nào cả.
Nếu có thể kỹ lưỡng giữ gìn tinh sạch đem dâng cúng cho Phật cùng Tăng, thì trong bảy phần công đức, người chết hưởng được một phần.
Này ông Trưởng Giả! Vì thế nên những chúng sanh trong cõi Diêm Phù, sau khi cha mẹ hay người quyến thuộc chết, nếu có thể thiết trai cúng dường, chí tâm cầu khẩn, thì những người như thế, kẻ còn lẫn người mất đều được lợi ích cả."
Nói lời này xong, tại cung trời Ðao Lợi có ngàn muôn ức na-do-tha quỷ thần của cõi Diêm Phù Ðề đều phát tâm Bồ Ðề vô lượng.
Ông Trưởng Giả Ðại Biện làm lễ mà lui ra.
PHẨM THỨ TÁM
CÁC VUA DIÊM LA VÀ QUYẾN THUỘC KHEN NGỢI
1) DIÊM LA VƯƠNG CÙNG QUỈ VƯƠNG VÂN TẬP.
Lúc đó, trong dãy núi Thiết Vi có vô lượng Quỷ Vương cùng với Thiên Tử Diêm La đồng lên cung trời Ðao Lợi, đến chỗ của Ðức Phật. Ðó là:
Quỷ Vương Ác Ðộc,
Quỷ Vương Ða Ác,
Quỷ Vương Ðại Tranh,
Quỷ Vương Bạch Hổ,
Quỷ Vương Huyết Hổ,
Quỷ Vương Xích Hổ,
Quỷ Vương Tán Ương,
Quỷ Vương Phi Thân,
Quỷ Vương Ðiển Quang,
Quỷ Vương Lang Nha,
Quỷ Vương Thiên Nhãn,
Quỷ Vương Ðạm Thú,
Quỷ Vương Phụ Thạch,
Quỷ Vương Chủ Hao,
Quỷ Vương Chủ Họa,
Quỷ Vương Chủ Thực,
Quỷ Vương Chủ Tài,
Quỷ Vương Chủ Súc,
Quỷ Vương Chủ Cầm,
Quỷ Vương Chủ Thú,
Quỷ Vương Chủ Mỵ,
Quỷ Vương Chủ Sản,
Quỷ Vương Chủ Mạng,
Quỷ Vương Chủ Tật,
Quỷ Vương Chủ Hiểm,
Quỷ Vương Tam Mục,
Quỷ Vương Tứ Mục,
Quỷ Vương Ngũ Mục,
Kỳ Lợi Thất Vương,
Ðại Kỳ Lợi Thất Vương,
Kỳ Lợi Xoa Vương,
Ðại Kỳ Lợi Xoa Vương,
A Na Tra Vương,
Ðại A Na Tra Vương.
Những vị Ðại Quỷ Vương như thế, mỗi vị cùng với trăm ngàn tiểu quỷ vương, toàn cư ngụ ở cõi Diêm Phù Ðề, ai nấy đều có chức trách, đều có phần chủ trị riêng.
Các vị Quỷ Vương đó cùng với Thiên Tử Diêm La, nương oai thần của Ðức Phật và oai lực của Đại Bồ Tát Ðịa Tạng , đồng lên đến cung trời Ðao Lợi và đứng qua một phía.
2) VUA DIÊM LA BẠCH PHẬT.
Bấy giờ, Thiên Tử Diêm La quỳ gối chắp tay bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nay chúng con cùng các vị Quỷ Vương nhờ nương oai thần của Ðức Phật và oai lực của Đại Bồ Tát Ðịa Tạng mới được đến đại hội nơi cung trời Ðao Lợi này, mà cũng là chúng con được thiện lợi vậy. Nay con có chút việc nghi ngờ, dám bạch hỏi Ðức Thế Tôn, cúi xin Ðức Thế Tôn từ bi tuyên thuyết.”
Ðức Phật bảo Thiên Tử Diêm La: “Cho phép ông hỏi, Ta sẽ vì ông mà nói rõ.”
Bấy giờ, Thiên Tử Diêm La chiêm lễ Ðức Thế Tôn và ngoái nhìn Bồ Tát Ðịa Tạng, rồi bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét Bồ Tát Ðịa Tạng ở trong sáu đường dùng trăm ngàn phương chước để cứu độ những chúng sanh mắc phải tội khổ, chẳng từ mệt nhọc. Vị Ðại Bồ Tát này có những sự thần thông bất khả tư nghì như thế, nhưng chư chúng sanh vừa được thoát khỏi tội báo, chẳng bao lâu lại phải đọa vào ác đạo nữa.
“Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đã có thần lực bất khả tư nghì như thế, cớ sao hàng chúng sanh chẳng chịu nương về thiện đạo để được giải thoát mãi mãi? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy rõ việc đó cho chúng con.”
3) PHẬT GIẢNG SỞ NHƠN.
Ðức Phật bảo Thiên Tử Diêm La: “Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề tánh tình cang cường, khó điều khó phục. Ðại Bồ Tát đây trong trăm ngàn kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó, làm cho họ sớm được giải thoát.
“Những người bị tội báo cho đến bị đọa vào đường đại ác, Bồ Tát dùng sức phương tiện nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, làm cho họ hiểu được các việc đời trước. Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng, vừa ra khỏi lại trở vào, làm nhọc cho Bồ Tát phải trải qua nhiều số kiếp để độ thoát.
“Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào đường hiểm; trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp. Người mê muội đó ở trong đường hiểm chỉ chừng giây lát là sẽ gặp các thứ độc.”
“Có một vị Tri Thức hiểu nhiều phép thuật, khéo ngăn trừ thứ độc đó, cho đến quỷ Dạ-xoa cùng các loài ác độc v.v..., chợt gặp người mê muội kia đang muốn đi vào đường hiểm, bèn vội bảo rằng: ‘Ô hay, ông kia! Vì cớ gì mà vào con đường này? Ông có phép thuật lạ gì có thể ngăn trừ các thứ độc chăng?’
“Người lạc đường chợt nghe lời ấy mới biết là đường nguy hiểm, liền lùi lại, muốn ra khỏi con đường đó. Vị Thiện Tri Thức kia nắm tay dìu dắt, dẫn ra khỏi đường hiểm, tránh khỏi các sự ác độc, và đến con đường tốt lành, làm cho được an lạc; rồi bảo rằng: ‘Này người lạc đường! Từ nay về sau chớ đi vào con đường đó nữa. Ai mà vào con đường đó ắt khó ra được, lại còn bị tổn tánh mạng!’
Người lạc đường đó cũng sanh lòng cảm trọng. Lúc từ biệt nhau, vị Tri Thức lại căn dặn thêm: ‘Nếu gặp người thân quen, cùng những người đi đường hoặc trai hoặc gái, thì hãy bảo với họ rằng con đường đó có nhiều sự ác độc, vào đó có thể mất cả tánh mạng. Ông chớ để cho những người ấy tự vào chỗ chết.”
“Vì thế nên Bồ Tát Ðịa Tạng đầy đủ đức đại từ bi, cứu vớt những chúng sanh mắc tội khổ, khiến cho họ được sanh trong cõi trời, cõi người, hưởng sự vui sướng vi diệu.
“Những kẻ có tội đó rõ biết sự khổ trong nghiệp đạo rồi, khi đã được ra khỏi, vĩnh viễn chẳng còn trở vào nữa; như người lạc đường đi lầm vào con đường hiểm, gặp vị Thiện Tri Thức dẫn cho ra, không bao giờ còn lạc vào nữa, gặp gỡ người khác lại khuyên chớ vào đường ấy, còn tự nói rằng: ‘Tôi bị mê lầm, nay được thoát ra rồi, không còn trở vào đó nữa. Nếu đi vào nữa và còn mê lầm, không biết đó là con đường hiểm nạn mà mình đã từng lạc vào, thì có thể đến phải mất mạng.’
“Như có những chúng sanh bị đọa vào ác đạo, Bồ Tát Ðịa Tạng dùng sức phương tiện khiến họ được giải thoát, sanh trong cõi trời, cõi người, nhưng rồi họ lại trở vào lần nữa; nếu kết nghiệp nặng nề thì họ phải ở mãi chốn địa ngục, không lúc nào được giải thoát.”
4) QUỈ VƯƠNG BÀY THIỆN NGUYỆN.
Bấy giờ, Quỷ Vương Ác Ðộc chắp tay cung kính bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Hàng Quỷ Vương chúng con số đông vô lượng, ở cõi Diêm Phù Ðề hoặc làm lợi ích cho người, hoặc làm tổn hại cho người, mỗi mỗi không giống nhau. Nhưng vì nghiệp báo khiến quyến thuộc chúng con đi khắp thế giới làm ác nhiều, làm thiện ít.
“Ði qua sân nhà người ta, hoặc thành phố, xóm làng, trang trại, vườn cây, buồng nhà, trong đó như có người nam kẻ nữ nào tu được thiện sự bằng mảy lông sợi tóc; cho đến treo một tràng phan, một bảo cái và dâng chút hương, chút hoa cúng dường tượng Phật cùng tượng Bồ Tát, hoặc chuyển đọc tôn kinh, đốt hương cúng dường cho một bài kệ, một câu kinh; thì hàng Quỷ Vương chúng con sẽ kính lễ người đó như kính lễ các đức Phật thuở quá khứ, hiện tại cùng vị lai.
“Chúng con ra lệnh cho các tiểu quỷ có oai lực lớn và thần Thổ Ðịa đều phải bảo vệ, che chở, chẳng để cho các việc dữ, các tai nạn bất kỳ, hoặc bệnh nan y, bệnh hiểm nghèo bất kỳ, cho đến những việc không vừa ý đến gần chỗ của các nhà đó, huống là để cho vào cửa!”
Ðức Phật khen ngợi Quỷ Vương rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông cùng với Vua Diêm La có thể ủng hộ các thiện nam thiện nữ như thế! Ta cũng bảo Phạm Vương, Ðế Thích hộ vệ các ông!”
5) CHỦ MẠNG QUỶ VƯƠNG TRÌNH THƯA.
Ðức Phật nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Quỷ Vương tên là Chủ Mạng bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nghiệp duyên căn bản của con là chủ về nhân mạng ở cõi Diêm Phù Ðề, khi sanh khi tử đều do con làm chủ. Bổn nguyện của con thì rất muốn làm lợi ích, nhưng vì chúng sanh không hiểu ý con nên đến nỗi khi sanh khi tử đều không được an ổn; tại sao thế?
6) KHI SANH NỞ NÊN LÀM LÀNH KIÊNG ÁC
“Người cõi Diêm Phù Ðề lúc mới sanh xong, không kể là con trai hay con gái, hoặc khi sắp sanh, chỉ nên làm thiện sự để thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thì tự nhiên Thần Thổ Ðịa sẽ vô cùng hoan hỷ, ủng hộ cho cả mẹ lẫn con đều được sự an lạc lớn, hàng quyến thuộc cũng được lợi ích.
“Hoặc khi đã sanh rồi thì nên cẩn thận, chớ giết hại để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản mẫu, cùng nhóm họp hàng quyến thuộc lại để uống rượu, ăn thịt, ca hát, đánh đàn, thổi sáo; vì có thể khiến cho cả mẹ lẫn con chẳng được an lạc.”
“Vì sao thế? Bởi vì lúc sanh nở khó khăn đó, có vô số ác quỷ cùng vọng lượng, tinh mỵ, muốn tới ăn huyết tanh. Chính con sớm đã sai các thần linh của nhà cửa đất đai phải bảo hộ người mẹ và đứa con, làm cho họ được an vui mà hưởng nhiều sự lợi ích.
“Những người này thấy sự an ổn vui vẻ thì nên tạo phước để báo đáp các thần Thổ Ðịa, thế mà trái lại, họ còn giết hại, tụ tập quyến thuộc; vì lẽ này, hễ phạm tội tất phải tự gánh chịu, người mẹ và đứa con đều bị tổn hại!
“Lại ở cõi Diêm Phù Ðề, những người sắp mạng chung, bất luận là thiện hay ác, con đều muốn cho họ không bị đọa lạc vào đường ác; huống chi là kẻ tự tu thiện căn, làm tăng oai lực của con!
“Những người làm thiện ở cõi Diêm Phù Ðề, đến lúc lâm chung cũng còn có trăm ngàn quỷ thần trong ác đạo hoặc biến làm cha mẹ, cho đến hàng quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến cho lạc vào ác đạo; huống chi là những kẻ vốn đã tạo ác!”
7) LÚC CHẾT NÊN TU PHƯỚC.
“Bạch Ðức Thế Tôn! Những kẻ nam người nữ ở cõi Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung thì thần thức hôn ám mê muội, không phân biệt được thiện ác, cho đến mắt và tai đều không còn thấy nghe gì nữa.
“Hàng quyến thuộc phải nên thiết đại cúng dường, chuyển đọc tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật cùng Bồ Tát; những thiện duyên như thế có thể khiến cho người chết thoát khỏi các đường ác, và các ma quỷ, ác thần đều phải rút lui hoặc giải tán.
“Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh lúc lâm chung nếu được nghe đến danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, hoặc một câu hay một bài kệ trong kinh điển Ðại Thừa, con xem xét thấy hạng người ấy, trừ năm tội Vô Gián và tội sát hại, còn những nghiệp ác nho nhỏ đáng phải đọa vào đường ác thì chẳng bao lâu đều được thoát khỏi cả.”
8) ĐỨC PHẬT CĂN DẶN.
Ðức Phật bảo Chủ Mạng Quỷ Vương rằng: “Ông vì lòng đại từ nên có thể phát đại nguyện, ở trong sanh tử cứu hộ chúng sanh như thế. Như trong đời sau có kẻ nam người nữ nào đến thời điểm sanh tử, thì ông chớ rút lại lời nguyện đó, mà nên làm cho họ thảy đều được giải thoát, mãi mãi được an vui.”
Quỷ Vương bạch cùng Ðức Phật rằng: “Xin Ðức Thế Tôn chớ lo! Trọn đời con luôn luôn ủng hộ chúng sanh ở cõi Diêm Phù Ðề, làm cho lúc sanh lúc tử đều được an vui. Chỉ mong các chúng sanh trong lúc sanh cùng lúc tử đều tin theo lời con, thì không ai là không được giải thoát và được lợi ích lớn cả!”
9) ĐỨC PHẬT THỌ KÝ CHO CHỦ MẠNG
Bấy giờ, Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: “Vị Ðại Quỷ Vương chủ về sanh mạng đây, đã từng trải qua trăm ngàn đời làm vị Ðại Quỷ Vương, ủng hộ chúng sanh trong lúc sanh và lúc tử. Bậc Ðại Sĩ này vì lòng từ bi phát nguyện hiện thân đại quỷ, chớ thật ra không phải quỷ.
“Quá một trăm bảy mươi kiếp sau, ông ấy sẽ được thành Phật hiệu là Vô Tướng Như Lai, kiếp tên là An Lạc, thế giới tên là Tịnh Trụ, thọ mạng của Ðức Phật đó đến số kiếp không thể tính đếm được.
“Này Ðịa Tạng Bồ Tát! Những việc của vị Ðại Quỷ Vương đó thì không thể nghĩ bàn như thế; hàng trời, người được độ thoát cũng đến số không thể hạn lượng.”
PHẨM THỨ CHÍN
XƯNG DANH HIỆU CHƯ PHẬT
Lúc đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nay con vì chúng sanh đời sau mà diễn nói về sự lợi ích, làm cho họ trong lúc sanh cùng lúc tử đều được những lợi ích lớn lao. Cúi xin Ðức Thế Tôn lắng nghe điều con nói."
Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Nay ông muốn khởi lòng từ bi, cứu vớt tất cả chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo mà diễn nói sự chẳng thể nghĩ bàn. Bây giờ chính đã phải lúc, ông nên nói ngay đi, Ta sắp sửa vào Niết Bàn rồi! Ông hãy sớm hoàn tất lời nguyện đó, thì Ta cũng không còn phải lo nghĩ gì đến tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai nữa."
Bồ Tát Ðịa Tạng bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Biên Thân Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này mà tạm thời sanh lòng cung kính, thì liền được vượt thoát tội nặng sanh tử trong bốn mươi kiếp; huống là vẽ đắp hình tượng, cúng dường, tán thán! Người này sẽ được vô lượng vô biên phước báo."
"Lại vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tánh Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này và trong khoảnh khắc bằng khảy móng tay liền phát tâm quy y, người đó sẽ vĩnh viễn không còn thối chuyển nơi Ðạo Vô Thượng.
Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này thoáng qua lỗ tai, người đó sẽ được một ngàn lần sanh trong Lục Dục Thiên, huống chi là chí tâm xưng niệm!"
"Lại không thể nói hết, không thể nói hết a-tăng-kỳ kiếp về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Sư Tử Hống Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này mà nhất niệm quy y, người ấy sẽ được gặp vô lượng chư đức Phật xoa đảnh thọ ký cho.
Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Câu Lưu Tôn Phật. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này mà chí tâm chiêm lễ hoặc lại tán thán, người ấy nơi pháp hội của một ngàn đức Phật trong thời Hiền Kiếp sẽ làm vị Ðại Phạm Vương, được thọ thượng ký.
Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Phật. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì vĩnh viễn không đọa vào ác đạo, thường được sanh vào chốn trời, người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Lại vô lượng vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì sẽ không bao giờ bị đọa vào ác đạo, mà thường ở trên cõi trời, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tướng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này bèn sanh lòng cung kính, thì người ấy không bao lâu sẽ đắc quả A La Hán.
Lại vô lượng vô số kiếp về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ca Sa Tràng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì sẽ siêu thoát tội sanh tử trong một trăm đại kiếp."
"Lại về thuở quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Ðại Thông Sơn Vương Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì người ấy sẽ được gặp chư Phật nhiều như cát sông Hằng rộng thuyết giáo pháp cho và thành tựu Ðạo Bồ Ðề.
Lại về thuở quá khứ có Ðức Tịnh Nguyệt Phật, Ðức Sơn Vương Phật, Ðức Trí Thắng Phật, Ðức Tịnh Danh Vương Phật, Ðức Trí Thành Tựu Phật, Ðức Vô Thượng Phật, Ðức Diệu Thanh Phật, Ðức Mãn Nguyệt Phật, Ðức Nguyệt Diện Phật, và các đức Phật như thế không thể nói hết đươc.
Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh trong thời hiện tại cùng vị lai, hoặc trời hoặc người, hoặc nam hoặc nữ, chỉ niệm được danh hiệu của một đức Phật thôi, thì sẽ được vô lượng công đức, huống là niệm được nhiều danh hiệu! Những chúng sanh đó lúc sanh lúc tử đều được lợi ích lớn lao, cuối cùng không phải đọa vào ác đạo.
Như có người nào sắp mạng chung, hàng quyến thuộc trong nhà dù chỉ một người, vì người bệnh đó mà cất cao tiếng niệm một danh hiệu Phật, thì người sắp chết đó, trừ năm tội Vô Gián, còn các nghiệp báo khác đều được tiêu tan.
Năm tội Vô Gián kia dầu rất nặng nề, trải qua ức kiếp không được ra khỏi, nhưng nhờ lúc lâm chung được người khác vì mình mà xưng niệm danh hiệu của Phật, cho nên những tội đó cũng lần lần tiêu sạch; huống hồ chúng sanh tự xưng tự niệm, tất sẽ được vô lượng phước báo, trừ diệt vô lượng nghiệp tội."
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
QUYỂN TRUNG HẾT
Bổn hạnh Địa Tạng,
Thệ nguyện rộng sâu,
Gậy vàng châu sáng độ chúng sanh
Địa ngục khổ không ngằn,
Tinh tấn kiền thành,
Khỏi mắc khổ trầm luân
Nam mô Thường Trụ thập phương Pháp (3 lần)
Nam mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
QUYỂN HẠ
PHẨM THỨ MƯỜI
NHÂN DUYÊN VÀ SỰ SO SÁNH CÔNG ÐỨC BỐ THÍ
Lúc đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nương oai thần của Ðức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối, chắp tay bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo, so sánh về sự bố thí thì có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời; có người hưởng phước trong mười đời; có người hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, ngàn đời. Những việc này là như thế nào? Cúi xin Ðức Thế Tôn chỉ dạy cho con rõ."
Bấy giờ, Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Nay Ta ở trong toàn thể chúng hội nơi cung trời Ðao Lợi này, giảng về sự so sánh công đức khinh trọng của việc bố thí ở Diêm Phù Ðề. Ông phải lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói!"
Bồ Tát Ðịa Tạng bạch Phật rằng: "Con đang hoài nghi việc ấy, nên rất muốn được nghe."
Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Ở cõi Nam Diêm Phù Ðề, có các Quốc Vương, hàng Tể Phụ, Ðại Thần, Ðại Trưởng Giả, Ðại Sát Lợi, Ðại Bà La Môn v.v... gặp những kẻ bần cùng thấp kém nhất, cả đến những kẻ gù lưng, tàn phế, ngọng, câm, điếc, ngu si, không mắt, những người không được vẹn toàn như thế; khi các Ðại Quốc Vương đó muốn bố thí và nếu có thể đủ lòng đại từ bi, mỉm cười hạ mình, tự tay bố thí cùng khắp hoặc sai bảo người khác bố thí, lại dùng lời ôn hòa, dịu dàng an ủi; thì các Quốc Vương đó sẽ được phước lợi bằng phước lợi của công đức cúng dường cho chư Phật nhiều như số cát một trăm sông Hằng .
Vì cớ gì? Bởi các Quốc Vương đó đã phát tâm đại từ bi đối với những kẻ bần cùng thấp kém nhất cùng những người khuyết tật kia, cho nên được quả báo phước lợi như thế, trong trăm ngàn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo, huống là những thứ thọ dụng như y phục, đồ ăn thức uống!"
"Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có các Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn v.v... gặp chùa tháp thờ Phật, hoặc hình tượng Phật, cho đến tượng Bồ Tát, Thanh Văn hoặc Bích Chi Phật, bèn đích thân thu xếp sửa sang, cúng dường, bố thí, thì các Quốc Vương đó sẽ được trong ba kiếp làm thân Ðế Thích, thọ hưởng sự vui sướng thù thắng, vi diệu. Nếu có thể đem phước lợi bố thí này hồi hướng cho Pháp Giới, thì các Ðại Quốc Vương đó, trong mười kiếp thường được làm vị Ðại Phạm Thiên Vương.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có các Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn v.v..., gặp tháp miếu của chư Phật thuở trước, hoặc cả kinh điển, hình tượng bị hủy hoại, rách nát, liền có thể phát tâm tu bổ lại. Các Quốc Vương đó, hoặc tự mình lo liệu sửa sang, hoặc khuyến hóa người khác, thậm chí cả trăm ngàn người cùng bố thí để kết Pháp duyên; thì các vị Quốc Vương đó trong trăm ngàn đời thường được làm thân Chuyển Luân Vương, còn những người cùng chung làm việc bố thí đó, trong trăm ngàn đời thường được làm vua các nước nhỏ.
Nếu lại có thể ở trước chùa tháp mà phát tâm hồi hướng, thì các Quốc Vương cho đến những người đó, thảy đều thành Phật Ðạo, bởi quả báo ấy là vô lượng vô biên."
"Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, như có các vị Quốc Vương cùng hàng Bà La Môn v.v..., gặp những người già yếu, tật bệnh và kẻ phụ nữ sinh đẻ, nếu trong một niệm mà đầy đủ lòng đại từ, đem thuốc men, đồ ăn thức uống, mền chiếu... bố thí cho, khiến cho họ được an vui, thì phước lợi đó không thể nghĩ bàn—trong một trăm kiếp thường được làm Thiên Chủ trời Tịnh Cư, trong hai trăm kiếp thường được làm Thiên Chủ cõi Lục Dục Thiên và rốt ráo sẽ được thành Phật, vĩnh viễn không còn đọa vào ác đạo, thậm chí trong trăm ngàn đời, tai không hề nghe đến tiếng khổ.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, như có các vị Quốc Vương cùng hàng Bà La Môn v.v..., có thể làm những việc bố thí như thế, sẽ được vô lượng phước lành. Nếu lại có thể đem hồi hướng, thì không kể là nhiều hay ít, rốt ráo đều sẽ thành Phật; huống gì là những quả báo Thích, Phạm, Chuyển Luân! Vì thế, này Ðịa Tạng, ông nên khuyến hóa chúng sanh đều phải học theo như thế!"
"Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào ở trong Phật Pháp mà gieo trồng chút ít thiện căn chừng bằng mảy lông, sợi tóc, hạt cát, hạt bụi, thì phước lợi được thọ hưởng sẽ không thể ví dụ thế nào cho được.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp hình tượng Phật, hình tượng Bồ Tát, hình tượng Bích Chi Phật, hình tượng vua Chuyển Luân mà bố thí cúng dường, thì sẽ được vô lượng phước báo, thường ở cõi người, cõi trời, hưởng sự vui thù thắng, vi diệu. Như có thể đem hồi hướng cho Pháp Giới, thì phước lợi của người ấy sẽ không thể ví dụ thế nào cho được.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp kinh điển Ðại Thừa, hoặc nghe thấy một bài kệ, một câu kinh, rồi phát tâm ân cần trân trọng, cung kính ngợi khen, bố thí cúng dường, thì người ấy sẽ được đại quả báo vô lượng vô biên; nếu có thể đem hồi hướng cho Pháp Giới, thì phước báo này sẽ không thể ví dụ thế nào cho được."
"Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp chùa tháp thờ Phật và kinh điển Ðại Thừa, nếu còn mới thì bố thí cúng dường, chiêm ngưỡng, lễ lạy, khen ngợi, chắp tay cung kính; nếu đã cũ kỹ hoặc hư hoại thì sửa sang tu bổ, hoặc riêng mình phát tâm, hoặc khuyên nhiều người khác cùng phát tâm. Như những người này, trong ba mươi đời thường được làm vua các nước nhỏ; còn vị Ðàn Việt thì thường làm Luân Vương, lại dùng thiện pháp mà giáo hóa các vua nước nhỏ.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào ở trong Phật Pháp đã gieo trồng thiện căn hoặc là bố thí cúng dường, hoặc là tu bổ chùa tháp, hoặc sửa sang kinh điển, cho đến chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước...; những thiện sự như thế mà đều có thể đem hồi hướng cho Pháp Giới, thì công đức của người này sẽ là trong trăm ngàn đời đều được hưởng sự vui sướng vi diệu, tối thượng.
Còn như chỉ hồi hướng cho thân quyến trong gia đình hoặc cho lợi ích của riêng mình, thì quả báo là sẽ được hưởng sự vui sướng trong ba đời, cứ thí xả một thì được báo đáp vạn lần trội hơn.
Cho nên, này Ðịa Tạng! Những nhân duyên của sự bố thí là như thế!"
PHẨM THỨ MƯỜI MỘT
ĐỊA THẦN HỘ PHÁP
Lúc đó Kiên Lao Ðịa Thần bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ trước đến nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, đều là những bậc đại thần thông trí huệ không thể nghĩ bàn, quảng độ chúng sanh. Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây so với chư Bồ Tát, thì thệ nguyện thâm trọng.
Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đây có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Ðề. Như các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc cũng hóa hiện trăm ngàn thân hình để độ Lục Ðạo, nhưng nguyện của các ngài còn có lúc hoàn mãn; còn Bồ Tát Ðịa Tạng đây phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong Lục Ðạo, trải đến kiếp số như số cát của trăm ngàn ức sông Hằng."
"Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất; ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích. Những gì là mười?
Một là đất đai mầu mỡ;
Hai là nhà cửa yên ổn mãi mãi;
Ba là người đã mất được sanh thiên;
Bốn là người hiện còn được tăng tuổi thọ;
Năm là mọi mong cầu đều được toại ý;
Sáu là không có tai họa về nước và lửa;
Bảy là trừ sạch việc hư hao;
Tám là dứt hẳn ác mộng;
Chín là ra vào đều có thần theo hộ vệ;
Mười là thường gặp nhân Thánh."
"Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng sanh trong đời vị lai cùng hiện tại, nếu có thể ở nơi mình trú ngụ mà làm ra sự cúng dường như thế, thì sẽ được sự lợi ích như vậy."
Lại bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Trong đời vị lai, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào, ở nơi mình cư ngụ mà có kinh điển này cùng hình tượng của Bồ Tát, người đó lại có thể đọc tụng kinh điển này và cúng dường hình tượng của Bồ Tát, thì con thường ngày đêm dùng thần lực của mình hộ vệ người đó, cho đến tất cả ác sự, các nạn nước, lửa, trộm cướp, và các tai họa bất trắc lớn nhỏ thảy đều tiêu sạch."
Ðức Phật bảo Kiên Lao Ðịa Thần rằng: "Thần lực rộng lớn của ông, các thần khác ít ai bằng. Vì cớ sao? Vì đất đai trong cõi Diêm Phù đều nhờ ông hộ trợ; cho đến cỏ, cây, cát, đá, lúa, mè, tre, lau, gạo thóc, của báu ... từ đất mà có, đều nhờ nơi sức của ông cả.
Ông lại luôn khen ngợi những sự lợi ích của Bồ Tát Ðịa Tạng, thì công đức và thần thông của ông sẽ trăm ngàn phần trội hơn của các địa thần bình thường.
Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào cúng dường Bồ Tát cùng đọc tụng kinh điển này, dù chỉ y theo một việc trong Kinh Ðịa Tạng Bổn Nguyện mà tu hành, thì ông nên dùng thần lực của mình mà ủng hộ, chớ để mọi tai hại cùng sự không vừa ý lọt vào tai người đó, huống nữa là để cho phải chịu đựng.
Chẳng phải chỉ riêng mình ông hộ trì người đó, mà cũng có hàng quyến thuộc của Phạm Vương, Ðế Thích, và quyến thuộc của chư thiên ủng hộ người đó nữa!
Tại sao người đó lại được chư hiền thánh ủng hộ như thế? Ấy đều do chiêm lễ hình tượng của Bồ Tát Ðịa Tạng cùng đọc tụng Kinh Bổn Nguyện này, nên tự nhiên được rốt ráo xa lìa biển khổ, chứng được Niết Bàn yên vui, vì thế mà được sự ủng hộ lớn lao."
PHẨM THỨ MƯỜI HAI
THẤY, NGHE ĐỀU ĐƯỢC LỢI ÍCH
1) ĐỨC PHẬT PHÓNG QUANG TUYÊN CÁO.
Lúc đó, từ trên đảnh môn Đức Thế Tôn phóng ra cả trăm ngàn vạn ức tướng tia sáng lớn.
Như là: Tia sáng tướng màu trắng, tia sáng tướng màu trắng lớn; tia sáng tướng tốt lành, tia sáng tướng tốt lành lớn; tia sáng tướng ngọc, tia sáng tướng ngọc lớn; tia sáng tướng màu tía, tia sáng tướng màu tía lớn; tia sáng tướng màu xanh, tia sáng tướng màu xanh lớn; tia sáng tướng màu xanh biếc, tia sáng tướng màu xanh biếc lớn; tia sáng tướng màu đỏ, tia sáng tướng màu đỏ lớn; tia sáng tướng màu lục, tia sáng tướng màu lục lớn; tia sáng tướng màu vàng y, tia sáng tướng màu vàng y lớn; tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn; tia sáng ngàn vòng tròn, tia sáng ngàn vòng tròn lớn; tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn; tia sáng vầng mặt trời, tia sáng vầng mặt trời lớn; tia sáng vầng mặt trăng, tia sáng vầng mặt trăng lớn; tia sáng cung điện, tia sáng cung điện lớn; tia sáng mây biển, tia sáng mây biển lớn.
Từ trên đảnh môn phóng ra những tướng tia sáng như thế xong, lại nói ra tiếng vi diệu mà bảo đại chúng, Thiên Long Bát Bộ, nhân cùng phi nhân v.v... rằng: “Hãy lắng nghe hôm nay Ta, tại cung trời Đao Lợi, tuyên bày ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng về những sự lợi ích trong hàng trời, người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự siêu vượt nhân Thánh, những sự chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không thối chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.”
2) QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CẦU THỈNH.
Nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát hiệu là Quán Thế Âm từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay mà bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây đầy đủ đức đại từ bi, thương xót chúng sanh mắc tội khổ. Bồ Tát ở trong ngàn vạn ức thế giới hóa hiện ra ngàn vạn ức thân, tất cả công đức cùng sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn.
Con được nghe Đức Thế Tôn cùng vô lượng chư Phật trong mười phương, khác miệng đồng lời ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng rằng dầu cho chư Phật trong thuở quá khứ, hiện tại và vị lai đều tuyên nói về công đức đó, vẫn chẳng thể nói hết được.
Vừa rồi lại được Đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng rằng muốn tuyên nói các sự lợi ích của Bồ Tát Địa Tạng. Cúi mong Đức Thế Tôn, vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai, mà tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng, khiến cho Thiên Long Bát Bộ chiêm lễ được phước.”
3) ĐỨC PHẬT TÁN THÁN VÀ HỨA KHẢ.
Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Ông có đại nhân duyên với thế giới Ta Bà. Nếu hàng trời hoặc rồng, hoặc kẻ nam người nữ, hoặc thần hoặc quỷ, cho đến các chúng sanh tội khổ trong Lục Đạo nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, mến tưởng đến ông, khen ngợi ông, thì những chúng sanh ấy đều ở nơi Đạo Vô Thượng quyết chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời, hưởng đủ sự vui vi diệu; khi nhân quả sắp thành thục liền được gặp Phật thọ ký cho.
Nay ông sẵn lòng đại từ bi, thương xót các chúng sanh cùng Thiên Long Bát Bộ, mà muốn nghe Ta tuyên nói những sự lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng. Ông hãy lắng nghe, nay Ta sẽ nói rõ.”
Ngài Quán Thế Âm bạch rằng: “Vâng, bạch Đức Thế Tôn! Con xin ưa muốn nghe.”
4) THẤY NGHE THÊM PHƯỚC TRỜI.
Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Trong các thế giới về thuở hiện tại và vị lai, có vị thiên nhân nào phước trời thọ hưởng đã hết, có Ngũ Suy Tướng hiện ra, hoặc có vị phải đọa lạc nơi chốn ác đạo; các vị thiên nhân đó, hoặc nam hoặc nữ, đương lúc tướng suy hiện ra, mà hoặc thấy được hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng hoặc nghe được danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, rồi một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, thì các vị thiên nhân đó được phước trời thêm lớn, hưởng nhiều sự vui sướng, vĩnh viễn không phải đọa lạc vào ba ác đạo nữa; huống chi là được thấy tượng, được nghe tên của Bồ Tát, rồi đem các thức hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, vật báu, chuỗi anh lạc... mà bố thí cúng dường, thì công đức phước lợi có được sẽ vô lượng vô biên.”
5) NGƯỜI BỊNH ĐƯỢC LỢI.
“Lại nữa, này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại và vị lai, nếu những chúng sanh trong Lục Đạo lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa.
Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, của báu, y phục v. v... của người sắp chết đó mà đắp, vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc làm cho người bệnh lúc chưa chết, được mắt thấy tai nghe, biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v. v... vì mình mà đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; người đó nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền được khỏi bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài.
Còn nếu người đó nghiệp báo sanh mạng đã hết, đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, và đọa vào đường ác, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung liền được sanh vào cõi trời, cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.”
6) TIÊN VONG ĐƯỢC PHƯỚC.
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ nam người nữ nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, năm tuổi, mười tuổi trở xuống mà chết mất cha mẹ, cho đến chết mất anh em chị em, người đó khi khôn lớn thường nhớ tưởng đến cha mẹ cùng hàng quyến thuộc, song không rõ họ lạc vào chốn nào, sanh về thế giới nào, hoặc sanh trong cõi trời nào.
Người đó như có thể đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, thậm chí nghe danh hiệu, một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, trong từ một ngày cho đến bảy ngày đừng thối thất tâm nguyện ban đầu mà nghe danh hiệu, ngắm hình tượng, chiêm lễ, cúng dường; thì quyến thuộc của người đó nếu do ác nghiệp mà bị đọa vào đường ác lẽ ra phải chịu đến nhiều số kiếp, nay nhờ công đức đắp vẽ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng và chiêm lễ của con cái, anh em chị em, nên liền được giải thoát, sanh trong cõi trời cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Còn như quyến thuộc của người đó có phước lực, đã được sanh vào cõi trời, cõi người và hưởng thọ sự vui thù thắng vi diệu rồi, thì sẽ nhờ công đức này mà nhân Thánh tăng trưởng, hưởng vô lượng sự vui.”
“Như người đó lại có thể trong hai mươi mốt ngày nhất tâm chiêm lễ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng và niệm danh hiệu của Ngài đủ một vạn biến, thì sẽ được Bồ Tát hiện thân vô biên, mách bảo người đó cõi giới mà hàng quyến thuộc đã sanh về; hoặc trong giấc mộng, Bồ Tát hiện đại thần lực, đích thân dắt người đó đến các thế giới để thấy hàng quyến thuộc của mình.
Nếu người đó lại có thể mỗi ngày đều niệm danh hiệu Bồ Tát một ngàn biến, luôn đến một ngàn ngày, thì người đó sẽ được Bồ Tát sai các quỷ thần và thổ địa sở tại hộ vệ trọn đời, hiện đời y phục thức ăn dư dật, không có các thứ bệnh khổ, cho đến các hoạnh sự còn không hề vào đến cửa, huống nữa là đến nơi thân! Người đó rốt ráo sẽ được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
7) NGUYỆN LỚN SỚM THÀNH.
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn phát lòng từ rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu Đạo Bồ Đề Vô Thượng, muốn ra khỏi Tam Giới; những người đó thấy hình tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng nghe danh hiệu, rồi chí tâm quy y, hoặc đem hương hoa, y phục, vật báu, đồ ăn thức uống để cúng dường chiêm lễ, thì điều nguyện cầu của các thiện nam thiện nữ đó sẽ chóng được thành tựu, vĩnh viễn không bị chướng ngại.”
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn cầu trăm ngàn vạn ức điều nguyện, trăm ngàn vạn ức sự việc về hiện tại cùng vị lai, thì nên chỉ quy y, chiêm lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; thì các điều sở nguyện sở cầu như thế tất đều thành tựu cả.
Nếu lại cầu mong Bồ Tát Địa Tạng, đấng đầy đủ lòng đại từ bi, mãi mãi ủng hộ cho mình, thì người đó trong giấc chiêm bao liền được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
8) ĐƯỢC TRÍ HUỆ.
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với kinh điển Đại Thừa sanh lòng trân trọng thâm sâu, phát tâm không nghĩ bàn muốn đọc, muốn tụng, dầu gặp được bậc minh sư dạy bảo cho thành thục, song đọc rồi lại quên, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được; những kẻ thiện nam này vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên đối với kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng.”
“Những hạng người này, khi nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cùng thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, thì nên đem hết bổn tâm mà cung kính bày tỏ; rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, cùng tất cả đồ chơi cúng dường Bồ Tát. Lại đem một chén nước trong đặt trước Bồ Tát một ngày một đêm, sau đó chắp tay thỉnh để uống, mặt day về hướng Nam; khi nước sắp vào miệng phải chí tâm trịnh trọng. Uống nước xong, phải kiêng cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày. Những người thiện nam thiện nữ này, trong giấc chiêm bao sẽ thấy Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vô biên đến chỗ họ ở mà rưới nước quán đảnh cho. Những người này thức dậy liền được thông minh, các kinh điển một phen lọt vào nhĩ căn thì liền nhớ mãi, không còn quên một câu kinh hay một bài kệ nữa!”
9) TAI NẠN TIÊU TRỪ.
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có những người nào ăn mặc không đủ, cầu gì cũng trái nguyện, hoặc nhiều bệnh tật, hoặc nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc bị phân tán, hoặc các hoạnh sự cứ xảy đến làm thiệt thân, khi ngủ thường mộng thấy điều kinh sợ; những người như thế, khi nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, mà chí tâm cung kính niệm đủ một vạn biến, thì những sự không như ý sẽ tiêu sạch lần lần, liền được an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong giấc mộng thảy đều an vui.”
10) KHỎI HIỂM NGUY
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc vì việc làm ăn sinh sống, hoặc vì việc công chuyện tư, hoặc vì sự sanh sự tử, hoặc vì việc khẩn cấp, mà phải vào rừng lên núi, qua sông vượt biển, cho đến gặp nước lớn hoặc đi ngang hiểm đạo; người đó trước tiên nên niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến, thì đi qua nơi nào cũng có các vị quỷ thần hộ vệ, đi đứng nằm ngồi mãi mãi được an lạc, cho đến dẫu gặp cọp, sói, sư tử... cùng tất cả mọi thứ độc hại, cũng đều không thể làm thương tổn đến được.”
Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Bồ Tát Địa Tạng có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Đề. Nếu nói về những việc lợi ích nhờ được thấy, được nghe của chư chúng sanh, thì trong cả trăm ngàn kiếp cũng không thể nói hết được.
Vì thế, này Quán Thế Âm! Ông hãy dùng thần lực mà lưu bố kinh này, làm cho chúng sanh ở thế giới Ta Bà trong trăm ngàn vạn kiếp luôn được hưởng sự an lạc.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Ta xem Địa Tạng sức oai thần,
Hằng hà sa kiếp nói chẳng cùng.
Thấy, nghe, một niệm chiêm ngưỡng lễ,
Lợi ích trời, người vô lượng sự.
Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc rồng, thần,
Báo tận sẽ sa vào đường ác,
Chí tâm quy y thân Đại Sĩ,
Thọ mạng chuyển tăng, tội chướng trừ.”
“Trẻ thơ sớm mất tình phụ mẫu,
Chẳng rõ thần hồn lạc nơi đâu,
Anh em chị em cùng thân thuộc,
Sanh trưởng đến nay chẳng biết nhau.
Hoặc nặn hoặc vẽ hình Đại Sĩ,
Cảm thương chiêm lễ chẳng muốn rời,
Hăm mốt ngày luôn niệm danh hiệu,
Bồ Tát tất hiện thân vô biên,
Chỉ rành quyến thuộc ở nơi nao,
Dầu sa ác thú cũng ra mau;
Nếu được sơ tâm chẳng thối thất,
Liền đặng xoa đảnh, thọ Thánh ký.”
“Bồ Đề vô thượng muốn tu hành,
Thậm chí lìa xa khổ Tam Giới,
Người này đã phát đại bi tâm,
Trước nên chiêm lễ tượng Đại Sĩ,
Hết thảy nguyện ước chóng thành tựu,
Nghiệp chướng vĩnh viễn chẳng ngăn đặng.
Có người phát tâm tụng kinh điển,
Muốn độ quần mê vượt bỉ ngạn,
Dầu lập thệ nguyện chẳng nghĩ bàn,
Đọc rồi liền quên, luôn sót mất.
Người này nghiệp chướng khiến u mê,
Học Đại Thừa kinh chẳng nhớ được.
Cúng dường Địa Tạng với hương hoa,
Y phục, uống ăn, cùng ngọa cụ,
Bày chén nước trong trước Đại Sĩ,
Cách một ngày sau bưng lấy uống.
Sanh lòng trân trọng, cữ ngũ tân,
Rượu, thịt, tà dâm, cùng vọng ngữ.
Hăm mốt ngày liền chớ sát sanh,
Chí tâm nhớ tưởng Đại Sĩ danh.
Trong mộng tất thấy thân vô biên,
Thức giấc nhĩ căn liền lanh lợi,
Đại Thừa kinh giáo nghe qua tai,
Suốt ngàn vạn đời mãi chẳng quên.
Chính nhờ Đại Sĩ bất tư nghì,
Thầm giúp người kia được huệ tài.”
“Chúng sanh nghèo khổ lại bệnh tật,
Nhà cửa hung suy, quyến thuộc lìa,
Ngủ mê mộng mị không an giấc,
Cầu chi cũng hỏng, chẳng toại lòng,
Chí tâm chiêm lễ tượng Địa Tạng,
Tất cả việc ác thảy tiêu trừ,
Cho đến mộng mị đều an ổn,
Quỷ thần ủng hộ, dư ăn mặc.
Muốn vào núi rừng, qua sông biển,
Cầm thú độc dữ cùng người ác,
Ác thần, ác quỷ, với ác phong,
Hết thảy tai nạn, mọi khổ não,
Chỉ cần chiêm lễ cùng cúng dường,
Địa Tạng Bồ Tát Đại Sĩ tượng,
Núi rừng biển cả dẫu có vào,
Tất cả sự ác đều tiêu sạch.
Quán Âm hãy lắng nghe Ta nói,
Địa Tạng vô tận không nghĩ bàn,
Trăm ngàn muôn kiếp chẳng kể xiết,
Rộng tuyên Đại Sĩ sức như vậy!
Như người nghe đến Địa Tạng danh,
Thậm chí thấy hình cùng chiêm lễ,
Hương hoa, thực phẩm, và y phục,
Cúng dường trăm ngàn hưởng diệu lạc.
Nếu đem hồi hướng khắp Pháp Giới,
Rốt ráo thành Phật, thoát sanh tử.
Vì thế, Quán Âm, ông hãy nên,
Bảo khắp Hằng sa các cõi nước!”
PHẨM THỨ MƯỜI BA
DẶN DÒ CỨU ĐỘ NHƠN THIÊN
1) ĐỨC PHẬT GIAO PHÓ.
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàncủa ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được.
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới, mà giao phó cho ông.
Ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi!
Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất; nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ.”
“Này Địa Tạng! Nay Ta ân cần đem chúng trời, người giao phó cho ông. Vào đời vị lai, nếu có hàng trời, người cùng thiện nam thiện nữ nào, ở trong Phật Pháp mà trồng chút thiện căn chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước, thì ông nên dùng Đạo lực mà ủng hộ người đó, làm cho lần lần tu Đạo Vô Thượng, chớ để thối thất.”
“Lại nữa, này Địa Tạng! Trong đời vị lai, hoặc trời hoặc người, phải tùy theo nghiệp mà thọ báo ứng, đọa lạc vào ác đạo; lúc sắp bị đọa ác đạo hoặc vừa đến ngưỡng cửa, những chúng sanh đó nếu có thể niệm được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, cùng một câu kinh một bài kệ của kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lực, phương tiện để cứu vớt các chúng sanh đó; ở chỗ của các người đó hiện thân vô biên, vì họ mà phá tan địa ngục, làm cho họ được sanh thiên, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng...
“Hiện tại, vị lai chúng thiên, nhân,
Nay Ta ân cần dặn bảo ông:
Dùng đại thần thông phương tiện độ,
Chớ để đọa vào các ác đạo.”
2) BỒ TÁT TUÂN CHỈ.
Bấy giờ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát quỳ gối, chắp tay bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Đức Thế Tôn chớ lo! Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với trong Phật Pháp mà có một niệm cung kính, con cũng dùng trăm ngàn phương tiện để độ thoát người đó, làm cho mau được giải thoát trong đường sanh tử; huống nữa là nghe các thiện sự rồi niệm niệm tu hành, thì sẽ tự nhiên ở nơi Đạo Vô Thượng vĩnh viễn được không còn thối chuyển.”
3) HƯ KHÔNG TẠNG BẠCH HỎI.
Lúc nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con đến cung trời Đao Lợi nghe Đức Như Lai ngợi khen oai thần thế lực không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng. Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào, cho đến tất cả hàng trời, rồng, nghe kinh điển này cùng danh tự của Ngài Địa Tạng, hoặc chiêm lễ hình tượng, thì sẽ được bao nhiêu điều phước lợi? Cúi mong Đức Thế Tôn vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà lược nói việc ấy cho.”
4) HAI MƯƠI TÁM ĐIỀU LỢI
Đức Phật bảo Bồ Tát Hư Không Tạng: “Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói rõ. Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào trông thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng cùng nghe Kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, đồ ăn thức uống, y phục, châu báu, mà bố thí cúng dường, ngợi khen chiêm lễ, thì sẽ được hai mươi tám điều lợi ích.”
“Một là thiên long thường hộ niệm;
Hai là thiện quả ngày càng tăng;
Ba là tích tập các nhân thánh thượng;
Bốn là tâm Bồ Đề không thối chuyển;
Năm là y phục, thực phẩm đầy đủ;
Sáu là dịch bệnh không đến nơi thân;
Bảy là xa lìa các tai nạn về nước và lửa;
Tám là không bị tai ách trộm cướp;
Chín là người khác thấy đều cung kính;
Mười là quỷ thần đều hộ trì.”
Mười một là thân nữ chuyển thành thân nam;
Mười hai là làm con gái hàng vương giả, đại thần;
Mười ba là tướng mạo đoan chánh, tốt đẹp;
Mười bốn là phần nhiều được sanh lên cõi trời;
Mười lăm là có thể làm bậc đế vương;
Mười sáu là biết rõ việc đời trước;
Mười bảy là có mong cầu thì đều được toại ý;
Mười tám là quyến thuộc an vui;
Mười chín là các hoạnh sự đều dứt sạch;
Hai mươi là các nghiệp đạo đều trừ hẳn;
Hai mươi mốt là đi đâu cũng tới nơi cả;
Hai mươi hai là đêm nằm mộng được an ổn, vui vẻ;
Hai mươi ba là tổ tiên đã mất được lìa khổ;
Hai mươi bốn là nhờ phước đời trước mà thọ sanh;
Hai mươi lăm là chư thánh đều khen ngợi;
Hai mươi sáu là căn tánh thông minh, lanh lợi;
Hai mươi bảy là giàu lòng từ mẫn;
Hai mươi tám là rốt ráo thành Phật.
Lại nữa, này Hư Không Tạng Bồ Tát! Như hàng trời, rồng, quỷ thần ở hiện tại và vị lai, nghe danh hiệu của Địa Tạng, lễ bái hình tượng của Địa Tạng, hoặc nghe các việc về bổn nguyện tu hành của Địa Tạng, mà ngợi khen chiêm lễ, thì sẽ được bảy điều lợi ích.”
“Một là mau vượt thánh địa;
Hai là ác nghiệp được tiêu trừ;
Ba là chư Phật đến ủng hộ;
Bốn là Bồ Đề không thối thất;
Năm là bổn lực được tăng trưởng;
Sáu là việc đời trước đều rõ biết;
Bảy là rốt ráo thành Phật.”
Bấy giờ không thể nói hết không thể nói hết tất cả chư Phật Như Lai cùng Đại Bồ Tát, Thiên Long Bát Bộ ở mười phương nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngợi khen tuyên bày sức đại oai thần không thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát, đều khen là việc chưa từng có.
Lúc đó, tại cung trời Đao Lợi mưa xuống vô lượng hương hoa, thiên y, châu báu để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Địa Tạng. Xong rồi, tất cả đại chúng trong Pháp Hội đều lại chiêm lễ, chắp tay mà lui ra.
KỆ TÁN PHẬT
Kinh Địa Tạng Bổn Thệ,
So sánh các nghiệp nhân,
Ốm đau, tàn tật, câm ngọng do đời trước,
Đời này đọc tụng Đại Thừa,
Được phước lợi vô cùng,
Quyết định sen báu vãng sanh.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng.
---Hết quyển Hạ---
KỆ SÁM NGUYỆN
1. Đao Lợi, Thế Tôn nói pháp mầu
Địa Tạng công hạnh rất rộng sâu
Thánh giáo mãi truyền sau chẳng ngớt
Khắp lợi Trời, người khỏi khổ sầu
2. Trời, A-tu-la, Dạ xoa thảy
Đến nghe pháp đó nên chí tâm,
Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn
Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu người nghe đến chốn nầy,
Hoặc trên đất liền hoặc hư không
Thường đối với người đời sanh từ tâm
Ngày đêm tự mình nương pháp ở.
3. Nguyện các thế giới thường an ổn
Phước trí vô biên lợi quần sinh
Bao nhiêu tội nghiệp thảy đều trừ
Xa lìa các khổ về viên tịch
Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng
Thường gìn định phục để giúp thân
Hoa mầu Bồ Đề khắp trang nghiêm
Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Nam mô Tồi Tà Phụ Chính Hộ Pháp
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán-Tự-Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử!
Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, vô Trí diệc vô Ðắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ- Đề-tát-đỏa y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.
Tam thế chư Phật y Bát-Nhã Ba La-Mật-Đa cố, đắc A-nậu đa-la Tam miệu-tam-bồ-đề. Cố tri Bát-Nhã Ba-La Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng-đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thật bất hư.
Cố thuyết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa chú.
Tức thuyết chú viết: Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ đề tát-bà-ha. (3lần)
BẠT NHẤT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG
ĐẮC SANH TỊNH-ÐỘ ĐÀ LA NI
Nam mô A Di đa bà dạ,
Ða tha già đa dạ,
Ða điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ,
a di rị đa, tỳ ca lan đế.
a di rị đa tỳ ca lan đa,
già di nị già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
KỆ TÁN PHẬT
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di
Cám mục trừng thanh tứ đại hải
Quang trung hóa Phật vô số ức
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
PHÁT KHUYẾN THỈNH NGUYỆN
Con đệ tử: ………………………………………..
Đạo trang tại: ...................................................
Hôm nay ngày: ................................................
Chúng con chí tâm khuyến thỉnh, nguyện khiến hết thảy Bồ Tát trong mười phương chưa thành Chính giác, nguyện mau thành Chính giác. Nếu đã thành Chính giác, nguyện thường trú tại thế, vận chuyển bánh xe Pháp, không nhập Niết Bàn.
Chúng con nguyện khi con đọc Kinh, Niệm Phật, sám hối... các chư vị Phật, Bồ Tát khắp các cõi đều ngự tới nơi đây thuyết pháp cho chúng sinh vô tình lẫn hữu tình. Khiến chúng sinh tiêu trừ nghiệp chướng, phát lồ Quy Y Tam Bảo, phát Bồ Đề Tâm, sớm thành Chánh Giác.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Con đệ tử………………………………………
Chí tâm phát nguyện, nguyện mười phương Tam Bảo, Địa Tạng Từ Tôn, thương xót hộ trì, cứu bạt chẩn tế. Khiến đất nước này, tiêu trừ thiên tai động loạn, chính Pháp lưu thông, khắp cả đều sinh tịnh tín. Không có các chướng ngại, vĩnh viễn đoạn trừ tà ma. Con và chúng sinh, mau chóng diệt trừ trọng tội, hiện đời ra khỏi sầu bi khổ não, cuộc sống sung túc. Tam tụ giới căn, rốt ráo thanh tịnh. Hai loại quán đạo, ưng niệm hiện tiền, tam muội tổng trì, thần thông phương tiện, tứ nhiếp lục độ, tất cả đều viên thành. Liễu ngộ tự tâm, cảnh giới chân thật, xả thân vào thế giới khác, sinh tại Phật tiền, đối diện Phật Đà, thị giả chư Phật, được Phật thọ ký. Trở lại trần lao, phổ độ quần mê, đồng quy mật tạng.
Phát nguyện xong, quy mạng lễ Tam Bảo! ( 1 lễ)
HỒI HƯỚNG
Đệ tử con: .......................................................
Con nguyện hồi hướng công đức tu tập đến đạo Vô Thượng Chánh đẳng Chánh Giác, cầu an tới Bố Mẹ con ở kiếp này và nhiều đời nhiều kiếp, dòng tộc đời này và nhiều đời kiếp. Oan gia trái chủ và tất cả chúng sinh khắp pháp giới.
Con nguyện hồi hướng công đức tu tập cầu siêu đến: ................. (tên người đã mất, hoặc dòng họ)
Bố mẹ nhiều đời nhiều kiếp, cửu huyền thất tổ, oan gia trái chủ, tất cả chúng sinh trong Pháp giới còn ở trong các đường ác con đều hồi hướng đền tất thảy.
TAM TỰ QUY
Chúng con nguyện;
Tự Quy Y Phật, Đương nguyện chúng sinh,Thể giải đại đạo, Phát vô thượng tâm. (1 lễ)
Chúng con nguyện;
Tự quy y Pháp, Đương nguyện chúng sinh,Thâm nhập Kinh Tạng,Trí tuệ như Hải. (1 lễ)
Chúng con nguyện;
Tự quy y Tăng, Đương nguyện chúng sinh,Thống lý đại chúng, Nhất thiết vô ngại. Hòa Nam Thánh Chúng. (1 lễ)
KỆ HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ.
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ ba đường.
Nếu có ai thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ Đề.
Hết một báo thân này,
Đồng sinh Cực Lạc Quốc.
ĐÔI LỜI TRI ÂN TỚI DỊCH GIẢ
Khi nhắc đến Kinh điển, đặc biệt là Kinh điển Đại Thừa, không thể nhắc tới ân đức của dịch giải, Cố Hoà Thượng-Đại đức Thích Trí Tịnh.
Đại lão Hoà thượng Thích Trí Tịnh – Đệ nhất Phó Pháp chủ, Chủ tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam – sinh năm 1917, là một bậc Tòng Lâm thạch trụ, đã phiên dịch nhiều bộ kinh lớn, phiên dịch toàn bộ Đại Tạng Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa vốn là dựa vào bản Kinh Diệu Pháp Liên Hoa bằng tiếng Sankrit của Cưu Ma La Thập, khiến cho giáo nghĩa Đại thừa được lưu thông, Phật pháp được lưu truyền trong tứ chúng. Hoà thượng tinh thông cả thiền giáo, là tấm gương sáng, bậc chân tu sáng ngời đạo hạnh trong lòng Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, là bậc thầy mẫu mực của Tịnh tông để các liên hữu cùng noi bước. Ngài cũng nổi tiếng qua việc truyền bá và phát triển pháp môn Tịnh Độ tại Việt Nam và được hàng tín đồ tôn xưng là Sơ tổ của Tông Tịnh Độ Việt Nam. Ngài là thầy của nhiều chư tôn đức như: trưởng lão Thích Từ Thông, trưởng lão Thích Viên Giác, trưởng lão Thích Tắc An, trưởng lão Thích Huyền Vi, trưởng lão Thích Hoàn Quan, trưởng lão Thích Thanh Từ, trưởng lão Thích Nhất Hạnh… hoà thượng Thích Trí Minh, hòa thượng Thích Minh Cảnh, hòa thượng Thích Trí Quảng...
TÂM NGUYỆN CỦA DỊCH GIẢ
Trích Phụ lục Kinh Đại Bửu Tích
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có tụng, có nghe thấy những quyển sách do tôi dịch và mãi những đời sau. Cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng nhau dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại vài dòng này, chính tôi, phải chính tôi, không dám ngửng mặt tự xưng là Tỳ kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT
Chùa Vạn Đức
Ngày Trùng Cửu, năm Kỷ Tỵ.
08-10-1989
--------------------------------------------------------------
LỜI CẢM ƠN CỦA BAN BIÊN TẬP
Chúng tôi cảm ân độc giả đồng tu đã tinh tấn tu tập, tìm hiểu đạo Pháp.
Nguyện tất cả chúng ta nghiệp chướng tiêu trừ, thánh tánh chân như của mình, đồng thành Phật đạo.
Cảm ơn nhóm dịch giải Vạn Phật Khánh Thành đã việt nghĩa các cụm từ hán ngữ ở Kinh Địa Tạng để bạn đọc có thể dễ hiểu Kinh hơn. Giúp độc giả thâm nhập bí tạng của chư Như Lai.
Cảm ơn tác giả bộ ảnh truyện tranh Kinh Địa Tạng, đã dành cả cuộc đời mình hoằng dương chánh Pháp qua các bộ ảnh bằng truyện tranh.
Link face book của tác giả bộ tranh: errycomic -tại đây
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Nguyện đem công đức này hồi hướng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác và toàn thể chúng sinh khắp Pháp giới.
|TRANG CHỦ|ĐẠO PHẠT ONLINE-TAM TẠNG KINH ĐIỂN|VẬT PHẨM PHẬT GIÁO|
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
------- Cảm ơn quý độc giả, chúc an lành-------
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện,dịch giả Thích Trí Tịnh,Bồ Tát Địa Tạng,Cung trời Đao Lợi,Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,Như Lai,Địa Tạng Bồ Tát,Phật,Thế Tôn,Đức Như Lai
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN - QUYỂN HẠ (Phẩm thứ mười một)
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN - QUYỂN TRUNG (Phẩm thứ tám)
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN - QUYỂN TRUNG (Phẩm thứ chín)
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN - QUYỂN HẠ (Phẩm thứ mười)
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN - TRI ÂN DỊCH GIẢ THÍCH TRÍ TỊNH
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN - QUYỂN HẠ (Phẩm thứ mười ba)
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Chín - Chín Pháp - Phẩm Tám - Phẩm Chánh Cần
Phật Thuyết Kinh Thắng Tràng Tý ấn đà La Ni
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ca Lê
Phật Thuyết Kinh Nhất Thiết Như Lai Kim Cương Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật đại Giáo Vương - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Hiền Ngu - Phẩm Ba - Phẩm Hai Vị Phạm Chí Thọ Trai Giới
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Bất Lạc - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Một - Phẩm Một Kệ - Phẩm Sáu