Phật Thuyết Kinh A Di đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật đàn Quá độ Nhân đạo - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Chi Khiêm, Đời Ngô
PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ
TAM DA TAM PHẬT TÁT LÂU PHẬT
ĐÀN QUÁ ĐỘ NHÂN ĐẠO
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Chi Khiêm, Đời Ngô
PHẦN MỘT
Một thời Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật, thành La Duyệt cùng đại chúng Tỳ Kheo một vạn hai ngàn vị.
Họ đều là những vị A La Hán thanh tịnh, như: Hiền Giả Câu Lân, Bạt Trí Chí, Ma Ha Na Di, Hàm Thi, Tu Mãn Nhật, Duy Lai Để, Bất Nãi, Ca Vi Bạt Để, Ưu Vi Ca Diếp, Na Phú Ca Diếp, Na Mạc Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Yết Tân, Ma Ha Cầu Tư, Ma Ha Phạm Đề, Na Đề Văn Đà Phật, A Na Luật, Nan Đề, Bình Tỳ Để, Tu Phong, Mâu Việt, Ma Ha La Nghê, Ma Ha Ba La Diên, Ba Cưu Việt, Nan Trì, Mãn Phong Mâu, Tát Yết, Lệ Việt...
Các thầy Tỳ Kheo như vậy rất đông, đến số ngàn ức vạn người. Tất cả đều là những vị Bồ Tát, A La Hán, đều là những Hiền giả cùng ở trong đại hội, nhiều vô số không thể tính đếm được.
Khi ấy, Đức Phật ngồi chánh niệm, suy tư về đạo, trên khuôn mặt Ngài tỏa ra ánh sáng chín màu và từ đó tỏa ra trăm ngàn ánh sáng lớn rực rỡ vô cùng.
Hiền giả A Nan sửa y phục tề chỉnh, đến trước Phật quỳ xuống, chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Ngài rồi thưa: Tại sao hôm nay trên mặt Ngài tỏa hào quang, lại luôn luôn biến đổi ánh sáng như vậy.
Và ánh sáng ấy có đến trăm ngàn màu rực rỡ tỏa chiếu muôn nơi?
Từ khi làm thị giả Phật đến nay, con chưa từng thấy sắc diện Ngài có sự chiếu sáng như hôm nay bao giờ. Con chưa từng thấy oai thần ánh sáng của bậc Chánh Đẳng Giác đến như vậy. Phải chăng Ngài có ý chi đặc biệt, con xin muốn nghe điều đó.
Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan: Có những Trời thần nào bảo thầy, hay Chư Phật dạy thầy hỏi ta chăng?
Hay là từ nơi thiện ý của thầy phát ra câu hỏi như vậy?
Hiền Giả A Nan bạch Phật: Không có Trời thần nào bảo con, cũng không có Chư Phật dạy con thưa hỏi như vậy mà từ nơi thiện tâm của con biết ý Ngài nên mới thưa như vậy.
Mỗi sự đi đứng nằm ngồi ra vào, hay nơi Ngài muốn đến, hay việc sẽ làm và những điều Ngài dạy bảo con, con đều hiểu ý Phật ngay. Nay Phật đang riêng nghĩ đến Chư Phật thời quá khứ, Chư Phật trong tương lai, hay Cõi Phật phương khác và Chư Phật ngay trong hiện tại. Một mình Ngài lần lượt nghĩ nhớ cho nên sắc diện Ngài tỏa sáng rực rỡ như vậy.
Đức Phật dạy: Lành thay! Lành thay, Hiền Giả A Nan! Thầy đã hỏi điều rất sâu xa, mang lại nhiều sự cứu độ và an vui cho mọi loài. Người mà hỏi Phật như vậy thật là vượt bậc hơn gấp bội sự cúng dường cả thiên hạ A La Hán, Bích Chi Phật hay bố thí cho Chư Thiên, loài người và những loài động vật lớn nhỏ trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp.
Này A Nan! Nay thầy đã mở cửa giải thoát cho hàng Chư Thiên, Vua Chúa, nhân dân và vạn loại côn trùng. Oai thần của Chư Phật vô cùng sâu nặng, khó mà tiếp nhận nổi.
Những điều thầy hỏi rất sâu xa, phát xuất từ nơi tâm từ của Phật thương tưởng Chư Thiên, Vua Chúa, nhân dân. Những vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nào mà có nhiều thiện nghiệp, tiếp nhận được đều sẽ được hóa độ.
Này A Nan! Như ở thế gian có cây Ưu Đàm, có quả mà không có hoa. Trong thiên hạ có Phật, chính là có hoa Ưu Đàm nở.
Có Phật ở thế gian rất khó được gặp thay! Nay ta làm Phật xuất hiện nơi thế gian, chỉ có Đại Đức thánh minh tâm thiện mới biết dự đoán được ý Phật và không quên hầu hạ bên cạnh Ngài.
Đức Phật bảo A Nan: Có một sự kiện từ quá khứ xa xôi, từ vô số kiếp đã qua, kiếp ấy nhiều vô lượng không thể tính đếm được. Lúc bấy giờ có Đức Phật quá khứ hiệu là Đề Hòa Yết La, kế đến có Phật Hiệu Chiên Đà Kỳ.
Thời quá khứ có Phật Tu Ma Phu Kiếp Ba Tát Đa, lại có Phật Hiệu Duy Mạc Lâu, A Nan Na Lợi, Na Yết Tỳ, Lê Câu Giá Ba La Dạ Thái, Di Ly Câu Lâu, Bạt Đà Ni, Thất Đề Ba, Phàm Phu Để, Đọa Lâu Lặc Da, Chiên Đà Nan Tư, Tu Da Duy Vu Sa, Câu Hoàn Di Bát Ma Xa.
Thi Lợi Cốt Chi, Ma Ha Na Đề, Kỳ Đầu Ma Đề, La Lân Kỳ Ly, Du Lâu Câu Lộ Thái, Mãn Hô Quần Ni Bát Tân Đầu, Chiên Đà Thâu Du Bạt Hòa Sa, Chiên Đà Thái Câu Lôn, Thẩm Ba Mâu Tần Ni.
Bạt Ba Hòa Tư, A Thuật Kỳ Đà Yết Mâu, Vật Chử Đề, Chất Dạ Thái, Đàm Ma Hòa Đề, Tiết Da Duy Cố Chất, Lâu Da Đới, Tăng Ca La Di Lâu Ca Đới, Đàm Vị Ma Đề A Duy Nan Đề.
Đức Phật bảo A Nan: Kế tiếp có Phật Hiệu Lâu Di Thuyên La, giáo hóa ở thế gian đến bốn mươi hai kiếp. Lúc bấy giờ có vị đại Quốc Vương nghe Kinh Đạo Phật dạy, tâm trí được tỏ ngộ nên rất hoan hỷ, liền bỏ ngôi Vua, xuất gia làm Sa Môn, tên Đàm Ma Ca, thực hành Đạo Bồ Tát. Ông là người tài cao, trí tuệ dõng mãnh, là bậc trác tuyệt trong thế gian.
Vị Sa Môn đó đi đến chỗ Phật Lâu Di Thuyên La cung kính đảnh lễ và quỳ gối chắp tay thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Con muốn xin Phật thực hành Đạo Bồ Tát, làm cho con sau khi thành Phật được ở trong vô số Chư Phật khắp mười phương, có trí tuệ dõng mãnh, tối thắng, trên đầu có hào quang như Phật và hào quang ấy tỏa chiếu đến vô cùng vô tận.
Cõi nước con ở tự nhiên có bảy báu rất tốt đẹp, làm cho con sau khi thành Phật, giáo pháp và danh hiệu vang khắp vô số cõi nước khắp mười phương, không nơi nào mà không nghe biết danh hiệu của con.
Vô số Trời người cho đến vạn loại côn trùng nào mà sanh đến nước con, con đều làm cho họ trở thành những vị Bồ Tát, A La Hán thù thắng hơn các cõi nước khác.
Những ước nguyện của con như thế có thể đạt được chăng?
Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan: Phật Lâu Di Thuyên La biết rõ những điều mong ước toàn thiện và cao cả của Bồ Tát Đàm Ma Ca, nên Ngài dạy Bồ Tát ấy rằng: Ví như có người đong lường nước biển cả mênh mông trong Trời Đất, suốt một kiếp không ngừng thì vẫn có thể làm cho nước biển cả khô cạn đến tận đáy bùn.
Người chí tâm cầu đạo thiết tha như thế, lẽ nào không đắc đạo chăng?
Người tinh tấn truy cầu không ngưng nghỉ, cuối cùng sẽ được tùy tâm mãn nguyện cũng như vậy. Bồ Tát Đàm Ma Ca nghe Phật Lâu Di Thuyên La nói Kinh này xong, vô cùng hoan hỷ phấn chấn.
Đức Phật ấy đã tuyển chọn những ước muốn nội tâm, những sự tốt xấu nơi đất nước, những điều thiện ác của Chư Thiên hay loài người trong hai trăm mười ức cõi nước để thuyết giảng.
Khi Phật giảng vừa xong, Bồ Tát Đàm Ma Ca nhất tâm chánh niệm, liền được thiên nhãn thấy suốt khắp cả. Bồ Tát tự thấy sự tốt xấu nơi cõi nước, những điều thiện ác của Chư Thiên hay loài người và đúc kết những sở nguyện nội tâm của họ trong hai trăm linh một ức cõi nước để cô đọng thành Kinh hai mươi bốn lời nguyện này.
Bồ Tát thực hành theo lời nguyện, tinh tấn dõng mãnh, ân cần khổ nhọc tìm cầu trong vô số kiếp như vậy và cúng dường hầu hạ Tôn Sư là các Đức Phật thời quá khứ cùng trải qua vô số kiếp.
Sau đó, Bồ Tát Đàm Ma Ca được thành Phật Hiệu A Di Đà, có trí tuệ dõng mãnh tối thượng và hào quang rực rỡ không gì sánh được.
Hiện Đức Phật đang ở nơi cõi nước vô cùng tốt đẹp, giáo hóa cho vô số Chư Thiên, loài người, cho đến vạn loại côn trùng khắp mười phương, làm cho tất cả vượt khỏi lo buồn đau khổ và được giải thoát an vui.
Đức Phật bảo A Nan: Khi Phật A Di Đà còn là vị Bồ Tát thường phụng hành hai mươi bốn lời nguyện này, quý trọng còn hơn là châu báu, cẩn thận cung kính bảo trì, tinh tấn chánh niệm theo hạnh nguyện, thật là siêu tuyệt, cao vời, không một ai sánh kịp.
Đức Phật dạy: Hai mươi bốn nguyện ấy là:
NGUYỆN THỨ NHẤT
Nếu khi ta thành Phật, làm cho trong nước của ta không có địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ và những loại côn trùng nhỏ nhiệm. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ HAI
Nếu khi ta thành Phật, làm cho trong nước của ta không có đàn bà, con gái. Người nào sắp sanh vào nước ta, liền trở thành người nam.
Vô số Chư Thiên, loài người hay những loài côn trùng nhỏ nhít sanh đến nước ta đều hóa sanh từ hoa sen trong ao bảy báu, có thân hình cao lớn và vô số đều là Bồ Tát, A La Hán. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ BA
Nếu khi ta thành Phật, làm cho mặt đất trong nước của ta tự nhiên bằng bảy báu, khoáng đãng, rộng lớn, mênh mông và vô cùng tốt đẹp, mịn màng. Nhà cửa, nơi chốn, y phục, thực phẩm hoàn toàn tự nhiên mà có, giống như chỗ cư ngụ của Vua Trời thứ sáu. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ BỐN
Nếu khi ta thành Phật, làm cho danh hiệu của ta vang khắp mười phương nơi vô số cõi nước và làm cho các thầy Tỳ Kheo lớn ở trú xứ của các Đức Phật đều nói lên công đức cùng những sự tốt đẹp của cõi nước ta.
Chư Thiên và loài người hay những loại côn trùng, tất cả mà được nghe danh hiệu của ta đều được sanh tâm từ, hoan hỷ phấn chấn, làm cho họ sanh vào cõi nước ta. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ NĂM
Nếu khi ta thành Phật, làm cho vô số Trời người và những loài côn trùng nhỏ nhít khắp mười phương, nếu như đời trước đã làm việc ác mà được nghe tên ta và muốn sanh vào cõi nước của ta, liền tự hối lỗi, trở lại con đường chân chánh, học đạo, thực hành điều thiện, giữ gìn giới Kinh, ước nguyện sanh sang nước ta không gián đoạn.
Đến lúc họ qua đời, khiến cho họ không bị rơi vào địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ. Ngay khi ấy được sanh vào nước ta, được tùy tâm mãn nguyện. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ SÁU
Nếu khi ta thành Phật, làm cho Trời người hay thiện nam, thiện nữ nơi vô số cõi nước khắp mười phương muốn sanh vào nước ta, vì ta nên họ càng làm nhiều việc thiện, hoặc bố thí, xông hương, nhiễu Tháp, thắp đèn, rải hoa, treo tràng phan, cúng dường Sa Môn, làm Chùa, xây Tháp, đoạn tận ái dục, sanh sang nước ta làm Bồ Tát. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ BẢY
Nếu khi ta thành Phật, làm cho Chư Thiên, nhân dân nơi vô số cõi nước khắp mười phương, hoặc có người thiện nam, thiện nữ nào làm Đạo Bồ Tát, phụng hành sáu Ba la mật, hoặc làm Sa Môn không phá hủy Kinh giới, Trai giới thanh tịnh, đoạn trừ ái dục, nhất tâm chánh niệm, muốn sanh vào nước của ta ngày đêm không gián đoạn.
Đến khi người ấy sắp qua đời, ta và các vị Bồ Tát, A La Hán cùng bay đến nghênh đón người ấy. Họ sanh ngay vào nước của ta làm Bồ Tát Bất Thối Chuyển, có trí tuệ dõng mãnh. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ TÁM
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát trong nước của ta, ai muốn sanh đến Cõi Phật phương khác, đều làm cho họ không trở lại chốn địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, mà đều làm cho họ đắc thành Phật Đạo. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ CHÍN
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta mặt mũi đoan chánh, đẹp thuần khiết diệu kỳ. Họ có cùng một sắc diện, cùng một giống loại, đều như người ở Cõi Trời thứ sáu. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta đều cùng nhất tâm nhớ nghĩ, ước muốn như nhau. Và họ đoán biết ý người khác muốn nói điều chi. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI MỘT
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta không có lòng dâm dục, không bao giờ có ý nghĩ đến phụ nữ, không bao giờ có kẻ sân hận, ngu si. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI HAI
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta không bao giờ có tâm oán ghét nhau. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI BA
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta muốn cùng nhau cúng dường vô số Chư Phật khắp mười phương, tức thì tất cả những vật dụng họ cần sẽ tự nhiên bay đến ngay trước mặt.
Họ đem những vật dụng đó đến cúng dường Chư Phật. Sau khi đã cúng dường khắp các Đức Phật rồi, đến gần trưa họ bay trở về nước ta. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI BỐN
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta khi muốn thọ trai, tức thì tự nhiên trong bát bảy báu có trăm vị thức ăn ngay trước mặt. Thọ trai xong, những bát ấy tự nhiên mất đi. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI NĂM
Nếu khi ta thành Phật, thân thể của các Bồ Tát trong nước của ta toàn màu vàng rực, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp giống như Phật. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI SÁU
Nếu khi ta thành Phật, các Bồ Tát và A La Hán trong nước của ta có âm thanh như ba trăm tiếng chuông đồng. Họ nói Kinh hay hành đạo đều như Phật. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI BẢY
Nếu khi ta thành Phật, ta có thể thấy và nghe xuyên suốt tất cả, bay đi vượt hơn các Đức Phật gấp mười lần. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI TÁM
Nếu khi ta thành Phật, làm cho trí tuệ thuyết Kinh, hành đạo của ta vượt hơn các Đức Phật gấp mười lần. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ MƯỜI CHÍN
Nếu khi ta thành Phật, làm cho Trời người và những loài côn trùng nhỏ nhiệm nơi vô số cõi nước khắp mười phương đều được sanh làm người, được làm Bích Chi Phật và A La Hán, được nhất tâm Tọa Thiền, cùng muốn tính đếm để biết tuổi thọ của ta là bao nhiêu ngàn vạn ức năm, nhưng không ai có thể biết hết được tuổi thọ ấy. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ HAI MƯƠI
Nếu khi ta thành Phật, làm cho Trời người và những loài côn trùng nhỏ nhít trong ngàn ức cõi nước khắp mười phương đều được làm Bích Chi Phật và A La Hán, được nhất tâm Tọa Thiền, cùng muốn tính đếm số Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta có bao nhiêu ngàn vạn ức người, nhưng không ai có thể biết được số người ấy là bao nhiêu. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ HAI MƯƠI MỐT
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta có tuổi thọ đến vô số kiếp. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ HAI MƯƠI HAI
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta đều có trí tuệ dõng mãnh. Họ tự biết vạn ức kiếp đời trước, việc đã làm tự thuở xa xưa, biết việc thiện hay ác, thấy xuyên suốt tất cả không ngăn ngại, biết việc quá khứ, tương lai hay hiện tại khắp mười phương cõi. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ HAI MƯƠI BA
Nếu khi ta thành Phật, làm cho các Bồ Tát, A La Hán trong nước của ta đều có trí tuệ dõng mãnh, có hào quang trên đảnh. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
NGUYỆN THỨ HAI MƯƠI BỐN
Nếu khi ta thành Phật, làm cho trong đảnh của ta có ánh sáng tuyệt đẹp, sáng hơn cả mặt trăng, mặt trời gấp trăm ngàn vạn ức lần, tuyệt diệu hơn ánh sáng của Chư Phật.
Ánh sáng ấy chiếu rực rỡ khắp vô số Trời Đất, từ nơi tăm tối nhất cũng được tràn đầy ánh sáng. Chư Thiên, loài người và những loài côn trùng nhỏ nhít gặp được ánh sáng của ta, không ai mà không phát khởi từ tâm làm việc thiện, khiến cho sanh sang nước ta. Được như lời nguyện, ta mới thành Phật, nếu không, ta không bao giờ thành Phật.
Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan: Khi Phật A Di Đà còn là Bồ Tát, thường hành trì theo hai mươi bốn lời nguyện này. Ngài bố thí, không phạm giới cấm, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.
Chí nguyện thường dõng mãnh, không hủy phạm Kinh Pháp, siêng năng tìm tòi nghiên cứu, sống độc cư, rũ bỏ Vương vị quốc gia, đoạn tuyệt tài sắc, sáng suốt nguyện cầu không kể thân sơ. Tích lũy công đức trong vô số kiếp, cho đến ngày nay đạt thành quả Phật, thành tựu viên mãn vẫn không mất công phu tu tập đã qua.
Đức Phật dạy: Ánh sáng của Phật A Di Đà tối thượng bậc nhất mà ánh sáng của Chư Phật không thể nào sánh kịp.
Vô số Chư Phật trong mười phương.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến hai dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến năm dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến mười dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến hai mươi dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến bốn mươi dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến tám mươi dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến một trăm sáu mươi dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến ba trăm hai mươi dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến sáu trăm bốn mươi dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến một ngàn ba trăm dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến hai ngàn sáu trăm dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến năm ngàn hai trăm dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến một vạn bốn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến hai vạn một ngàn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến bốn vạn hai ngàn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến tám vạn bốn ngàn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến mười bảy vạn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến ba mươi năm vạn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến bảy mươi vạn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến một trăm năm vạn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến ba trăm vạn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến sáu trăm vạn dặm.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến một cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến hai cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến bốn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến tám cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến mười năm cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến ba mươi cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến sáu mươi cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến một trăm hai mươi cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến hai trăm bốn mươi cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến năm trăm cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến một ngàn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến hai ngàn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến bốn ngàn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến tám ngàn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến một vạn sáu ngàn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến ba vạn hai ngàn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến sáu vạn bốn ngàn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến mười ba vạn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến hai mươi sáu vạn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến năm mươi vạn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến một trăm vạn cõi nước.
Có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến hai trăm vạn cõi nước.
Đức Phật dạy: Khắp mười phương có vô số Chư Phật đều có ánh sáng tỏa chiếu ở trên đảnh như vậy. Ánh sáng trên đảnh của Đức Phật A Di Đà tỏa chiếu đến ngàn vạn cõi nước.
Vì sao ánh sáng của các Đức Phật tỏa chiếu có gần có xa?
Bởi vì thuở xưa, khi các Đức Phật ấy còn là Bồ Tát, sở nguyện và công đức của mỗi vị có lớn có nhỏ, nên đến khi thành Phật mỗi vị tự đạt phước báo khác nhau, và vì thế làm cho ánh sáng ấy tỏa chiếu không bằng nhau. Oai thần của các Đức Phật bằng nhau, cho nên các Ngài tự tại hành động theo ý muốn, chứ không có dự tính.
Ánh sáng của Đức Phật A Di Đà tỏa chiếu rộng lớn mênh mông đến tận cùng, mà ánh sáng của các Đức Phật khác đều không thể sánh kịp.
Đức Phật ca ngợi ánh sáng cực kỳ tốt đẹp của Phật A Di Đà: Ánh sáng của Phật A Di Đà vô cùng tốt đẹp, ánh sáng tốt đẹp nhất trong mọi sự tốt đẹp, thật là khả ái không thể so sánh được, vì nó tuyệt diệu vô cùng tận. Ánh sáng của Phật A Di Đà trong suốt, không gợn một vết nhơ hay giảm thiếu.
Ánh sáng của Phật A Di Đà thù thắng hơn cả ánh sáng Mặt Trời, Mặt Trăng gấp trăm ngàn vạn ức lần, là ánh sáng tuyệt diệu nhất trong ánh sáng của các Đức Phật, là tốt đẹp nhất trong các ánh sáng, hùng vĩ nhất trong các ánh sáng, khả ái nhất trong các ánh sáng, là Vua trong các Đức Phật vì nó cao tột nhất trong các ánh sáng, là ánh sáng vô cùng tối thượng trong các ánh sáng.
Ánh sáng của Phật A Di Đà tỏa chiếu khắp vô số cõi nước, kể cả chốn tối tăm cũng đều được rực rỡ sáng soi. Chư Thiên, nhân dân hay loài côn trùng sinh vật, không ai mà không trông thấy ánh sáng của Phật A Di Đà. Những ai trông thấy ánh sáng đó đều phát khởi từ tâm hoan hỷ, không còn ba nghiệp sân hận, dâm dục, ngu si của thế gian.
Những ai được trông thấy ánh sáng của Phật A Di Đà đều sẽ làm việc thiện. Những chúng sanh nào đang bị tra khảo, bị đau khổ đọa đày nơi chốn địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ mà được thấy ánh sáng của Phật A Di Đà chiếu đến thì những hình phạt ấy sẽ đình chỉ ngay và không còn bị tra khảo nữa.
Sau khi chết, những chúng sanh ấy sẽ được giải thoát khỏi sự lo buồn, khổ đau về hình phạt chốn địa ngục trước kia. Ánh sáng của Phật A Di Đà vang khắp mười phương, nơi vô cùng vô tận, vô số các cõi nước, Chư Thiên, loài người, không ai mà không nghe biết. Và đã nghe biết rồi, tất cả đều được độ thoát.
Đức Phật dạy: Không những chỉ riêng ta ca ngợi ánh sáng của Phật A Di Đà, mà vô số Chư Phật, Bích Chi Phật, Bồ Tát, A La Hán ở khắp mười phương cũng đều ca ngợi như vậy.
Đức Phật dạy: Có người dân hay người thiện nam, thiện nữ nào được nghe tiếng ngợi khen về ánh sáng của Phật A Di Đà và từ sáng đến chiều thường ca ngợi ánh sáng tốt đẹp đó, lòng chí thành không gián đoạn, sở nguyện tại tâm, những người ấy sẽ được vãng sanh vào Cõi Phật A Di Đà, được sự tôn kính của những vị Bồ Tát, A La Hán.
Đến khi những người ấy thành Phật cũng sẽ được vô số Chư Phật, Bích Chi Phật, Bồ Tát, A La Hán ngợi khen về ánh sáng như vậy.
Đồng thời các chúng Tỳ Kheo, Bồ Tát, A La Hán, Chư Thiên, Đế Thích, nhân dân rất hân hoan vui mừng khi nghe sự ca ngợi ánh sáng này và không ai mà không ca ngợi theo.
Đức Phật dạy: Ta nói về ánh sáng của Phật A Di Đà thù thắng tốt đẹp, cao vời vợi, luôn luôn ca ngợi sự tốt đẹp ấy trong suốt một kiếp vẫn không thể hết được, nên ta chỉ nói một phần nhỏ về sự tốt đẹp cho các ông nghe mà thôi. Đức Phật nói về Phật A Di Đà khi còn làm Bồ Tát, mong cầu được hai mươi bốn lời nguyện như vậy.
Bấy giờ có thái tử con Vua A Xà Thế cùng năm trăm người con của Trưởng Giả, mỗi người đều mang một lọng hoa bằng vàng, họ đi đến chỗ Đức Thế Tôn, cung kính đảnh lễ dưới chân Phật và mang lọng hoa vàng dâng lên cúng dường Ngài. Sau đó, tất cả đều ngồi qua một bên nghe Kinh.
Thái Tử và năm trăm người con của Trưởng Giả nghe hai mươi bốn lời nguyện của Đức Phật A Di Đà xong, họ vô cùng hoan hỷ, phấn chấn.
Thầm nguyện trong tâm: Xin cho chúng con sau khi thành Phật, được như Đức Phật A Di Đà.
Đức Phật biết rõ ý nguyện của Thái Tử và con của các Trưởng Giả, Ngài bảo các thầy Tỳ Kheo: Thái tử con Vua A Xà Thế và năm trăm người con Trưởng Giả này, vô số kiếp đời sau đều sẽ thành Phật như Phật A Di Đà.
Đức Phật dạy: Thái tử và các người con của Trưởng Giả này từ lúc an trú nơi đạo Bồ Tát đến nay, trải qua vô số kiếp và đã cúng dường bốn trăm ức Đức Phật, nay họ đến đây cúng dường ta.
Bởi vì thái tử và các người con của Trưởng Giả vào Đời trước thời Phật Ca Diếp đã làm đệ tử của ta, nên hôm nay cùng gặp nhau trong hội chúng này.
Các thầy Tỳ Kheo nghe lời Phật dạy, vô cùng vui vẻ hân hoan thay cho Thái Tử và con các Trưởng Giả.
Đức Phật bảo A Nan: Đức A Di Đà làm Phật đến nay trải qua mười tiểu kiếp, cõi nước của Ngài tên Tu Ma Đề, ở ngay phương Tây, cách Cõi Diêm Phù Đề này ngàn vạn ức Cõi Phật Tu Di Sơn.
Mặt đất ở Cõi Phật A Di Đà toàn bằng bảy báu tự nhiên như: Bạch kim, vàng, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ. Bảy thứ báu này hòa lẫn nhau làm thành mặt đất, vô cùng rộng lớn, bát ngát mênh mông vô cùng tận.
Bảy thứ báu đó xen nhau, trộn lẫn với nhau, mỗi thứ báu tự tạo thành ánh sáng lấp lánh xen nhau, đẹp rực rỡ, mịn êm, thật tuyệt diệu, không gì sánh nổi.
Đất bằng bảy báu này là tinh chất của các thứ báu từ khắp mười phương tự nhiên hợp thành, chúng tự hóa sanh như vậy. Đất báu ở Cõi Phật A Di Đà sánh với bảy báu trên cõi Trời thứ sáu.
Cõi Nước của Phật A Di Đà không có núi Tu Di. Trăng, sao, mặt trời, Tứ Thiên Vương ở Cõi Trời thứ nhất, Trời Đao Lợi thứ hai đều ở giữa hư không.
Ở cõi nước này không có biển lớn, cũng không có biển nhỏ, không có nước Sông Hằng, không có núi rừng, suối khe, không có chốn tối tăm.
Đất bảy báu ở Cõi Phật A Di Đà rất bằng phẳng, không có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú và những loài côn trùng nhỏ nhít, không có A Tu La, Rồng, Quỷ Thần. Không bao giờ có Trời mưa, cũng không có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Không có khí hậu quá lạnh hay quá nóng, khí hậu luôn ôn hòa, dễ chịu, rất thoải mái, không gì sánh được.
Có vạn loại vật dụng tự nhiên, nhiều loại thực phẩm ngon, ý muốn khởi lên là tự nhiên có ngay trước mắt, không phải nhọc sức kiếm tìm.
Những vật không dùng nữa, tức thì biến mất. Ví như những vật dụng tự nhiên trên Cõi Trời thứ sáu, tha hồ tùy ý. Trong cõi nước của Phật A Di Đà, tất cả đều là Bồ Tát, A La Hán.
Không có phụ nữ, và tuổi thọ ở đây đến vô số kiếp. Nếu có người nữ thì lúc qua Đời liền hóa làm thân nam và chỉ có vô số những vị Bồ Tát, A La Hán đều là những bậc thấy nghe thông tuệ.
Dù xa xôi bao nhiêu, họ vẫn trông thấy nhau, vẫn gặp nhau, cùng nghe tiếng nói của nhau. Tất cả họ đều cầu đạo thiện, đồng một chủng tộc, không có người khác chủng tộc.
Các Bồ Tát, A La Hán ở cõi này diện mạo khôi ngô tuấn tú, tinh khiết tuyệt hảo, cùng một sắc diện, không có người xấu ác. Các Bồ Tát, A La Hán đều hùng mạnh, tài giỏi, thông minh.
Họ nương vào sự nương tựa tự nhiên, trong tâm chỉ nghĩ đến đạo đức. Nếu muốn nói lời gì, họ đoán biết ý nghĩ của nhau và thường nói ra những việc chính đáng, chỉ nói những lời Kinh đạo.
Họ không bao giờ nói xấu người khác. Âm vang ngôn ngữ của họ như ba trăm tiếng chuông đồng, biết sống kính yêu và không có người nào ganh ghét nhau.
Họ sống có tôn ti trật tự, người trước dạy người sau, dùng nghĩa đúng lễ, biết kính trọng nhau như anh như em, lấy nhân hành nghĩa.
Không hành động, nói năng bừa bãi mà cùng dạy bảo nhau bằng những lời chân thành, không chống báng nhau và cùng nhau tiếp nhận lời hay.
Tâm của các Bồ Tát này rất thanh tịnh, không có tham tiếc. Không bao giờ có tâm sân hận, dâm dục hay trạng thái ngu si. Không có tâm tà mị, ý nghĩ đến phụ nữ.
Có trí tuệ dõng mãnh, tâm hòa hiếu an vui, vui thích Kinh Đạo. Tự nhớ biết ngàn vạn ức kiếp đã qua, từ đâu sanh đến đây. Những việc thiện ác, mất còn đời đã qua và biết tất cả trong đời hiện tại.
Những nơi nào Phật A Di Đà có thể giáo hóa như:
Tinh Xá, giảng đường... thì những nơi ấy tự nhiên thành bảy báu như: Vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, bạch ngọc, hổ phách, xa cừ cùng tự tạo thành sáng chói, trang nghiêm, tốt đẹp không gì sánh được.
Chẳng phải do ai làm ra và cũng không biết từ đâu đến. Không có người giữ lại, cũng chẳng có kẻ mang đi. Công đức bản nguyện của Phật A Di Đà thật là sâu nặng. Những người nói trên nhờ làm thiện cho nên tự nhiên hóa sanh trong hội chúng hay giảng đường của họ những buổi luận Kinh nói nghĩa, thuyết Kinh, hành đạo.
Tinh Xá hay giảng đường của họ đều có lầu gác, lan can. Có vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, bạch ngọc, hổ phách, xa cừ làm chuỗi anh lạc.
Có ngọc trắng, ngọc minh nguyệt, ngọc ma ni để giăng chen nhau, có lọng che phủ phía trên. Chúng tự tạo thành năm âm thanh vô cùng tuyệt diệu, không gì sánh được.
Nhà cửa trú xứ của các Bồ Tát, A La Hán đều do bảy báu như: Vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não hóa sanh hợp thành nhà cửa. Tất cả đều có lầu đài, lan can bằng bảy báu.
Có vàng, bạc, thủy tinh, san hô, bạch ngọc, hổ phách, xa cừ làm chuỗi anh lạc và dùng ngọc trắng, ngọc minh nguyệt, ngọc ma ni để giăng xen nhau, có lọng che phủ bên trên. Tất cả những thứ đó tạo thành năm âm thanh tuyệt diệu.
Tinh Xá, giảng đường của Phật A Di Đà và trú xứ, nhà cửa của các Bồ Tát, A La Hán từ trong đến ngoài, nơi nào cũng có ao hồ, suối chảy tự nhiên và cũng do bảy báu tự nhiên sanh ra. Do vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, hổ phách, xa cừ cùng hợp lại tạo thành.
Có ao thuần bằng vàng thì cát dưới đáy ao bằng bạch ngân.
Có ao thuần bằng bạch ngân thì cát dưới đáy ao bằng vàng ròng.
Có ao thuần bằng thủy tinh thì cát dưới đáy ao là lưu ly.
Có ao thuần bằng lưu ly thì cát dưới đáy ao là thủy tinh.
Có ao thuần bằng san hô thì cát dưới đáy ao bằng hổ phách.
Có ao thuần bằng hổ phách thì cát dưới đáy ao bằng san hô.
Có ao thuần bằng xa cừ thì cát dưới đáy ao là lưu ly.
Có ao thuần bằng mã não thì cát dưới đáy ao bằng xa cừ.
Có ao thuần bằng bạch ngọc thì cát dưới đáy ao bằng vàng màu tía.
Có ao thuần bằng vàng màu tía thì cát dưới đáy ao bằng bạch ngọc.
Lại có hai thứ châu báu cùng tạo thành một cái ao và cát dưới đáy ao bằng vàng, bạc.
Có ba thứ châu báu cùng tạo thành một cái ao và cát dưới đáy ao bằng vàng, bạc, thủy tinh.
Có thứ bốn châu báu cùng tạo thành một cái ao và cát dưới đáy ao bằng vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly.
Có năm thứ châu báu cùng tạo thành một cái ao và cát dưới đáy ao bằng vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, san hô.
Có sáu thứ châu báu cùng tạo thành một cái ao và cát dưới đáy ao bằng vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách.
Có bảy thứ châu báu cùng tạo thành một cái ao và cát dưới đáy ao bằng vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ.
Nơi đó có ao hồ dài bốn mươi dặm, có ao hồ dài tám mươi dặm, có ao hồ dài một trăm sáu mươi dặm, có ao hồ dài sáu trăm bốn mươi dặm, có ao hồ dài một ngàn hai trăm bốn mươi dặm, có ao hồ dài hai ngàn năm trăm sáu mươi dặm, có ao hồ dài năm ngàn một trăm hai mươi dặm, có ao hồ dài một vạn hai trăm bốn mươi dặm, có ao hồ dài hai vạn bốn trăm tám mươi dặm. Những ao hồ này chiều ngang và chiều rộng bằng nhau. Đây là nơi mà các Bồ Tát, A La Hán thường dùng để tắm gội.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trì Thế - Phẩm Một - Phẩm Tứ Lợi - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Chín - Pháp Hội úc Già Trưởng Giả - Phần Hai
Phật Thuyết đà La Ni Phật đỉnh Tôn Thắng
TRUNG ĐẠO LÀ HẠNH TU THÙ THẮNG NHẤT
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bản Sinh Tâm địa Quán - Phẩm Mười - Phẩm Quán Tâm