Phật Thuyết Kinh A Tra Bà Bà Câu Quỷ Thần đại Tướng Thượng Phật đà La Ni - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT KINH
A TRA BÀ CÂU QUỶ THẦN ĐẠI TƯỚNG
THƯỢNG DÂNG LÊN PHẬT ĐÀ LA NI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẦN MỘT
Tôi nghe như vậy!
Một thời Đức Phật ở tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc Ca Lan Đà.
Khi ấy trong thành Vương Xá có một vị Tỳ Kheo bị giặc bao vây, bị rắn cắn, bị quỷ làm nhiễu loạn, chịu khổ não lớn.
Bấy giờ quỷ thần Đại Tướng A Tra Bà Câu Aṭavaka thấy Tỳ Kheo đó chịu các khổ như vậy, tâm sanh thương xót, liền đến chỗ Phật ngự, cúi đầu mặt lể bàn chân của Đức Phật rồi đứng ở một bên, bạch Phật rằng.
Thế Tôn! Vì hàng phục tất cả các hàng quỷ thần cực ác. Nay con vì thương xót tất cả Chúng sanh, vì hàng phục tất cả các quỷ thần ác với tất cả người ác, nhóm độc… cho nên dâng lên Đức Phật Thế Tôn bài Chú cực nghiêm ác dùng để hàng phục các hàng quỷ thần.
Nếu có người đọc tụng Chú đó thì người ấy có oai đức cho đến sức mạnh hay hàng phục Phạm Thiên, huống chi là điều ác khác.
Khi ấy Đức Phật bảo.
Này A Tra Bà Câu quỷ thần Đại Tướng! Ta chẳng thuận nhận bài Chú cực ác nghiêm ác này, vì hay làm hại các hàng Chúng sanh.
Lúc đó, A Tra Bà Câu lại bạch Phật rằng.
Thế Tôn! Trong đời sau, quỷ ác thêm đông, nhiều người ác, nhiều trùng thú ác độc xâm hại Chúng sanh. Hoặc gặp các nạn như là. Nạn Vua Chúa, nạn giặc cướp, nước, lửa, đao binh, sợ hãi, oán ghét, quỷ ác… hoặc đệ tử của Phật. Xuất gia, tại gia… nếu bốn bộ Chúng ở nơi vắng lặng khất thực, nơi đường lộ, chỗ gò mả, dưới gốc cây.
Hoặc đi trong đồng vắng, núi rừng, giữa đường. Hoặc thành ấp, xóm làng, ngõ tắt, bờ ruộng… sẽ vì họ cứu hộ không cho gặp việc ác. Nguyện xin Đức Thế Tôn thương xót nhận cho. Nguyện xin Đấng Thiện Thệ.
Thế Tôn rũ lòng đoái hoài! Bấy giờ Đức Thế Tôn nghe lời này xong, liền lặng yên mà nhận.
Khi ấy A Tra Bà Câu thấy Phật lặng yên, tâm rất vui mừng, liền ở trước mặt Đức Phật, nói Chú là.
Đậu lâu mê, đậu lâu mê, đà mê, đà mê, đậu lưu mê, đậu lưu mê, đậu lưu mê, đậu lưu mê, đậu lưu mê, đậu lưu lệ, ni lợi ni lợi lợi ni, na la na la na la, ni lợi ni lợi ni lợi, na la, nậu phú ni lợi, đậu lưu đậu lưu, đồ nính đồ nính, ma ha đậu lưu, đồ nính, cứu tra nính, cứu tra nính, ma ha cứu tra nính, cứu tra nính, đa tra nính, đa tra nính, ma ha đa tra nính, đa tra nính, tra tra tra tra tra tra tra tra, ma ha tra tra tra tra tra tra tra tra, a tỳ a tỳ, ma ha a tỳ, a tỳ, a tỳ lợi, a tỳ lợi, a bà, a bà, tỳ tỳ, ma ha a bà tỳ, a bà tỳ, luật sư luật sư, lê nính lê nính lê nính, ma ha luật sư, luật sư, lê nính lê nính, ma ha lê nính, lê nính, thủ lâu thủ lâu, ma ha thủ lâu, thủ lâu, cừu lâu cừu lâu, ma ha cừu lâu, cừu lâu, lưu cừu mưu, lưu cừu mưu, lưu cừu lưu cừu, mưu mưu, cừu ma cừu ma cừu ma cừu ma, hí lê hí lê hí lê hí lê, y trì y trì y trì y trì, bỉ trì bỉ trì bỉ trì bỉ trì, ha la ha la ha la ha la, hí nê hí nê hí nê hí nê, hưu nê hưu nê hưu nê hưu nê, hề nê hề nê, ha na ha na ha na ha na, mâu ni mâu ni mâu ni mâu ni, ma ha mâu ni, mâu ni, bà la bà la bà la bà la, ni lợi giả ca, lộ ca già lợi, xà xà, thời na thời na thời na thời na,vô bà na, mộ xà tu ca, đô đa mâu ni, ca la ma, ca la ma, ca la ma, xà kiệt đề đa xà, xa ma đà ma, xa ma đà ma, diêm ma đà ma, diêm ma đà ma, xa ma mục đa di đề, na bà la xà xa na mê, phú lưu sa ma mâu ni, na tỳ đồ na di, tu già đô đa mâu ni, na tỳ đồ na mê, sa ha.
Cứu Hộ Chú.
Duru mi, duru mi, dhami dhami, dhuru mi, dhuru mi, dhuru mi, dhuru mi, duru mili, nili nili nili, nala nala nala, nili nili nili nili, nalanupulini, duluchanāṃ dulichanāṃ, kuṭanāṃ kuṭanāṃ, mahā kuṭanāṃ kuṭanāṃ, taṭanāṃ mahā taṭanāṃ, taṭanāṃ, ṭaṭa ṭaṭa, mahā ṭaṭa ṭaṭa, abhi abhi, mahā abhi, abhili abhili, mahā abhili abhili, apa abhi apa abhi apa abhi, luśi luśi mahā luśi luśi, lini lini mahā lini, śulu śulu mahā śulu śulu, kulu kulu mahā kulu kulu, lukumu lukumu lukumu lukumu.
kuma kuma kuma kuma, śili śili śili śili, iṭi iṭi iṭi iṭi, viṭi viṭi viṭi viṭi, hala hala hala hala, śini śini śini śini, śune śune śune śune, hini hini hini hini, hana hana hana hana, maṇi maṇi maṇi maṇi, mahā maṇi maṇi, sala sala sala sala, śrī kuru, akarṣa, sina sina sina sina, mosa bhana mokṣaka dhuka muṇi, kamala kamala kamala, jakṭitaja, śama dhama śama dhama, yama dhama yama dhama, śama mukta miti, nabhala dhuna me, puruṣa dhama muṇi, nabhi dhuna me, tuja dhuta muṇi, nabhi dhuna me, svāhā.
Thế Tôn! Đà La Ni Chú này vì tất cả Chúng sanh làm cứu giúp hộ trì người đó thảy đều khiến được an ổn tịch tịnh, xa lìa suy não, diệt các ác độc, lìa các khổ não.
Nạn Vua Chúa, nạn giặc, nạn ganh ghét… hoặc Trời, Rồng, Quỷ Thần, La Sát, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, Phục Đa Na, A Bạt Mạt La, Khư Khuất Đà… như vậy các thứ xúc não, xâm tổn đều được trừ diệt, cũng trừ khỏi tất cả các độc của thế gian.
Hoặc cỏ, hoặc cây, rễ cây, hoa quả, áo quần, đồ ăn uống, các vật của thế gian với trùng, chim, cầm thú, các Rồng làm độc ác hại người… tất khiến tiêu hoại, không thể làm ác.
Lại nữa trong hư không, mặt trời, mặt trăng, tinh thần các vì sao trực theo ngày giờ, gió chướng, gió lốc, quỷ thần nổi gió muốn lại hại người, các quỷ thần… muốn đến ăn nuốt tinh khí, ăn người hại mặt, làm cho tật bệnh, bệnh nóng hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày.
Hoặc làm cho bệnh lạnh, bệnh phong, bệnh hàn nhiệt. Trong ngoài thân, hết thảy các bệnh, hoặc bảy ngày hoặc sáu mươi ngày đều tiêu diệt không cho làm hại.
Các quỷ thần của nhóm đó. Hoặc dùng tay, hoặc dùng chân, hoặc dùng lưỡi, hoặc dùng tâm muốn làm cho người phiền não với dùng người ác muốn làm nảo hại cho người. Trước nên tụng Chú này sẽ có sức hay cột trói, khiến người ác, quỷ ác kia bị câm miệng, mất niệm, không thể làm ác.
Thế Tôn! Nay con sẽ nói Thần Chú để thủ hộ.
Liền nói Chú là.
A xa, a xa, mâu ni mưu ni, ma ha mâu ni mâu ni, áo ni, hưu hưu, ma ha na ca hưu hưu, đấu già na tri, a hô, a già na tri, a đa na, a tra, a tra, a tra, na tra na tra, lưu đậu lưu đậu lưu đậu, hưu hưu, đậu lưu, hí nê, hí nê, hí nê, hí nê, úc cừu ma, cừu ma cừu ma cừu ma, hí lê hí lê hí lê hí lê nê, ni lê ni lê, ma ha ni lợi, sa ha.
Akṣa akṣa, maṇi maṇi, mahā maṇi maṇi, anuṇiśuśu, mahā nāgaśuśu, duḥkhanaci aho, akhanaṭi atanaṭi, aṭa aṭa aṭa, naṭa naṭa, ludu ludu ludu, śuśu dulu, śini śini śini śini, ukuma kuma kuma kuma, śili śili śili śilini, nili nili mahā nili, svāhā.
Đà La Ni này vì người thọ trì đọc tụng, làm ủng hộ.
Nếu có quỷ ăn tinh khí người, hoặc lấy tài sàn, làm hao tài vật. Như vậy tất cả các sợ hãi đều vì kết giới. Nay vì cả nhà của người họ tên… vô lượng làm đại ủng hộ.
Nay lại nói phòng hộ các ác mà nói Chú là.
Lưu mưu lưu mưu, lưu ma lưu ma lưu ma, hí lê hí lê hí lê hí lê hí lê, cừu na cừu na cừu na cừu na cừu na cừu na, cừu thố cừu thố cừu thố, cừu lưu cừu lưu cừu lưu cừu lưu, hưu lâu hưu lâu hưu lâu hưu lâu hưu lâu, hí lê mộ hưu, mộ hí lê mộ hí lê mộ hí lê mộ hí lê, hưu mưu hưu mưu hưu mưu, hưu ma, hưu mê đề, ma mê tư, ma, a đề già la mê đâu, sa ha.
Lumo lumo, luma luma luma, śili śili śili śili śili, kuna kuna kuna kuna kuna kuna, kuno kuno kuno, kulu kulu kulu kulu, śulu śulu śulu śulu śulu, śili muśu, muśili muśili muśili muśili, śumo śumo śumo, śuma śumiti, mamise, ma atikala, mitu, svāhā.
Đại Tướng lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Chú này rất có thần lực như trên đã nói. Không khiến cho người trì Chú đó bị sợ hãi vì Vua Chúa, giặc, lửa, nước, gió, độc, đao binh, mặt trời, mặt trăng, tinh thần, quỷ thần…
Hoặc có ác tri thức, tâm sanh ganh ghét giận dữ, ý sanh ác hại muốn xâm não… trước nên tụng Chú này để kết giới khiến cho quỷ ác, người ác, người có cừu oán, kẻ sanh tâm xâm ác…bị ngu si, mê muộn, câm miệng, phá nát, tự gặp mọi ác, chẳng vượt qua giới này, chẳng thể xâm hại người tụng Chú này.
Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân tụng Chú này thì tất cả hàng Trời, Rồng, A Tu La, các quỷ thần ác, người, Phi nhân thảy đều tuỳ theo ủng hộ, không cho gặp ác.
Thế Tôn! Con là quỷ thần đại tướng có sức mạnh hay hàng phục tất cả các quỷ. Nếu có người trì tụng, con sẽ đem các quỷ thần ngày đêm chẳng lìa, ủng hộ người ấy, khiến cho chẳng nhìn thấy quỷ ác, người ác được dịp thuận tiện.
Nếu xâm tổn, não hại người tụng Chú này, con sẽ dùng bánh xe ngàn căn Thiên Phúc Luân đập nát đầu loài ấy, khiến các quỷ thần làm cho suy hại.
Thế Tôn! Chú này rất có thần lực, rất có oai đức.
Nguyện xin lưu bố mọi an lạc Thế Tôn! Người tụng Chú này thì đức, lực của người ấy chỉ có Phật mới biết. Đại Thần Chú này nên trao cho kẻ hiền, người có trí.
Nếu người chẳng thể tụng, nên dùng giấy tốt, viết chép rồi đựng trong cái túi lụa, bỏ thêm mọi thứ hương mà đeo nơi thân. Nếu có các nạn khủng bố, lo buồn thường nên nhớ niệm Chú này đều tiêu trừ hết.
Thế Tôn! Nếu có nạn lo buồn, sợ hãi, quỷ thần ác, mộng ác… muốn tiêu diệt. Trước tiên nên kết giới khiến các ác chẳng khởi, khiến người ác, quỷ ác, giặc ác ấy tự bị tai ương, thân thể khô gầy, tâm ý chuồng loạn.
Lúc muốn kết giới thời nên tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới sạch, tô đắp đất sạch sẽ, an bảy bình nước uống, hai bình để một chút máu, một bình để mọi loại nước uống, thắp tám ngọn đèn, đốt Huân lục hương, vận tâm cúng dường, thời con đem các quỷ thần đến bên người ấy, ban cho ước nguyện, người ấy nên tụng Chú này, kết sợi dây đỏ, sau đó trì hành, liền hay tiêu trừ tất cả các nạn.
Bấy giờ Đức Phật bảo A Nan: Chú này rất có thần lực lớn, hay tiêu trừ các ác, ủng hộ Chúng sanh, có nhiều lợi ích. Ông nên thọ trì, rộng khiến lưu bố. Nếu có thành ấp, thôn xóm tụng Chú này đều được lợi ích.
Nếu có quốc vương, đại thần tụng Chú này thì cảnh độ của người ấy không có giặc ác, nạn sợ hãi, tai hoạnh, tật dịch, nước, hạn hán, gió, sương.
Nếu gặp giặc ác, nên tụng Chú này. Nếu cột buộc trên cây phướng cao. Giặc nhìn thấy cây phướng này, tự thoái lui hàng phục.
Này A Nan! Chú này rất có thần lực, rất có oai đức lớn. Nên khiến bốn Chúng khéo tụng trì.
Lúc đó Chúng Hội nghe điều Đức Phật đã nói đều vui vẻ phụng hành.
Nếu hành pháp này. Trước tiên nên vẽ một bức tượng Đại Lực Thần Tướng. Hoặc một bức, hoặc hai bức hoặc ba bức hoặc bốn bức trên lụa tốt. Vào ngày mồng một tháng tám, bắt đầu vẽ. Hoặc tự vẽ hoặc nhờ người vẽ đều được.
Trước tiên trai giới bảy ngày, liền mặc áo thượng diệu, tắm gội sạch sẽ, cùng với người thợ vẽ thọ tám giới. Ở Tịnh Thất treo phan, hoa làm một Hoả Đàn lớn, cao một thước xích. Thước Tàu.
Trên Đàn để nhiều lửa than, liền lấy một ngàn không trăm lẻ tám đoạn cây có nhựa trắng, lấy Hồ Ma mè, Cánh Mễ gạo tẻ, Mật, Lạc với hương hoa… tụng Chú một lần Chú vào thì thiêu đốt một đoạn… cho đến hết xong, dùng màu vẽ thật tốt để trên Đàn, Chú một trăm lẻ tám biến, đừng dùng keo nấu bằng da thú để hoà mà lấy nước cốt của cây có nhựa trắng với Huân lục hương để hoà. Một khi đi cầu thì một lần tắm sửa.
Vẽ A Tra Bà Câu Nguyên Soái, thân màu xanh đen, cao sáu thước, bốn mặt. Mặt ngay phía trước làm mặt Phật. Mặt bên trái có nanh cọp giao nhau, ba mắt, mắt đỏ như máu. Mặt bên phải làm mặt thần, tướng giận dữ cũng có ba mắt, nanh cọp giao nhau, hai bên an nha phát tóc nhọn.
Một mặt trên đầu làm tướng ác, cũng có ba mắt, nanh cọp giao nhau, mắt đỏ như màu máu, phần cao nhất trên đầu dùng rồng đỏ cột buộc tóc, rực lửa bốc cao trên đảnh, vòng đeo tai là rắn, cổ có rắn quấn quanh.
Thân có tám tay.
Bên trái. Tay bên trên cầm bánh xe Luân, tay thứ hai cầm cây giáo Sóc, tay thứ ba cùng với tay thứ ba bên phải để ngay phía trước làm Ấn cúng dường, tay bên dưới cầm sợi dây Sách.
Bên phải. Tay bên trên cầm Bạt Chiết La Vajra, tay thứ hai cầm cây gậy Bổng, tay thứ ba tác Ấn cài chéo, tay bên dưới cầm cây Đao. Trên lóng tay, cổ tay, cánh tay đều có rắn quấn.
Thân áo giáp có bảy báu giao chéo nhau, trên bắp tay đều có rồng quấn nhau rũ xuống hiện trước ngực lộ ra ba mặt màu đỏ vàng, hai mắt, ngậm miệng… hai mặt trái phải bên trên đều có màu xanh đậm.
Mặt bên trên màu trắng vàng, mặt bên trái màu trắng, mặt bên phải màu đen đỏ, mặt phía trước màu trắng xanh. Tay đều màu xanh dùng da đầu con voi quấn bám xéo cẳng chân, chân đạp lên hai Dạ Xoa màu đen.
Vị Thần ấy làm tướng cực ác, dạng mạnh bạo đáng sợ. Làm như hình phấn tấn lúc trước.
Hai bên trái phải vẽ bốn Thị Giả. Bên trái vẽ Đế Đầu Lại Tra Dhṛtarāṣṭra, Tỳ Lâu Lặc Xoa Virūḍhaka. Bên phải vẽ Tỳ Lâu Bác Xoa Virūpākṣa, Tỳ Sa Môn Vaiśravaṇa đều làm tướng giận dữ, đội mão hoa bảy báu, thân mặc áo giáp vàng, dùng đầu rồng làm xuyến đeo cánh tay, áo Trời, bảy báu quấn ràng quanh… chân đạp Dạ Xoa. Bên phải cũng y theo điều này.
Đế Đầu Lại Tra cầm cây đao đè xuống án. Tỳ Lâu Lặc Xoa cầm cây xoa, Tỳ Lâu Bác Xoa cầm cây kiếm đè xuống, Tỳ Sa Môn cầm chày. Bốn vị Thiên Vương đều thống lãnh quyến thuộc.
Đông Phương Thiên Vương thống lãnh Càn Thát Bà Tướng Quân cầm cái chuông lắc tay Đạc linh.
Nam Phương Thiên Vương thống lãnh Cưu Bàn Trà Vương cầm cung tên.
Tây Phương Thiên Vương thống lãnh Long Vương cầm cây kiếm.
Bắc Phương Thiên Vương thống lãnh Dược Xoa Vương cầm Phục Đột cây gậy. Trên đầu vị Thần ấy có mây mày đen đỏ nổi lên.
Bên dưới bàn chân của Tứ Phương Thiên Vương làm hai Đồng Tử áo xanh, bên phải cầm giấy bút, bên trái cầm nghiên mực. Trước mặt Thần làm một vị Trời đầu đội lò hương cúng dường. Cần phải thật sạch sẽ mà làm thì điều mong cầu được như ý.
Nếu muốn cầu thấy Thần. Vào ngày mồng bảy tháng bảy, ngày mồng ba tháng ba… gom cỏ cây, hoa, hoa lúa nếp, bơ, mật, lạc thiêu đốt thời thất cả tám Bộ Thiên Thần nhìn thấy đều vui vẻ hiện thân.
Nếu muốn hàng phục Đại Ma Vương với Thần, nên nhấc bàn chân lên, hai tay nắm quyền, đáng lên trên hai bắp vế, mau dùng môi trên cắn môi dưới, mắt nhìn xuống. Đây tức là đại hàng phục ấn.
1. Phược quỷ thần Ấn. Đem hai ngón út xoa ngược nhau, hai ngón cái đè trên móng hai ngón út, mở dựng ngón giữa ngón vô danh. Ngón cái cũng vậy.
2. Sắc quỷ thần Ấn. Ngồi nghiêng, dùng tay trái nắm khố quần, tay phải đem ngón cái đè trên móng ngón út ngón vô danh, dựng thẳng ngón trỏ ngón giữa.
3. Nếu hàng phục Đại Lực Ác Quỷ, làm Hoả Luân Ấn. Hai tay co hai ngón vô danh ở trong lòng bàn tay khiến cho đầu ngón ngang bằng nhau, các ngón khác đều dựa đầu nhau, hơi trống rỗng lòng bàn tay hư chưởng.
4. Muốn ném mỵ quỷ nên tác Ấn. Từ ngón giữa trở xuống, ba ngón đều cùng xoa nhau, sau lưng bàn tay, hai ngón trỏ dựa bằng đầu nhau, để ngang ngón cái vịn vằn lóng giữa của hai ngón trỏ, ba lần thở ra, ba lần hít vào hô hấp tức cột buộc mà đến.
Năm loại pháp khế bên trên, dùng Đại Chú.
Tứ Thiên Vương Kết Giới Chú là.
Úm, sa đế gia, bàn đà bàn đà, ham hồng phấn.
Oṃsatya bandha bandhahūṃ phaṭ.
Bát Bộ Đô Chú.
Nam Mô Bột Đà Gia. Nam Mô Đạt Ma Gia. Nam Mô Tăng Già Gia. Nam Mô Phật Lợi Dược Xoa, Kiệt Lam Dược Xoa, Đế Phật Lợi Dược Xoa, A Tra Bà Câu, Vô Vô, Sa Ha.
Namo buddhāya.
Namo dharmāya.
Namo saṃghāya.
Namo Buri yakṣa, Galaṃ yakṣa, Teburi yakṣa, Aṭavaka svāhā.
Nếu truy đuổi Thần của tám Bộ, nâng Bát Bộ Ấn lúc trước, liền tụng Chú lúc trước hai mươi mốt biến thì vị Thần ấy liền đến.
Thế Tôn! Nguyện truyền lưu bố khắp cõi Diêm Phù Đề, khiến tất cả Chúng sanh thọ trì để làm đại cứu hộ.
A Ta Bà Câu có hai mươi mốt vị Đại Tướng đứng đầu trong coi quỷ thần ác, có ba mươi hai vị Đại Thần Vương, hai mươi tám Quỷ Vương, mỗi một Quỷ Vương đều thống lãnh hai vạn năm ngàn quyến thuộc, thường ở phía trước, theo hầu Nguyên Soái Đại Tướng.
Nếu Người, Quỷ nghe tên gọi của vị Đại Thần lúc trước, hoặc Đại Tướng giận dữ thì niệm Quán Thế Âm Bồ Tát một trăm lẻ tám biến.
Nếu các quỷ thần giận dữ, liền lấy một nắm tro, hướng miệng rải tán, kết tiểu giới.
Nếu đi trị bệnh thì y theo Pháp Khổng Tước Vương mà làm.
Nếu muốn thấy quỷ thần. Vào ngày bảy tháng bảy, lấy Trư Tử vật chứa nước đọng, uống vào hai mươi mốt lần liền được nhìn thấy.
Tiếp A Tra Bà Câu Pháp. Dùng hai mươi mốt mũi tên, hai cây đao, bốn mươi chín chén đèn, các vật khí khác chứa đầy bơ, sữa, mật, nước uống…, hai mặt gương, Chú vào hạt cải trắng rải tán bốn góc dùng làm Giới Trường, giăng dây làm Chú Giới. Cành liễu, cành Đào, cỏ lau ngâm nước sôi, lửa, liền dùng Thiên La Ấn Chú vào ba lần, kết mười hai gút.
A Tra Bà Câu Thỉnh Hiền Thánh Pháp Thứ Nhất.
1. Thỉnh Thập Phương Chư Phật Ấn.
Úm, xà gia bà hề, sa ha.
Oṃjaya vahe svāhā.
Tụng tám biến.
Hai tay cài ngược hai ngón vô danh ở trong lòng bàn tay, dựng thẳng hai ngón giữa đều dựa nhau, co hai trón trỏ đè lưng lóng trên của ngón giữa, kèm dựng hai ngón cái đè vịn bên cạnh lóng giữa, đưa ngón trỏ qua lại bảy lần, tức tất cả Phật đi đến.
2. Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Ấn.
Úm, tỳ thị đê, tỳ kiếm lam, mê đế, lô ca,tỳ xà duệ, sa ha.
Oṃviśiti vigalaṃ maite ruka vijayesvāhā.
Hai cổ tay dính nhau, kèm dính hai ngón cái, hai ngón út cũng vậy, các ngón kia hơi mở co như khều lấy hoa sen, đưa ngón trỏ lên xuống qua lại.
3. Hoán tập kêu gọi tập hợp Thập Tứ Đô Kim Cương Ấn.
Úm, bạt chiết ra, toàn nê hề, sa ha.
Oṃvajra caṇḍi hesvāhā.
Nghiêng hai cổ tay, kèm dựng hai ngón cái đều vịn trên móng hai ngón út, dựng cạnh hai ngón vô danh cùng dựa đầu nhau, hai ngón giữa đều dựng thẳng hướng đấu ngón về phía trước không dính nhau, đưa hai ngón trỏ qua lại.
4. Tập Tam Thập Tam Thiên Thần Ấn.
Úm, thước đổ lỗ, ba ra ma đà nễ duệ, sa ha.
Oṃśatrū pramadhaniye svāhā.
Hai ngón út, ngón vô danh cài chéo nhau bên trong, hợp đứng hai ngón giữa, bung đứng hai ngón trỏ ở lưng hai ngón giữa sao cho hai ngón trỏ hơi cách lóng thứ hai của ngón giữa khoảng nửa phân, đưa ngón cái qua lại.
5. Tập Nhị Thập Bát Tú Tinh Thiên Ấn.
Úm, đa ra đề bà đa duệ, sa ha.
Oṃtārā devatāye svāhā.
Tay trái kèm ngửa ngón giữa ngón vô danh, ngón giữa phải để ngay trên vạch dưới của ngón vô danh trái, ngón vô danh phải cũng che úp bên trên vạch dưới của ngón giữa trái, cùng xếp bày như sợi dây. Ngón út, ngón trỏ, ngón cái đều dựng đứng cùng dựa nhau, đưa ngón cái qua lại.
6. Truy Đông Phương Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương Lãnh Càn Thát Bà Chúng Ấn.
Úm, địa lợi để hát ra sắt tra, dược xoa, nhân đà ra, đế bà đa duệ, sa ha OṃDhṛtarāṣṭra yakṣa indra adhipatayesvāhā.
Tay trái, từ ngón giữa trở xuống, ba ngón nắm quyền. Lại co ngón trỏ hơi cong ở vạch lóng dưới của ngón giữa, đưa ngón cái qua lại.
7. Truy Nam Phương Tỳ Lưu Lặc Xoa Thiên Vương Lãnh Cưu Bàn Trà Chúng Ấn.
Úm, tỳ lỗ đà ca thi ba đa duệ, sa ha.
OṃVirūḍhaka adhipatayesvāhā.
Nghiêng cổ tay trái, để cạnh cổ tay phải dính trên gốc cổ tay trái, hai lòng bàn tay chung lưng, hai ngón vô danh hai ngón giữa cùng móc duỗi nhau như sợi dây, hai ngón út hai ngón trỏ hai ngón cái đều hơi cong, đưa ngón trỏ qua lại.
8. Truy Tây Phương Bác Xoa Thiên Vương Lãnh Long Quân Chúng Ấn.
Úm, tỳ lô bác xoa, cưu bàn đồ, địa ba đa duệ, sa ha.
OṃVirūpākṣa kuṃbhaṇḍa adhipatayesvāhā.
Nghiêng cổ tay trái, để cạnh cổ tay phải dính trên gốc cổ tay trái. Hai tay từ ngón giữa trở xuống, ba ngón đều co ngay trong lòng bàn tay rồi nắm quyền, co hai ngón cái đều đè lên trên, hai ngón trỏ giao nhau như sợi dây áo giáp sách giáp, đưa ngón cái qua lại.
9. Truy Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương Lãnh Dược Xoa Quân Chúng Ấn.
Úm, tỳ Sa Môn gia, a địa ba đa duệ, sa ha.
OṃVaiśravaṇāya adhipataye svāhā.
Nghiêng cổ tay phải cũng co bốn ngón từ ngón trỏ trở xuống ngay lòng bàn tay rồi nắm quyền, co ngón cái đè trên ngón trỏ. Tay trái cũng vậy để nghiêng rồi nắm quyền, duỗi thẳng ngón cái hướng lên trên. Quyền phải để dính trên tay trái, đưa ngón trỏ phải qua lại.
10. Tập Thứ Thiên Vương Sở Lãnh Tứ Phương Quỷ Thần Dược Xoa La Sát Bát Bộ Quỷ Binh Ấn.
Úm, chiêm bà la, tạ lan đạt la gia, sa ha.
OṃJambhala jalendrāya svāhā.
Cài ngược ngón trỏ ngón giữa vào lòng bàn tay, dựng thẳng ngón vô danh dựa đầu nhau khiến lóng trênngang bằng, hai ngón út cũng cài chéo nhau vào lòng bàn tay, hợp cổ tay, đưa ngón cái qua lại.
11. Tập Bát Bộ Long Vương Quân Chúng Ấn.
Úm, ẩu ba Nan đà, sa ha.
Oṃ UpA Nanda svāhā.
Để đầu khuỷu tay phải ngay bên trong khuỷu tay trái, lại đem bốn ngón của tay phải hơi co lại, để ngón cái ở chỗ hơi cong của ngón trỏ. Tay trái co ngược hướng về tay phải cũng như thế sao cho hình dạng giống như miệng con rắn. Hai tay đều đưa bốn ngón qua lại.
12. Truy Bách Thiên Long Hưng Vân Trí Vũ Long Vương Ấn.
Úm, bộ kỳ ra, sa ha.
OṃBhūgira svāhā.
Hai tay. Cánh tay, cổ tay như trước chẳng sửa, chỉ đem hai ngón út ngón vô danh cài ngược nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, dựng thẳng hai ngón giữa vịn đầu nhau, hai ngón trỏ trụ lóng trên ở lưng ngón giữa, hơi co hai ngón cái, đều vịn lóng giữa bên trong hai ngón trỏ, đưa ngón trỏ qua lại.
13. Truy Nhật Thiên Tử Quân Chúng Ấn.
Úm, ra thấp mê, ma lợi nễ, sa ha.
Oṃ Rasmi mālini svāhā.
Đem lưng hai ngón giữa ngón vô danh ngón út cùng dựa nhau trong lòng bàn tay khiến ngang bằng nhau, dựng thẳng hai ngón trỏ cùng dựa nhau, hai ngón cái vịn lóng thứ nhất ở gốc ngón trỏ, đưa ngón cái qua lại.
14. Truy Nguyệt Thiên Tử Quyến Thuộc Ấn.
Úm, toàn đà ra ưng, tô ma đế, sa ha.
Oṃcandrāya sumati svāhā.
Hai ngón út, hai ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái trong lòng bàn tay, dựng ngón giữa cùng hợp với ngón trỏ, co lóng thứ ba của ngón giữa, gồng cứng ngón cái đều vịn đầu ngón vô danh rồi đưa qua lại.
15. Tập Nhất Thiết Hoả Thiên Ma Binh Lệnh Phục Ấn.
Úm, địa tệ, địa tệ, a già na duệ, a yết xa, sa ha.
OṃDīpye dīpye, agnāye agaccha svāhā.
Dựng ba ngón của tay trái, co ngón cái vịn vạch bên dưới ngón vô danh, hơi co đầu ngón trỏ cùng ngang bằng với lóng thứ nhất của ngón giữa, đưa ngón trỏ qua lại.
16. Truy Diêm La Vương Ngũ Đạo Đại Tướng Quân Ngưu Đầu Binh Chúng Ấn.
Úm, diêm ma ra xà, ô yết ra, tỵ lợi gia, a yết xa, sa ha.
OṃYama rāja ugra vīrya agaccha svāhā.
Nghiêng cổ tay trái, nắm bốn ngón rồi hơi co ngón trỏ khoảng ba phân, đưa ngón cái qua lại.
17. Truy A Tu La Vương Đấu Chiến Quân Chúng Ấn.
Úm, tỳ ma chất đa la, a tô ra, địa ba đa duệ, sa ha.
OṃVimacitra asura adhipataye svāhā.
Tay phải. Co ba ngón từ ngón giữa trở xuống sao cho đều ngón cách lòng bàn tay khoảng một phân, ngón trỏ cũng co, ngón cái hơi co cộng với Đông Phương Thiên Vương Ấn, dùng khiến tương ứng.
18. Truy La Sát Vương Quân Binh Năng Đấu Chiến Giả Cấp Lai Ấn.
Úm, yết già, a địa ba đa duệ, sa ha.
Oṃkhadga adhipataye svāhā.
Tay phải đem ngón cái vịn trên móng ngón út ngón vô danh, đưa ngón giữa với ngón trỏ qua lại.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Tám - Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Bốn Mươi Tám - phẩm Thành Biện
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Sáu Mươi - Kinh Bóng Vàng đáy Nước
Phật Thuyết Kinh Chuyển Pháp Luân Tồi Ma Oán địch Pháp