Phật Thuyết Kinh Bản Sự - Phẩm Hai - Phẩm Hai Pháp - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH BẢN SỰ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Huyền Trang, Đời Đường
PHẨM HAI
PHẨM HAI PHÁP
PHẦN BỐN
Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Bí Sô nào giảm bớt sự ngủ nghỉ, luôn chánh niêm, tỉnh giấc, thường sống trong sự thanh tịnh, hoan hỷ, đối với các pháp thiện quán sát đúng lúc, thích nghi để tu tập đúng đắn.
Bí Sô nào giảm bớt sự ngủ nghỉ, luôn chánh niệm, tỉnh giác, thường sống trong sự thanh tịnh, hoan hỷ, đối với các pháp thiện quán sát đúng lúc, thích nghi để tu tập đúng đắn như vậy, thì ngay trong hai quả, tuy theo chứng được một quả, nghĩa là ngay trong đời này, chứng Niết Bàn hữu dư y, hoặc quả Bất Hoàn.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:
Người nghe pháp giác ngộ
Tu hành được thắng quả
Người tham đắm ngủ nghỉ
Không thể nào chứng đắc.
Người ít sự ngủ nghỉ
Luôn chánh niệm, tỉnh giác
Giữ tâm được an trụ
Thường thanh tịnh hoan hỷ.
Đối với các pháp thiện
Biết thời nghi tu tập
Vượt qua được tất cả
Khổ, sinh, già, bệnh, chết.
Thế nên phải siêng tu
Giảm bớt sự ngủ nghỉ
Thường quán sát tịch tĩnh
Được hai quả vô ngại.
Hoặc đoạn kết hạ phần
Chứng được quả Bất Hoàn
Hoặc đoạn kết thượng phần
Thoát sinh, già, bệnh, chết.
Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Bí Sô nào ở chỗ hoàn toàn thanh tịnh, thường ưa thiền tọa, nội tâm siêng năng tinh tấn, tu tập chỉ quán, không lìa tĩnh lự, thành tựu thiền quán thanh tịnh, sáng suốt, giữ gìn tâm mình không cho tán loạn, đối với các pháp thiện, tu tập không nhàm chán.
Như vậy Bí Sô này ta nói rằng: Vị ấy ngay trong hai quả, chắc chắn chứng được một quả. Nghĩa là ngay trong đời này chứng quả Niết Bàn hữu dư y, hoặc quả Bất Hoàn.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:
Ưa ngồi thiền chỗ vắng
Luôn chánh niệm tỉnh giác
Giữ tâm được an trụ
Lìa phân biệt hư vọng.
Khéo phòng hộ tâm mình
Mau đoạn trừ vô minh
Và các dục, phiền não
Chân thật không ưu sầu.
Tâm tư thường vắng lặng
Được chánh niệm hoàn toàn
Giải thoát không chấp trước
Đoạn trừ hẳn tham dục.
Thường lạc, không phóng dật
Sợ hãi việc buông lung
Đoạn trừ hẳn các kiến
Mau chứng Bát Niết Bàn.
Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Bí Sô nào không hổ, không thẹn, người đó nhất định không thể thông đạt, không thể biết khắp, không thể chứng Đẳng Giác, Niết Bàn, không thể chứng đắc vô thượng an lạc. Bí Sô nào có hổ, có thẹn, người đó nhất định thông đạt, biết khắp, chứng Đẳng Giác Niết Bàn và chứng đắc vô thượng an lạc rốt ráo.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:
Người không hổ, không thẹn
Biếng trễ, không tinh tấn
Luôn hôn trầm thùy miên
Thật khó bỏ sạch kết.
Người có hổ, có thẹn
Luôn luôn không phóng dật
Ưa thiền định vắng lặng
Cách Niết Bàn không xa.
Người đoạn trừ các kết
Cùng sinh, già, bệnh, chết
Mau chứng được Chánh Giác
Được Vô thượng an lạc.
Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Những người xuất gia lược có hai loại, việc cần phải làm, đều có thể làm đúng đắn, tức đắc điều chưa đắc, thông điều chưa thông, chứng điều chưa chứng, vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hiểu biết chân chánh đạt cam lồ, chứng đắc Niết Bàn.
Hai pháp đó là:
1. Tĩnh lự thiền định.
2. Nghe pháp.
Thế nào là tĩnh lự?
Nghĩa là các Bí Sô xa lìa các pháp dục, ác, bất thiện, có tầm có từ, đạt đến sinh ly hỷ lạc, an trụ đầy đủ là tĩnh lự thứ nhất. Không còn tầm từ, trong tâm hoàn toàn thanh tịnh, không tầm không từ, định sinh hỷ lạc, an trụ đầy đủ là tĩnh lự thứ hai.
Ly hỷ, trụ xả, chánh niệm tỉnh giác, thân thọ diệu lạc như lời dạy của các bậc Thánh. Có xả, có niệm, an trụ nơi diệu lạc, an trụ đầy đủ là tĩnh lự thứ ba. Đoạn khổ, đoạn lạc, diệt ưu và khổ các thiền trước, không khổ không lạc, an trụ đầy đủ, xả niệm thanh tịnh, đó là tĩnh lự thứ tư.
Thế nào là nghe pháp?
Tức là các Bí Sô đối với lời Phật dạy, đầu, giữa, cuối hoàn toàn thiện, văn, nghĩa vi diệu hoàn toàn là pháp thanh bạch, phạm hạnh, đó là các pháp nơi Khế Kinh, Ứng Dụng, Ký Biệt, Già Tha, Tự Thuyết, Bản Sinh, Bản Sự, cùng với Phương Quảng và Vị Tằng Hữu, đối với các pháp như vậy, thọ trì, đọc tụng, nghe giảng, tu tập thông suốt, giải thích rõ ràng. Đó gọi là nghe pháp.
Như vậy gọi là người xuất gia lược có hai việc phải làm. Ai làm đúng như vậy sẽ đắc điều chưa đắc, thông điều chưa thông, chứng điều chưa chứng, vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hiểu biết đúng đắn, đạt cam lồ, chứng đắc Niết Bàn.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:
Xuất Gia có hai việc
Làm đúng việc phải làm
Tĩnh lự và nghe pháp
Mau chứng đắc Niết Bàn.
Tĩnh lự, nhân sinh tuệ
Đắc tuệ do tĩnh lự
Có thiền, có trí tuệ
Mau chứng đức Niết Bàn.
Trăm ngàn Tăng dê câm
Không tuệ, không tu thiền
Dầu trải trăm ngàn năm
Không ai chứng Niết Bàn.
Người siêng tu trí tuệ
Ưa nghe pháp, thuyết pháp
Giữ niệm trong giây lát
Mau chứng đắc Niết Bàn.
Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Tầm cầu có hai loại, hoàn toàn không có loại thứ ba.
Thế nào là hai?
Sự tầm cầu của bậc Thánh và sự tầm cầu của phi Thánh.
Thế nào là sự tầm cầu phi Thánh?
Nghĩa là có hạng người đã có pháp lão, đã có pháp bệnh, tầm cầu pháp bệnh, đã có pháp tử, pháp sầu, pháp nhiễm, tầm cầu pháp tử, pháp sầu, pháp nhiễm.
Thế nào là pháp lão?
Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ, voi ngựa, trâu dê, heo gà, vườn ruộng, vàng bạc, của cải, thóc lúa, đó là pháp lão. Pháp lão này là nguồn gốc sinh tử khổ nơi hữu tình. Phàm phu, ngu tối gìn giữ những thứ này, nhiễm ái, đắm chấp, do đấy không thể thoát khỏi sinh tử nên gọi là pháp lão.
Thế nào là pháp bệnh?
Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ. Nói rộng ra cho đến… do đây không thể thoát khỏi sinh tử nên gọi là pháp bệnh.
Thế nào là pháp tử?
Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ. Nói rộng ra cho đến… do đấy không thể thoát khỏi sinh tử nên gọi là pháp tử.
Thế nào là pháp sầu?
Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ. Nói rộng ra cho đến… do đấy không thể thoát khỏi sinh tử nên gọi là pháp sầu.
Thế nào là pháp nhiễm?
Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ, voi ngựa, trâu dê, heo gà, vườn ruộng, vàng bạc, của cải, thóc lúa, đó là pháp nhiễm. Pháp nhiễm này là nguồn gốc của sinh tử khổ nơi các hữu tình.
Phàm phu ngu tối giữ gìn những thứ này, nhiễm ái đắm chấp, do đấy không thể thoát khỏi sinh tử, nên gọi là pháp nhiễm. Ai đối với những thứ này ưa thích, tầm cầu, nên biết đó là sự tầm cầu phi Thánh. Người tầm cầu như vậy, Như Lai hoàn toàn không khen ngợi, tán thán, chỉ khuyên bảo, dắt dìu, làm cho người đó biết để xả bỏ.
Vì sao?
Vì sự tầm câu phi Thánh như vậy, Như Lai hoàn toàn không khen ngợi, tán thán, chỉ khuyên nhủ, dắt dìu, làm cho biết để xả bỏ. Vì do việc tìm cầu ấy chẳng phải là pháp của Hiền Thánh, không thể xuất ly, không thể hướng đến Niết Bàn, không nhàm lìa, không tịch diệt, không đắc thông tuệ, không thành tựu Chánh Giác, không chứng Niết Bàn.
Do việc tầm cầu này đưa đến tất cả các pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não, bức bách. Đó là sự tầm cầu phi Thánh, nên Đức Như Lai hoàn toàn không khen ngợi, tán thán, chỉ khuyên nhủ, dắt dìu làm cho hiểu biết để xả bỏ.
Thế nào là sự tầm cầu của Bậc Thánh?
Nghĩa là có hạng người đã có pháp lão, có thể tự thấu tỏ: Ta có pháp lão, có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp lão, tìm cầu Niết Bàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp lão.
Hạng người đã có pháp bệnh, tự thấu tỏ: Ta có pháp bệnh, có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp bệnh, tìm cầu Niết Bàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp bệnh.
Hạng người đã có pháp tử, tự thấu tỏ: Ta có pháp tử. Có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp tử, tìm cầu Niết Bàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp tử.
Người đã có pháp sầu, tự thấu tỏ: Ta có pháp sầu. Có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp sầu, tìm cầu Niết Bàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp sầu.
Người đã có pháp nhiễm, tự thấu tỏ: Ta có pháp nhiễm, có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp nhiễm, tìm cầu Niết Bàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp nhiễm.
Như vậy gọi là sự tầm cầu bậc Thánh. Sự tầm cầu như vậy được tất cả các Đức Như Lai khen, ngợi tán thán.
Vì duyên gì mà tìm cầu của Bậc Thánh này được tất cả các Đức Như Lai khen ngợi, tán thán?
Do việc tầm cầu ấy là pháp của Hiền Thánh, có thể xuất ly hẳn, có thể hướng đến Niết Bàn, có thể chán lìa, tịch diệt, đắc thông tuệ, thành tựu Đẳng Chánh Giác, chứng Niết Bàn.
Do việc tìm cầu này có thể vượt khỏi tất cả pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não thiêu đốt, vì thế gọi là tầm cầu của Bậc Thánh, được tất cả các Đức Như Lai khen ngợi, tán thán nên gọi là tầm cầu có hai cách, hoàn toàn không có cách thứ ba.
Các ông nên học như vầy: Ta nên làm sao xa lìa sự tầm cầu phi Thánh như vậy. Ta nên làm sao để tu hành đúng như sự tầm cầu theo Bậc Thánh như vậy. Bí Sô các ông nên học như thế.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:
Tất cả loài hữu tình
Có hai cách tầm cầu
Hoàn toàn không có ba
Là Thánh và phi Thánh.
Không biết lão, bệnh, tử
Pháp sầu, nhiễm, lỗi lầm
Càng mong cầu ái, chấp
Gọi tầm cầu phi Thánh.
Các khổ này tăng trưởng
Không có ngày ra khỏi
Từ sinh lại đến sinh
Nơi nẻo cao và thấp.
Biết rõ lão, bệnh, tử
Pháp sầu, nhiễm, lỗi lầm
Mong cầu Niết Bàn giới
Gọi tầm cầu chân Thánh.
Các khổ được giảm bớt
Mau chứng đắc Niết Bàn
Luôn an lạc mát mẻ
Thường vô lậu không sợ.
Kẻ tầm cầu phi Thánh
Chư Phật thường quở trách
Là cội gốc sinh tử
Người trí nên xa lìa.
Người tầm cầu chân Thánh
Chư Phật thường khen ngợi
Là đường đến Niết Bàn
Người có trí nên tu.
Tóm tắt nơi bài kệ phần Kinh Bản Sự ở trước:
Vì thông đạt luật nghi
Chán tri cõi bất tịnh
Học Kinh, giác tu thiền
Thẹn, hành động, tầm cầu.
Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Pháp thiện trắng sạch, lược có hai loại, có thể hộ trì thế gian. Hai pháp đó là hổ và thẹn. Nếu không có hai pháp thiện trắng sạch này thì tất cả hữu tình trong thế gian đều thành tạp loạn, giống như trâu, dê, heo, gà, chó… không biết cha mẹ, anh em, chị em, không biết thầy hướng dẫn, Bổn Sư và các vị thầy khác.
Do đó hai pháp thiện trắng sạch này mà hữu tình ở thế gian lìa các tạp uế, không giống như các loài súc sanh… biết rõ cha mẹ, anh em, chị em. Biết rõ vị thầy hướng dẫn, Bổn Sư và các vị thầy khác.
Thế nên, các thầy nên học như vậy: Ta phải làm sao để thành tựu hai loại pháp thiện bạch tịnh là hổ, thẹn tối thắng này?
Bí Sô các ông nên học như vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba