Phật Thuyết Kinh Bảo Lăng Già A Bạt đa La - Phẩm Một - Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

BẢO LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống  

PHẨM MỘT

PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM  

PHẦN BA  

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát vì trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện, lại hỏi Như Lai rằng: Bạch Thế Tôn! Làm sao trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện của tất cả chúng sanh?

Ấy là pháp đốn hay tiệm ư?

Phật bảo Đại Huệ: Phi tiệm phi đốn, cũng tiệm cũng đốn. Nói tiệm, ví như trái Yêm Ma La tiệm chín mùi. Như đại địa tiệm sanh vạn vật, Như Lai trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện của tất cả chúng sanh cũng như thế, nói đốn, ví như gương sáng đốn hiện tất cả sắc tướng vô tướng.

Như ánh sáng mặt trời đốn soi tất cả sắc tướng, Như Lai trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện của tất cả chúng sanh cũng như thế.

Đại Huệ! Pháp y Phật thuyết tất cả pháp vào tự tướng và cộng tướng là tập khí do tự tâm hiện, vọng tưởng tương tục do tự tâm so sánh chấp trước, mỗi mỗi không thật như huyễn. Thật ra, mỗi mỗi so sánh chấp trước đều bất khả đắc.

Lại nữa, Đại Huệ! Vì so sánh chấp trước duyên khởi tự tánh, sanh ra tướng vọng tưởng của tự tánh.

Đại Huệ! Như nhà ảo thuật, nương cỏ cây, ngói đá làm ra đủ thứ cảnh vật huyễn hóa, do đó sanh khởi bao nhiêu hình sắc, sanh khởi đủ thứ vọng tưởng, những vọng tưởng kia vốn chẳng chân thật.

Như thế, Đại Huệ! Y theo tánh duyên khởi sanh khởi vọng tưởng, y mỗi mỗi vọng tưởng hình thành mỗi mỗi sự vật hiện hành, ấy gọi là y Phật thuyết pháp.

Đại Huệ! Nói Hóa Phật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, lìa ấm, giới, nhập, giải thoát, thức tướng phân biệt, là do quán xét kiến lập, siêu việt kiến chấp ngoại đạo và kiến chấp Cõi Vô Sắc.

Đại Huệ! Nói Pháp Phật, là lìa phan duyên, lìa tất cả sở tác, tướng căn và số lượng đều diệt, chẳng phải tướng ngã chấp và cảnh giới sở chấp của phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác và ngoại đạo. Ấy là do tướng cứu cánh sai biệt của Tự Giác Thánh Trí kiến lập.

Cho nên, Đại Huệ! Tướng cứu cánh sai biệt của tự giác Thánh trí nên siêng tu học, và kiến chấp do tự tâm hiện cần phải diệt trừ.

Lại nữa, Đại Huệ! Có hai thứ tướng phân biệt thông với thừa Thanh Văn, ấy là: Chấp tướng đắc tự giác Thánh sai biệt và tướng so sánh chấp trước tánh vọng tưởng của tự tánh.

Thế nào là tánh đắc tự giác Thánh sai biệt của Thanh Văn?

Ấy là cảnh giới Chân Đế, vô thường, khổ, không, vô ngã, lìa dục tịch diệt, dứt ấm, giới, nhập, tự cộng tướng, ngoài bất hoại tướng, như thật biết tâm được tịch lặng.

Tâm tịch lặng xong, được thiền định giải thoát tam muội đạo quả. Nhưng chánh thọ giải thoát ấy chẳng lìa tập khí biến dịch sanh tử bất tư nghì, đắc tự giác Thánh, ham trụ thừa Thanh Văn, ấy gọi là tướng đắc tự giác Thánh sai biệt của Thanh Văn.

Đại Huệ! Ham trụ đắc tự giác Thánh sai biệt của Đại Bồ Tát, chẳng phải ham pháp môn diệt và ham chánh định, chỉ vì thương xót chúng sanh, và theo đúng bản nguyện mà không thủ chứng.

Đại Huệ! Đại Bồ Tát đối với các tướng đắc tự giác Thánh sai biệt của thừa Thanh Văn ham thích, chẳng nên tu học.

Đại Huệ! Thế nào là so sánh chấp trước tánh vọng tưởng tự tánh của thừa Thanh Văn?

Ấy là đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng, địa, thủy, hỏa, phong, chẳng do tạo tác mà sanh tự tướng, cộng tướng, chỉ là cái phương tiện của Phật thuyết.

Người Thanh Văn do đó khởi tự tánh vọng tưởng, Đại Bồ Tát đối với pháp ấy nên biết nên xả, liền nhập pháp vô ngã tướng và diệt nhân vô ngã tướng, lần lượt tiến đến chư địa, ấy gọi là tướng so sánh chấp trước tánh vọng tưởng tự tánh của thừa Thanh Văn.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thế Tôn sở thuyết cảnh giới thường bất tư nghì của đệ nhất Thánh trí và cảnh giới đệ nhất nghĩa, chẳng phải những ngoại đạo sở thuyết nhân duyên thường bất tư nghì ư?

Phật bảo Đại Huệ: Chẳng phải nhân duyên đắc thường bất tư nghì của ngoại đạo.

Tại sao?

Thường bất tư nghì của những ngoại đạo, chẳng do tự tướng thành.

Nếu thường bất tư nghì chẳng do tự tướng thành thì cớ sao được hiển hiện thường bất tư nghì?

Lại nữa, Đại Huệ! Bất tư nghì nếu do tự tướng thành thì ắt phải là pháp thường, nếu do người làm ra thì chẳng thể thành thường bất tư nghì, vì do làm mới có, chẳng phải thường có vậy.

Đại Huệ! Ta nói đệ nhất nghĩa thường bất tư nghì, tướng nhân thành đệ nhất nghĩa là lìa tánh phi tánh, nên đắc tướng tự giác mà vô tướng.

Cái nhân của đệ nhất nghĩa trí, vì có cái nhân lìa tánh phi tánh, ví như hư không vô tác, Niết Bàn tận diệt, nên chính pháp ấy tự thường, chẳng do tạo tác thành thường. Như thế, chẳng đồng với định luận thường bất tư nghì của ngoại đạo.

Đại Huệ! Thường bất tư nghì này do chư Như Lai tự giác Thánh trí chứng đắc, nên thường bất tư nghì của tự giác Thánh trí, cần phải tu học.

Lại nữa, Đại Huệ! Pháp thường bất tư nghì của ngoại đạo chẳng có tánh thường, vì có cái nhân của tướng khác, chẳng phải cái nhân của sức tướng tự thành.

Lại nữa, Đại Huệ! Pháp thường bất tư nghì của ngoại đạo có sở tác, tánh phi tánh vô thường, theo kiến chấp suy tư tự cho là thường.

Đại Huệ! Pháp ta cũng dùng nhân duyên như thế, vì tánh phi tánh, chẳng lập sở tác, chẳng có thường kiến, nơi cảnh giới tự giác Thánh trí, nói cái thường ấy tự vô nhân chẳng có sự bắt đầu.

Đại Huệ! Nếu các ngoại đạo lập cái nhân tướng thành thường bất tư nghì, lập cái nhân của tự tướng, nói tánh phi tánh, thì đồng như sừng thỏ, vì pháp thường bất tư nghì của họ chỉ có ngôn thuyết vọng tưởng. Bọn ngoại đạo có cái lỗi như thế.

Tại sao?

Vì chỉ có ngôn thuyết vọng tưởng, đồng như sừng thỏ, chẳng phải do tự tướng vốn sẵn đầy đủ.

Đại Huệ! Pháp thường bất tư nghì của ta do tướng tự giác chứng đắc, lìa sở tác, tánh phi tánh, nên tự vốn là thường, chẳng phải ngoài tánh phi tánh, suy nghĩ pháp vô thường cho là thường.

Đại Huệ! Nếu ngoài tánh phi tánh, pháp vô thường suy nghĩ cho là thường, là cái thuyết thường bất tư nghì của ngoại đạo.

Vì họ chẳng biết cái tướng của tự nhân thường bất tư nghì vốn san đầy đủ, nên xa cách với tướng cảnh giới đắc tự giác thánh trí, họ chẳng nên thuyết.

Lại nữa, Đại Huệ! Các Thanh Văn sợ cái khổ của vọng tưởng sanh tử mà cầu Niết Bàn, chẳng biết tất cả tánh sai biệt của sanh tử Niết Bàn là vọng tưởng phi tánh, do cảnh giới các căn thôi nghĩ, cho là Niết Bàn, chẳng phải chuyển tạng thức thành tự giác Thánh trí vậy.

Thế nên, Phật đối với phàm phu nói có tam thừa, nói những tâm lượng vốn chẳng thật có, họ chẳng biết cảnh giới tự tâm hiện của chư Như Lai nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, mà so sánh chấp trước cảnh giới ngoài tâm hiện, nên thường lưu chuyển trong vòng sanh tử.

Lại nữa, Đại Huệ! Tất cả pháp vốn vô sanh, ấy là quá khứ, hiện tại, vị lai Chư Phật sở thuyết.

Tại sao?

Nói tự tâm hiện, là tánh phi tánh, lìa hữu phi hữu mà sanh.

Đại Huệ! Tất cả tánh vô sanh thì tất cả pháp như sừng thỏ, mà phàm phu ngu si, vì tự tánh vọng tưởng chấp cho là thật.

Đại Huệ! Tất cả pháp vô sanh, là cảnh giới của tự giác Thánh trí, tất cả tướng tự tánh của tất cả tánh vốn vô sanh, chẳng phải hai thứ cảnh giới vọng tưởng nhị kiến của phàm phu, kiến lập tướng tự tánh của sắc thân và tài sở hữu của thân.

Đại Huệ! Chuyển cái tướng năng nhiếp, sở nhiếp của tạng thức mà phàm phu đọa vào nhị kiến của sanh, trụ, diệt, hy vọng tất cả tánh có sanh, sanh những vọng tưởng hữu và phi hữu, chẳng phải Thánh Hiền vậy.

Lại nữa, Đại Huệ! Có năm thứ chủng tánh vô gián.

Thế nào là năm?

Ấy là: Thanh Văn thừa vô gián chủng tánh, Duyên Giác thừa vô gián chủng tánh, Như Lai thừa vô gián chủng tánh, bất định chủng tánh và các biệt chủng tánh ngoại đạo chủng tánh.

Thế nào là Thanh Văn thừa vô gián chủng tánh?

Nếu có người nghe nói đến ấm, giới, nhập, tự cộng tướng, lúc ấy lỗ chân lông toàn thân cảm thấy nhẹ nhàng yên vui và ham tu trí tướng, chẳng tu tướng duyên khởi phát ngộ, khởi tâm đoạn dứt tập khí phiền não, nhưng chẳng đoạn, chẳng độ bất tư nghì biến dịch sanh tử, chỉ độ phần đoạn sanh tử.

Cho là sanh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, sau này chẳng thọ sanh nữa, như thật biết tu tập nhân vô ngã, cho đến chứng đắc Niết Bàn của Thanh Văn, ấy gọi là Thanh Văn thừa vô gián chủng tánh.

Đại Huệ! Thế nào là Duyên Giác thừa vô gián chủng tánh?

Nếu có người nghe nói những khác biệt của nhân duyên vô gián, toàn thân lông dựng lên, rơi lệ dầm dề, đối với những tướng chẳng phải mười hai nhân duyên thì cảm thấy không thích, mỗi mỗi tự thân mỗi mỗi thần thông, hoặc lìa hoặc hợp, đủ thứ biến hóa, lúc nghe thuyết này, tâm liền ngộ nhập.

Nếu biết họ thuộc về Duyên Giác thừa vô gián chủng tánh rồi, tùy thuận căn tánh của họ mà vì họ thuyết pháp Duyên Giác thừa, ấy gọi là tướng Duyên Giác thừa vô gián chủng tánh.

Đại Huệ! Như Lai thừa vô gián chủng tánh có bốn thứ:

1. Tự tánh pháp vô gián chủng tánh.

2. Lìa tự tánh pháp vô gián chủng tánh.

3. Đắc tự giác Thánh vô gián chủng tánh.

4. Ngoài sát thù thắng ngoài Quốc Độ thù thắng, có nghĩa là Vô sở trụ vô gián chủng tánh.

Đại Huệ! Nếu người nghe thuyết bốn việc này, và lúc nghe thuyết cảnh giới bất tư nghì thân tài ngã và ngã sở kiến lập do tự tâm hiện, tâm chẳng kinh sợ, ấy gọi là tướng Như Lai thừa vô gián chủng tánh.

Đại Huệ! Bất định chủng tánh là: Khi người nghe thuyết ba thứ chủng tánh kể trên, tùy theo lúc nghe chủng tánh nào thì ngộ nhập chủng tánh ấy, theo đó tu tập mà thành tựu.

Như nghe thuyết thừa Thanh Văn thì thành chủng tánh Thanh Văn, nghe thuyết thừa Duyên Giác thì thành chủng tánh Duyên Giác, nghe thuyết thừa Như Lai thì thành chủng tánh Như Lai, ấy gọi là bất định chủng tánh.

Đại Huệ! Các biệt vô gián là: Những chúng sanh còn chấp thật kiến giác như ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, tăng trưởng thiện căn, sĩ phu v.v... mà cầu chứng Niết Bàn.

Lại nghe lời thuyết pháp của ngoại đạo, cho tất cả tánh đều có kẻ tác, nói đó là Niết Bàn, cho như thế là giác ngộ, đối với pháp vô ngã chẳng có phần, nên họ không thể giải thoát.

Ấy là những người tu Thanh Văn thừa mà thuộc về ngoại đạo vô gián chủng tánh, chẳng xuất luân hồi mà cho là xuất, ấy gọi là các biệt vô gián chủng tánh.

Đại Huệ! Người sơ trị địa nói kiến lập chủng tánh là vì muốn siêu nhập vô sở hữu địa, nên có sự kiến lập này. Người tự tu tự giác, phải dứt sạch tập khí phiền não, thấy pháp vô ngã, từ đắc tam muội của Thanh Văn, cho đến năm thứ chủng tánh kia, cuối cùng đều sẽ chứng đắc pháp thân tối thắng của Như Lai.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Tu Đà Hoàn nhập lưu,

Tư Đà Hàm vãng lai.

A Na Hàm Bất Hoàn,

Đến quả A La Hán.

Gọi là thừa Thanh Văn.

Tam thừa và nhất thừa,

Phi thừa đúng ta thuyết.

Phàm phu kém trí huệ.

Chư Thánh xa lìa tịch.

Pháp môn đệ nhất nghĩa,

Xa lìa giáo nhị thừa,

Trụ nơi vô sở hữu.

Sao lại lập tam thừa.

Chư Thiền pháp vô lượng,

Vô Sắc Tam Ma Đề,

Thọ tưởng thảy tịch diệt.

Cũng chẳng có tâm lượng.

Đại Huệ! Nói nhất xiển đề thật chẳng phải nhất xiển đề.

Nếu nhất xiển đề là thật, thì ai chuyển được ai?

Vậy thế gian làm sao giải thoát?

Đại Huệ! Có hai thứ nhất xiển đề:

1. Xả bỏ tất cả thiện căn và xả bỏ phát nguyện chúng sanh từ vô thỉ.

Sao nói xả bỏ tất cả thiện căn?

Ấy là vì phỉ báng Bồ Tát Tạng và nói lời ác rằng: Chẳng phải tùy thuận Kinh luật mà được giải thoát. Vì xả bỏ tất cả thiện căn nên chẳng thể chứng nhập Niết Bàn.

2. Bồ Tát vì độ tất cả chúng sanh được chứng Niết Bàn mà có bản nguyện phương tiện tự chẳng thủ chứng Niết Bàn.

Đại Huệ! Pháp Niết Bàn kia, gọi là pháp tướng chẳng Niết Bàn. Đây cũng thuộc về loại nhất xiển đề.

Đại Huệ bạch Phật rằng: Thế Tôn! Tại sao nhất định chẳng thủ chứng Niết Bàn?

Phật bảo Đại Huệ: Bồ Tát nhất xiển đề, biết tất cả pháp vốn đã là Niết Bàn, chẳng cầu thủ chứng Niết Bàn nữa, mà chẳng phải xả bỏ tất cả thiện căn, thành nhất xiển đề kia vậy.

Đại Huệ! Người nhất xiển đề xả bỏ tất cả thiện căn, lại nhờ thần lực Như Lai, cũng có thể tái phát thiện căn.

Tại sao?

Vì Như Lai chẳng xả bỏ tất cả chúng sanh. Do đó, nên nói Bồ Tát nhất xiển đề chẳng thủ chứng Niết Bàn.

Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát phải thấu hiểu ba thứ tự tánh.

Thế nào là ba thứ tự tánh?

Ấy là: Vọng tưởng tự tánh biến kế sở chấp, nhân duyên tự tánh y tha khởi và thành tựu tự tánh viên thành thật. Vọng tưởng tự tánh do chấp trước tướng sanh.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Sao nói vọng tưởng tự tánh từ tướng sanh?

Phật bảo Đại Huệ: Sự tướng của duyên khởi tự tánh, do tướng hành hiển bày tướng sự, đối với tướng so đo chấp trước, thành có hai tướng vọng tưởng tự tánh, do Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phương tiện kiến lập, gọi là danh tướng chấp trước tướng và sự tướng chấp trước tướng.

Nói danh tướng chấp trước tướng là chấp trước các pháp trong ngoài. Sự tướng chấp trước tướng là theo việc trong ngoài của tự tướng cộng tướng sanh khởi chấp trước như thế. Ấy gọi là tướng của hai thứ vọng tưởng tự tánh, vì nương theo nhân duyên mà sanh nên gọi là duyên khởi tự tánh.

Thế nào là thành tựu tự tánh?

Ấy là lìa vọng tưởng của hai thứ danh tướng và sự tướng, tức là cảnh giới sở hành của tự giác thánh trí do Thánh trí sở chứng đắc, ấy gọi là thành tựu tự tánh, cũng gọi là tâm Như Lai tạng.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Danh tướng và phân biệt,

Với hai thứ tự tánh.

Chánh trí và như như,

Thành tựu năm pháp tướng.

Đại Huệ! Ấy gọi là quán sát ngũ pháp tự tánh tướng Kinh. Cảnh giới sở hành của Kinh này là ý thú tự giác thánh trí, chúng Đại Bồ Tát cần phải tu học.

Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát khéo quán hai thứ tướng vô ngã.

Thế nào là hai thứ tướng vô ngã?

Ấy là nhân vô ngã và pháp vô ngã.

Thế nào nhân vô ngã trí?

Là lìa ngã và ngã sở, lìa tụ duyên của ấm, giới, nhập, lìa sự sanh khởi vô minh nghiệp ái, lục căn nhiếp thọ lục trần sanh ra lục thức, những chấp trước ấy đều phải lìa.

Vì tất cả căn, thân chánh báo, khí giới y báo đều do tự tâm hiện, là tướng của tự vọng tưởng, như dòng nước, như chủng tử, như đèn, như gió, như mây, sát na lần lượt hoại.

Thô động như khỉ vượn, ưa chỗ bất tịnh như con ruồi, không biết đủ như gió thổi lửa, nhân tập khí hư ngụy từ vô thỉ như bánh xe đạp nước, đủ thứ thân sắc, sanh tử luân hồi trong lục đạo như huyễn thuật và Thần Chú mà tùy cơ phát khởi trí huệ, khéo biết tất cả tướng kia đều chẳng thật thì phá được nhân ngã chấp, ấy gọi là như vô ngã trí.

Thế nào là pháp vô ngã trí?

Biết ấm, giới, nhập là vọng tưởng, tướng tự tánh, lìa ngã, ngã sở, những ấm, giới, nhập tích tụ, do dây trói của nghiệp ái lần lượt duyên nhau sanh khởi, thật tướng vốn chẳng lay động, các pháp cũng thế.

Lìa tướng vọng tưởng tự cộng tướng chẳng thật, do sức vọng tưởng của phàm phu sanh ra, chẳng phải Thánh Hiền, vì tự tánh lìa tâm, ý, ý thức và năm pháp.

Đại Huệ! Đại Bồ Tát khéo quán tất cả pháp vô ngã, khéo tu pháp vô ngã, thì Đại Bồ Tát chẳng bao lâu sẽ chứng đắc Sơ Địa, quán tướng địa vô sở hữu, quán sát mở mang giác huệ, đến hoan hỷ địa, lần lượt tiến lên, siêu việt tướng Cửu Địa, chứng pháp Vân địa.

Ngay đó biến lập vô lượng bửu trang nghiêm, ngồi đại bửu Liên Hoa trong đại bửu cung điện, đồng một loại như tướng Vua, có những quyến thuộc Bồ Tát từ tất cả Cõi Phật đến vây quanh, được tay Phật quán đảnh, giống như sự quán đảnh của Thái Tử Chuyển Luân Thánh Vương.

Từ phàm phu tu tập, sanh khởi cảnh giới huyễn của tự tánh, tới điạ vị siêu Phật Tử, cho đến pháp tự giác Thánh trí, sẽ được pháp thân tự tận của Như Lai, hiện pháp vô ngã, ấy gọi là pháp vô ngã tướng. Chúng Đại Bồ Tát cần nên tu học.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Cúi xin Phật thuyết pháp kiến lập và phủ định, khiến con và Chư Đại Bồ Tát lìa kiến lập và phủ định của ác kiến nhị biên, chóng được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Thế Tôn hứa khả sự thỉnh cầu của Đại Huệ Bồ Tát mà thuyết kệ rằng:

Kiến lập và phủ định,

Vốn chẳng có tâm lượng.

Thân thọ dụng kiến lập,

Tâm phàm chẳng thể biết.

Ngu si chẳng trí huệ,

Chấp kiến lập phủ định.

Khi ấy, Thế Tôn muốn hiển bày đại nghĩa này mà bảo Đại Huệ rằng:

Có bốn thứ phi hữu mà lại có kiến lập.

Thế nào là bốn?

1. Phi hữu tướng kiến lập.

2. Phi hữu kiến kiến lập.

3. Phi hữu nhân kiến lập.

4. Phi hữu tánh kiến lập.

Ấy gọi là bốn thứ kiến lập.

Còn nói phủ định nghĩa là: Ở nơi sở lập kia vốn vô sở đắc, vì quán sát sai lầm mà khởi tâm phủ định, ấy gọi là tướng kiến lập phủ định.

Lại nữa, Đại Huệ! Thế nào là phi hữu tướng kiến lập tướng?

Ấy là: Tự cộng tướng của ấm giới nhập vốn phi hữu mà khởi tâm chấp trước, cho là thế này thế kia, gọi là phi hữu tướng kiến lập tướng. Phi hữu tướng kiến lập tướng này, là lỗi vọng tưởng hư ngụy từ vô thỉ, do đủ thứ tập khí kiến chấp mà sanh khởi.

Đại Huệ! Phi hữu kiến kiến lập tướng là kiến chấp ấm, giới, nhập, ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, nuôi dưỡng thiện căn kẻ làm, sĩ phu kẻ thọ nhận, v.v... như thế gọi là phi hữu kiến kiến lập tướng.

Phi hữu nhân kiến lập tướng là khi ý thức sơ khởi chẳng từ nhân sanh, lúc trước vốn chẳng sanh, lúc sau mới như huyễn mà sanh, vốn chẳng có vật làm nhân.

Như nhãn thức do vọng tưởng sắc, không, sáng tối mà sanh thức, thức sanh rồi liền diệt, ấy gọi là phi hữu nhân kiến lập tướng.

Đại Huệ! Phi hữu tánh kiến lập tướng là tự tánh của ba pháp vô vi: Hư không, Niết Bàn và trạch diệt do sức trí huệ mà chứng đắc pháp diệt vốn chẳng có tự tánh, như lông rùa sừng thỏ, lìa có và không mà hiện, ấy gọi là phi hữu tánh kiến lập tướng.

Kiến lập và phủ định là do vọng tưởng của phàm phu chẳng khéo quán sát tự tâm hiện lượng, chẳng phải chỗ thấy của Thánh Hiền. Bậc Đại Bồ Tát nên siêng tu học, lìa hai thứ ác kiến kiến lập và phủ định.

Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát phải khéo biết tâm, ý, ý thức, năm pháp của tự tánh và hai thứ tướng vô ngã. Vì sự yên ổn của chúng sanh, nên tiến đến cứu cánh.

Như hạt châu như ý hiện ra đủ thứ sắc tướng, là do nhân duyên vọng tưởng phân biệt mà sanh khởi, đại chúng nơi tất cả pháp hội của Như Lai, nghe Phật thuyết pháp như mộng huyễn, như ánh sáng, như bóng trăng trong nước, pháp ấy lìa sanh diệt đoạn thường và lìa Thanh Văn, Duyên Giác, được trăm ngàn tam muội, cho đến trăm ngàn ức na do tha tam muội.

Đắc tam muội xong, dạo khắp các Cõi Phật, cúng dường Chư Phật, lên các Thiên cung Hoằng Dương Tam Bảo, thị hiện thân Phật, có chúng Thanh Văn, Bồ Tát vây quanh.

Dùng tự tâm hiện lượng để độ thoát chúng sanh, phân biệt diễn thuyết ngoài tánh vô tánh, khiến thảy đều xa lìa kiến chấp có và không v. v...

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Phật Tử khéo quán sát,

Thế pháp do tâm tạo.

Thị hiện đủ thứ thân,

Sức thần thông tự tại.

Tất cả đều thành tựu,

Sở tác vô chướng ngại.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Cúi xin Thế Tôn vì chúng con thuyết tất cả pháp tánh không, lìa tướng tự tánh vốn vô sanh bất nhị, khiến chúng con và chư Bồ Tát giác ngộ, lìa hai thứ vọng tưởng có và không, vô sanh, bất nhị và lìa tướng tự tánh.

Đại Huệ! Nói sơ lược có bảy thứ không là: Tướng không, tự tánh không, hành không, vô hành không, tất cả pháp lìa ngôn thuyết không, đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không và bỉ bỉ không.

Thế nào là tướng không?

Ấy là tự tướng cộng tướng của tất cả pháp không, vì tướng tự tha và cộng đều chẳng thể sanh, do vọng tưởng phân biệt đối đãi với nhau tích tụ mới có. Nếu quán sát phân tích thì cứu cánh là vô tánh. Vì vô tánh nên tánh chẳng trụ, nên nói tất cả tánh tướng không, gọi là tướng không.

Thế nào là tánh tự tánh không?

Ấy là tự tánh của chính mình vốn vô sanh, tức là tự tánh của tất cả pháp không, nên nói tánh của tự tánh không.

Thế nào là hành không?

Ấy là hành ấm lìa ngã, ngã sở, do tác nghiệp sở thành, nghĩa là từ nhân duyên hòa hợp mà sanh, ấy gọi là hành không.

Thế nào là vô hành không?

Duyên nhau sanh khởi theo hành không như thế này, tự tánh vốn vô tánh, ấy gọi là vô hành không.

Thế nào là tất cả pháp lìa ngôn thuyết không?

Vì vọng tưởng tự tánh chẳng có ngôn thuyết, nên tất cả pháp lìa ngôn thuyết, ấy gọi là tất cả pháp lìa ngôn thuyết không.

Thế nào là tất cả pháp đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không?

Vì người đắc tự giác Thánh trí thì tất cả kiến chấp tập khí đều không, ấy gọi là tất cả pháp đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không.

Thế nào bỉ bỉ không?

Nghĩa là ở nơi kia chẳng có cái không kia, gọi là bỉ bỉ không.

Đại Huệ! Ví Như người mẹ của Lộc Tử là nữ Cư Sĩ Tỳ Xá, vì xây dựng Tịnh Xá cho Tỳ Kheo ở, chẳng nuôi voi, ngựa, trâu, dê v.v...

Nay nói bỉ không, chẳng phải nơi kia không có chúng Tỳ Kheo, cũng chẳng phải Tịnh Xá trống rỗng không, cũng chẳng phải Tỳ Kheo tánh không, cũng chẳng phải chỗ khác không có voi, ngựa, nghĩa là tự tướng của tất cả pháp, cái kia, ở nơi kia chẳng có cái kia, ấy gọi là bỉ bỉ không. Nói chung trong bảy thứ không, bỉ bỉ không là cái không rất thô, ngươi nên xa lìa.

Đại Huệ! Nói chẳng tự sanh chẳng phải vô sanh, ngoài trụ chánh định ra, gọi là vô sanh, nghĩa là lìa tự tánh tức là vô sanh. Sự lưu chú tương tục từng sát na vốn lìa tự tánh và tánh dị thục lúc sau chín mùi hiện ra tất cả tánh đều lìa tự tánh, cho nên nói tất cả tánh lìa lự tánh.

Sao nói bất nhị?

Vì tất cả pháp như âm, dương, dài, ngắn, trắng, đen v.v... đều là nhị, vì các tướng làm nhân với nhau mới có, chẳng phải ngoài Niết Bàn có sanh tử, chẳng phải ngoài sanh tử có Niết Bàn, sanh tử Niết Bàn chẳng có tướng trái nhau: Tất cả pháp cũng như thế, nên gọi là bất nhị. Cho nên pháp không, pháp vô sanh, pháp bất nhị, pháp lìa tướng tự tánh cần nên tu học.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Ta thường nói pháp không,

Xa lìa nơi đoạn thường.

Sanh tử như mộng huyễn,

Mà nghiệp tánh chẳng hoại.

Hư không và Niết Bàn,

Tịch diệt cũng như thế.

Phàm phu chấp vọng tưởng,

Bậc Thánh lìa hữu vô.

Khi ấy, Thế Tôn lại bảo Đại Huệ rằng: Đại Huệ! Pháp không, pháp vô sanh, pháp bất nhị, pháp lìa tự tánh v.v... đều có ghi vào Kinh Giáo của Phật, tất cả Kinh Điển đều thuyết nghĩa này.

Vì tùy thuận tâm hy vọng của chúng sanh mà phương tiện phân biệt thuyết để hiển bày nghĩa lý chẳng phải ở nơi ngôn thuyết có sự chân thật.

Như bầy nai khát nước, mê hoặc đuổi theo dương diệm ánh nắng mặt trời phản chiếu cho là nước, nhưng dương diệm chẳng phải nước thật. Các pháp sở thuyết của Phật ghi trong Kinh Điển cũng như thế.

Vì muốn khiến phàm phu phát tâm hoan hỷ, tinh tấn tu hành, chẳng phải có Thánh trí thật ở nơi ngôn thuyết. Cho nên phải nương theo nghĩa, chớ chấp ngôn thuyết.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần