Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba Mươi Bốn - Phẩm Khó Tin Hiểu - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM BA MƯƠI BỐN

PHẨM KHÓ TIN HIỂU  

PHẦN HAI  

Vì sao?

Vì Thánh đế khổ đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế khổ đời trước. Thánh đế tập, diệt, đạo đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Thánh đế tập, diệt, đạo đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo đời trước. Bốn tịnh lự đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn tịnh lự đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn tịnh lự đời trước. Bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc đời trước. Tám giải thoát đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tám giải thoát đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám giải thoát đời trước. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời trước. Bốn Niệm trụ đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn niệm trụ đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn niệm trụ đời trước. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo đời trước. Pháp môn giải thoát không đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát không đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp môn giải thoát không đời trước. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời trước. Mười địa Bồ Tát đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì mười địa Bồ Tát đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười địa Bồ Tát đời trước. Năm loại mắt đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì năm loại mắt đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của năm loại mắt đời trước. Sáu phép thần thông đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì sáu phép thần thông đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của sáu phép thần thông đời trước. Mười lực Phật đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì mười lực Phật đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười lực Phật đời trước. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của là tự tánh bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng đời trước. Pháp không quên mất đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp không quên mất đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không quên mất đời trước. Tánh luôn luôn xả đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tánh luôn luôn xả đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của tánh luôn luôn xả đời trước. Trí nhất thiết đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì trí nhất thiết đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của trí nhất thiết đời trước. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời trước. Tất cả pháp môn Đà La Ni đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tất cả pháp môn Đà La Ni đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni đời trước. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa đời trước. Dự Lưu quả đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Dự Lưu quả đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của Dự Lưu quả đời trước. Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán quả đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán quả đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán quả đời trước. Quả vị Ðộc giác đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì quả vị Ðộc giác đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị Ðộc giác đời trước. Tất cả hạnh Đại Bồ Tát đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của hạnh Đại Bồ Tát đời trước. Quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì quả vị Giác Ngộ cao tột của Chư Phật đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị Giác Ngộ cao tột của Chư Phật đời trước.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì sắc đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc đời sau. Thọ, tưởng, hành, thức đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thọ, tưởng, hành, thức đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức đời sau. Nhãn xứ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì nhãn xứ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhãn xứ đời sau. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời sau. Sắc xứ đời trước chẳng phải buộc chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì sắc xứ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc xứ đời sau. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời sau. Nhãn giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì nhãn giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhãn giới đời sau. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời sau. Nhĩ giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì nhĩ giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ giới đời sau. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời sau. Tỷ giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tỷ giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tỷ giới đời sau. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời sau. Thiệt giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thiệt giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của thiệt giới đời sau. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời sau. Thân giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thân giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của thân giới đời sau. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đời sau. Ý giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì ý giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của ý giới đời sau. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời sau. Địa giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì địa giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của địa giới đời sau. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời sau. Vô minh đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì vô minh đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của vô minh đời sau. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời sau. Bố Thí Ba la mật đa đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Bố Thí Ba la mật đa đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của bố thí Ba la mật đa đời sau. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa đời sau. Pháp không nội đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp không nội đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không nội đời sau. Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới.

Pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đời sau. Chân như đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì chân như đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của chân như đời sau. Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đời sau. Thánh đế khổ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Thánh đế khổ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế khổ đời sau. Thánh đế tập, diệt, đạo đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Thánh đế tập, diệt, đạo đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo đời sau. Bốn tịnh lự đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn tịnh lự đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn tịnh lự đời sau. Bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc đời sau. Tám giải thoát đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tám giải thoát đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám giải thoát đời sau. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời sau. Bốn niệm trụ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn niệm trụ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn niệm trụ đời sau. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo đời sau. Pháp môn giải thoát không đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát không đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp môn giải thoát không đời sau. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời sau. Mười địa Bồ Tát đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì mười địa Bồ Tát đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười địa Bồ Tát đời sau. Năm loại mắt đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì năm loại mắt đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của năm loại mắt đời sau. Sáu phép thần thông đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì sáu phép thần thông đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của sáu phép thần thông đời sau. Mười lực Phật đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì mười lực Phật đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười lực Phật đời sau. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của là tự tánh bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng đời sau. Pháp không quên mất đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp không quên mất đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không quên mất đời sau. Tánh luôn luôn xả đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tánh luôn luôn xả đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tánh luôn luôn xả đời sau. Trí nhất thiết đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì trí nhất thiết đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của trí nhất thiết đời sau. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời sau. Tất cả pháp môn Đà La Ni đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tất cả pháp môn Đà La Ni đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni đời sau. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa đời sau. Dự Lưu quả đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Dự Lưu quả đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của Dự Lưu quả đời sau. Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán quả đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán quả đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán quả đời sau. Quả vị Ðộc giác đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì quả vị Ðộc giác đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị Ðộc giác đời sau. Tất cả hạnh Đại Bồ Tát đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của hạnh Đại Bồ Tát đời sau. Quả vị Giác Ngộ cao tột của Chư Phật đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì sắc đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc đời giữa. Thọ, tưởng, hành, thức đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thọ, tưởng, hành, thức đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức đời giữa. Nhãn xứ đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì nhãn xứ đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhãn xứ đời giữa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời giữa. Sắc xứ đời giữa chẳng phải buộc chẳng phải mở đời giữa.

Vì sao?

Vì sắc xứ đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc xứ đời giữa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời giữa. Nhãn giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì nhãn giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhãn giới đời giữa. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Nhĩ giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì nhĩ giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ giới đời giữa. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Tỷ giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì tỷ giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của tỷ giới đời giữa. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Thiệt giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thiệt giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của thiệt giới đời giữa. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Thân giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thân giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của thân giới đời giữa. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Ý giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì ý giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của ý giới đời giữa. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Địa giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì địa giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của địa giới đời giữa. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời giữa. Vô minh đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì vô minh đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của vô minh đời giữa. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở.

Vì sao?

Vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời giữa.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần