Phật Thuyết Kinh đại Tát Già Ni Kiền Tử Sở Thuyết - Phẩm Tám - Phẩm Công đức Không Lỗi Lầm Của Như Lai - Tập Tám
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI TÁT GIÀ NI
KIỀN TỬ SỞ THUYẾT
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM TÁM
PHẨM CÔNG ĐỨC
KHÔNG LỖI LẦM CỦA NHƯ LAI
TẬP TÁM
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm đã hoàn toàn thành tựu năm lực như thế, cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Nhà Vua hỏi: Thưa Đại Sư! Thế nào là tướng bảy giác phần của Sa Môn Cù Đàm?
Đáp: Đại Vương! Bảy giác phần của Sa Môn Cù Đàm là: Niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỷ giác phần, ỷ giác phần, định giác phần và xả giác phần.
Đại Vương nên biết! Niệm giác phần của Sa Môn Cù Đàm là khả năng quán các pháp, có khả năng phân biệt các pháp và cũng có khả năng quán sát tự tướng các pháp.
Thế nào là tự tướng?
Quán các pháp tự tánh vốn không. Niệm biết tường tận tất cả như thế, gọi là niệm giác phần.
Nếu có khả năng phân biệt hiểu rõ tám vạn bốn ngàn pháp tụ pháp môn. Hiểu được pháp như thế, hiểu nghĩa là hiểu nghĩa, không hiểu nghĩa là không hiểu nghĩa, thế đế là thế đế, đệ nhất nghĩa đế là đệ nhất nghĩa đế, giả danh là giả danh, hiểu chính chắn không nghi. Phân biệt chọn lựa được những pháp như thế, đó gọi là trạch pháp giác phần.
Nếu niệm pháp, trạch pháp, hỷ pháp, ỷ pháp, định pháp và xả pháp thì dùng trí tuệ gom lấy, tinh tấn dũng mãnh. Muốn không thoái chuyển nên siêng năng tu tiến lên, không xả bỏ ý mình, thực hành chánh đạo, đó gọi là tinh tấn giác phần.
Đối với việc tu hành ở trong pháp vô lượng thanh tịnh thắng lạc, tâm sinh phấn chấn không lười biếng, thì là vui mừng hớn hở, có khả năng dứt trừ phiền não, đó gọi là hỷ giác phần.
Nếu diệt trừ các phiền não cấu uế trong thân tâm thì lìa khỏi các triền cái, nhập vào cảnh giới định, khiến tâm trụ vững, đó gọi là ỷ giác phần.
Như chỗ nhập định đều có thể liễu giác. Hễ nhập định là hiểu rõ pháp, lại hiểu rõ sự trói buộc của các kiến hoặc phiền não, tâm ấy bình đẳng, tất cả các pháp không có tướng sai khác. Có khả năng biết rõ như thế, đó gọi là định giác phần.
Nếu đối với pháp vui, buồn mà tâm ấy không mất, lại cũng không bị pháp thế gian lôi kéo, không cao, không thấp, trụ vững không lay động, không có các lậu, không vui, không đắm, không có các sự chướng ngại, tùy thuận chân đế, thẳng đến chánh đạo, đó gọi là xả giác phần.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm đã hoàn toàn thành tựu bảy giác phần như thế, cho nên ta nói Ngài không có lỗi lầm.
Nhà Vua hỏi: Thưa Đại Sư!
Thế nào là tám phần Thánh đạo của Như Lai?
Đáp: Đại Vương! Tám phần Thánh đạo của Như Lai là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Đại Vương nên biết! Chánh kiến của Sa Môn Cù Đàm là nếu thấy xuất thế là không khởi ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, dưỡng dục, đàn ông, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến. Lại cũng không khởi cái thấy thiện, bất thiện và vô úy. Cho đến không khởi lên thấy hai tướng Niết Bàn và sinh tử, đó gọi là chánh kiến.
Nếu các phiền não tham dục, sân hận, ngu si kia thường sinh khởi thì gọi là bất chánh. Không sinh khởi việc ấy, chỉ suy nghĩ về giới, định, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Có khả năng suy nghĩ, trụ trong giới uẩn như thế, gọi là chánh tư duy.
Phàm khi nói năng không làm cho chính mình và người khác buồn phiền, tổn thương. Thành tựu lời nói tốt đẹp như thế, sinh khởi chánh đạo, đó gọi là chánh ngữ.
Nếu nghiệp đen thì có quả báo đen. Nghiệp trắng thì có quả báo trắng. Hoặc nghiệp vừa đen vừa trắng thì cũng có quả báo vừa đen vừa trắng, rốt cuộc không dám làm. Nếu nghiệp không đen, không trang thì quả báo không đen không trắng. Nếu hành động nào có khả năng dứt nghiệp thì hành động đó nên làm, đó gọi là chánh nghiệp.
Tu hành theo Thánh chủng, Đầu đà, oai nghi, không vọng động, không thay đổi, không dối gat quanh co, không bị chi phối bởi lợi dưỡng của thế gian. Thấy người khác được lợi dưỡng tâm không sinh buồn bã, mình được lợi dưỡng thường nên biết đủ. Hạnh chân chánh như thế sẽ được Thánh Nhân khen ngợi, đó gọi là chánh mạng.
Nếu như tinh tấn hướng đến điều sai trái, không được Bậc Thánh khen ngợi. Vì đó là phiền não, tham dục, sân hận và ngu si. Là người có chánh tinh tấn thì hoàn toàn không làm việc ấy. Nếu pháp nào có thể đi vào Thánh đạo vững chắc, tịch diệt Niết Bàn, đó gọi là chánh tinh tấn.
Nếu không đánh mất chánh niệm, ở trong pháp không bị dao động, ngay thẳng không quanh co, vì thấy họa sinh tử nên cầu tiến đến Niết Bàn. Buộc tâm không quên, khong mất chánh đạo, đó gọi là chánh niệm.
Nếu định không tán loạn, khi trụ ở trong các pháp là định, thành tựu quyết định, đó gọi là chánh định.
Đại Vương nên biết! Trụ chính là tam muội, vì tất cả chúng sinh đạt được giải thoát, thành chánh quyết định, đó gọi là chánh định. Tám Thánh đạo này chính là chỗ thực hành của Chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, cho nên gọi là Thánh đạo.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm thành tựu đầy đủ ba mươi bảy pháp trợ bồ đề. Sa Môn Cù Đàm nương vào pháp này nên gọi là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Rồi nói bài kệ rằng:
Cù Đàm bốn niệm xứ
Và đến bốn chánh cần
Thiền định các tam muội
Được tự tại trong ấy,
Chỉ Cù Đàm hoàn hảo
Lại không người thứ hai
Cho nên nói Cù Đàm
Không có các lỗi lầm.
Đạo như ý Cù Đàm
Tối thắng không gì hơn
Tu tập bốn vô ngại
Đầy đủ đến bờ kia.
Đại Thánh hay hiểu rõ
Vượt khỏi mọi sai biệt
Cho nên biết như thật
Làm thanh tịnh chúng sinh,
Phạm hạnh được tự tại
Từ, bi và hỷ, xả
Được chánh kiến tịch tĩnh
Cho nên không lỗi lầm.
Nước tám Thánh chánh đạo
Trong sạch không đục nhơ
Rửa các tội chúng sinh
Mặc y báu bảy giác,
Đem đặt chỗ không động
Chỗ vô úy Niết Bàn
Cho nên nói Cù Đàm
Không có các lỗi lầm.
Cù Đàm như trâu chúa
Riêng vượt hẳn quần chúng
Thánh chúng đều kính ngưỡng
Thế gian không ai bằng,
Lìa hết mọi điều ác
Đầy đủ các công đức
Thường nghĩ lợi thế gian
Cho nên không lỗi lầm.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm rốt ráo thành tựu mười thứ trí lực.
Nhà Vua hỏi: Thưa Đại Sư! Thế nào là mười thứ trí lực của Như Lai?
Đáp: Đại Vương!
Mười trí lực của Như Lai là: Biết xứ chẳng phải xứ trí lực. Biết tập nghiệp trí lực. Biết tánh trí lực. Biết tín trí lực. Biết căn trí lực. Biết chí xứ đạo trí lực. Biết định trí lực. Biết Túc mạng trí lực. Biết Thiên nhãn trí lực. Biết Lậu tận trí lực.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm biết xứ chẳng phải xứ lực tức là, trí đối với nhân quả quyết định hiểu rõ. Biết từ nhân này có thể sinh là quả kia, không sinh quả khác. Biết hành bất thiện nhất định bị quả báo khổ, không sinh quả báo vui, tu hành nhân thiện nhất định được quả vui, không sinh quả báo khổ. Thị xứ là có quả báo, phi xứ là không có quả báo, đó gọi là biết rõ về trí lực thị xứ, phi xứ.
Đại Vương! Sa Môn Cù Đàm biết tập nghiệp trí lực tức là có khả năng biết đúng như thật quả báo của các nghiệp hành động trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Biết chỗ, biết việc, biết nhân, biết quả, hoặc là việc quá khứ đoạn diệt không còn.
Sa Môn Cù Đàm nói ở quá khứ tuy không hiện tướng, nhưng nghiệp đó có thể đưa đến quả báo trong đời vị lai. Nếu có tác nghiệp là nhân Thanh Văn, nhân Bích Chi Phật, nhân Bồ Tát, nhân Như Lai. Sa Môn Cù Đàm đều có khả năng biết rõ, cho nên gọi là biết tập nghiệp trí lực.
Sa Môn Cù Đàm biết Dục trí lực là có khả năng biết đúng như thật về tất cả những thứ dục lạc của chúng sinh. Biết rõ chúng sinh vui trong năm dục, biết rõ chúng sinh vui trong đường tu tập, biết rõ chúng sinh ở trong định tà tụ, biết rõ chúng sinh ở trong các bất định tụ, biết rõ chúng sinh thích đạo Thanh Văn, biết rõ chúng sinh thích đạo Bích Chi Phật, biết rõ chúng sinh thích đạo vô thượng. Biết như vậy rồi, tùy nghi để thuyết pháp, giáo hóa khắp tất cả chúng sinh, đó gọi là biết dục trí lực.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm biết Tánh trí lực là có khả năng biết đúng như thật vô lượng chủng tánh của tất cả chúng sinh. Có chủng tánh vô lậu. Có chủng tánh hữu lậu, chủng tánh thế gian và chủng tánh xuất thế gian. Tánh thường và tánh vô thường. Tánh pháp giới, tánh không sai biệt.
Lại biết sở thích của chúng sinh thành thói quen khó cải đổi từ tánh sinh dục, biết chỗ ưa thích ấy phát khởi từ tánh dục, và biết chỗ phat khởi tánh thiện và bất thiện, khởi tánh Thanh Văn, tánh Bích Chi Phật và tánh vô thượng bồ đề đều biết đúng như thật, tùy nghi để thuyết pháp, đó gọi là biết tánh trí lực.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm biết căn trí lực là có khả năng biết rõ đúng như thật những căn sai biệt của tất cả chúng sinh. Biết căn hữu lậu, căn vô lậu, căn lanh lợi, căn chậm lụt, biết tăng, biết giảm. Có khả năng biết đúng như thật về tham dục, sân hận, ngu si có vô số loại. Mỗi thứ có nặng, có nhẹ.
Biết rõ những căn nào có thể làm tăng trưởng sinh tử. Biết có những căn nào làm giảm bớt sinh tử, biết căn thiện và căn bất thiện, biết căn phi thiện và phi bất thiện. Biết nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn. Biết nam căn, nữ căn, mạng căn, khổ căn, lạc căn, ưu căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn. Biết tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
Biết vị tri dục tri căn. Biết tri dĩ tri căn. Biết nhân nhãn căn cho đến nhân ý căn. Biết nhân nhĩ căn làm duyên nhãn căn, biết nhân tỷ căn làm duyên thiệt căn. Biết nhân thiệt căn là duyên thân căn, biết giới trang nghiêm có thể tu tập ở bố thí.
Biết bố thí trang nghiêm tu tập ở giới. Có thể biết ai nói thí, nói giới, cho đến trí tuệ cũng như vậy. Có khả năng biết ai nói bốn niệm xứ, cho đến tám chánh đạo phần. Biết ai có thể nói được Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Vô thượng thừa.
Biết căn Duyên Giác học Thanh Văn thừa. Biết căn Chánh Giác học Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa. Biết người hạ căn có thể tu tập thượng căn, người thượng căn có thể tu tập hạ căn. Biết căn chúng sinh người chưa điều phục được thì sinh tâm xả, người có thể điều phục thì thuyết pháp chánh pháp. Biết căn thuần thục, tướng không thuần thục.
Biết căn không thuần thục, tướng thuần thục. Biết căn không thuần thục tướng không thuần thục, căn thuần thục có tướng thuần thục. Biết căn sinh tử, biết căn giải thoát. Biết căn trang nghiêm, biết căn đầy đủ. Biết như thế rồi, thuyết pháp cho họ, đó gọi là biết căn trí lực.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm biết chí xứ đạo trí lực tức là có khả năng biết đúng như thật người thực hành đạo như thế nào thì đọa ở địa ngục, hay là sinh lên Cõi Trời. Người thực hành đạo như thế nào thì được đạt đến Niết Bàn. Những nghiệp như vậy đều phát sinh từ tánh căn dục.
Biết có nghiệp hữu lậu cho nên sinh ở năm đường, nghiệp vô lậu nên đạt đến Niết Bàn. Như vậy, có khả năng biết các chánh định tụ, các tà định tụ và những bất định tụ. Biết năng lực của nhân, năng lực quả báo. Biết nhân duyên phước đức đời quá khứ. Biết nhân duyên trang nghiêm đời hiện tại, biết khó điều phục, dễ điều phục, nói lược hiểu rộng, nói rộng hiểu lược.
Biết chúng sinh ấy có thể đạt giải thoát, biết chúng sinh như thể không đạt được giải thoát. Biết người chưa được định lại gặp thiện tri thức được trụ ở các chánh định tụ, không gặp được bạn tốt thì không giải thoát. Biết như vậy rồi, tùy theo khả năng nghe của họ mà thuyết pháp, đó gọi là biết chí xứ đạo trí lực.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm biết thiền định trí lực, tức là có khả năng biết đúng như thật thiền định, giải thoát tam muội, Tam ma bạt đề. Biết cấu, biết tịnh, biết trụ, biết tăng. Biết các chúng sinh do nhân duyên nào mà ham thích sinh tử, do nhân duyên nào lại ham thích Niết Bàn.
Thế nào là nhân?
Thế nào là duyên?
Biết các chúng sinh suy nghĩ điều bất thiện là nhân duyên sinh tử. Do suy nghĩ bất thiện nên sinh trưởng vô minh, vì thế bất thiện là nhân, vô minh là duyên. Do nhân vô minh nên phát sinh ra hành, cho nên vô minh là nhan, các hành là duyên. Như vậy, cho đến do sinh mà có những đau khổ về già và chết, cho nên sinh là nhân, già chết là duyên. Phiền não là nhân, năm cái là duyên, cho nên gọi là nhân duyên. Vì thế, các chúng sinh do nhân duyên ham thích sinh tử.
Do nhân duyên gì mà ham thích Niết Bàn?
Có hai nguyên nhân và hai pháp làm cho các chúng sinh ưa thích Niết Bàn, đó là chỉ và quán. Lại biết thuyết pháp nhân duyên, đắc Thanh Văn tam muội, Duyên Giác tam muội, Bồ Tát tam muội. Biết như thế rồi, thuyết pháp cho họ, đó gọi là biết định trí lực.
Đại Vương nên biết! Sa Môn Cù Đàm biết túc mạng trí lực, tức là có khả năng biết đúng như thật tất cả mọi nơi mình đã thọ sinh trong quá khứ, có sắc, không sắc, dòng họ, tên, ăn uống, sắc đẹp, hình tướng, khổ, vui và tuổi thọ dài ngắn. Nghĩ nhớ chết nơi cõi kia và sinh ở nơi cõi khác.
Biết thân ta và thân người cũng như vậy. Biết nghiệp nhân của chúng sinh do các chúng sinh ấy tạo những nghiệp nhân này nên được thân ở cõi khác. Biết tâm và nhân duyên của các chúng sinh, tâm diệt như thế rồi thì tuần tự sinh.
Biết rõ ba đời không có bắt đầu và cuối cung. Khuyên các chúng sinh nên quán các quả báo thiện ác, khổ vui ttong quá khứ. Biết như thế rồi, tùy theo người nghe mà thuyết pháp, đó gọi là biết túc mạng trí lực.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tam Mạn đà Bạt đà La Bồ Tát - Phẩm Một - Phẩm Năm Sự Che Lấp
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Sáu - phẩm Mười Năm - Phẩm Nhị Hạnh
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh điều Tương Sĩ
Phật Thuyết Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Công đức Thâm Sâu - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - phẩm Bốn - Phẩm Vãng Sanh
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Hai - Phẩm Hai Kệ - Phẩm Hai
Phật Thuyết Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật đa - Phẩm Bốn - Phẩm Nhị đế