Phật Thuyết Kinh Bảo Lăng Già A Bạt đa La - Phẩm Một - Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

BẢO LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống  

PHẨM MỘT

PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM  

PHẦN MỘT  

Ta nghe như vậy, một hôm Phật ở trên đảnh núi Lăng Già tại bờ biển Nam, có đủ các thứ hoa báu trang nghiêm, khi ấy các Đại Tỳ Kheo Tăng và chúng Đại Bồ Tát từ các Cõi Phật đến, những Đại Bồ Tát ấy đều đủ sức tự tại, vô lượng chánh định, du hý thần thông.

Bồ Tát Đại Huệ là bậc thượng thủ đại diện đương cơ của Kinh này, được tất cả Chư Phật đích thân làm phép quán đảnh, cảnh giới tự tâm hiện lượng của Ngài đối với mọi chúng sanh, mọi tâm và sắc.

Vô lượng pháp môn, cho đến năm pháp của tự tánh và hai thứ vô ngã đều được từng loại phổ hiện, khéo giải nghĩa lý, thông đạt cứu cánh.

Khi ấy, Bồ Tát Đại Huệ cùng Bồ Tát Ma Đế dạo khắp tất cả Cõi Phật, và thừa oai thần của Phật từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, chắp tay quỳ gối, cung kính dùng kệ tán thán rằng:

Thế gian lìa sanh diệt

Như hoa đốm trên không.

Trí chẳng trụ hữu, vô,

Mà khởi tâm đại bi.

Tất cả pháp như huyễn,

Xa lìa nơi tâm thức.

Trí chẳng trụ hữu, vô,

Mà khởi tâm đại bi.

Xa lìa chấp đoạn thường,

Pháp thế gian như mộng.

Trí chẳng trụ hữu, vô,

Mà khởi tâm đại bi.

Biết nhân pháp vô ngã

Phiền não và nhĩ diệm

Thường trong sạch vô tướng,

Mà khởi tâm đại bi.

Niết Bàn chẳng thể lập,

Chẳng có Niết Bàn Phật,

Chẳng có Phật Niết Bàn,

Lìa năng giác, sở giác.

Hoặc có hoặc không có,

Cả hai thảy đều lìa.

Pháp thiền quán tịch tịnh,

Vốn lìa sự sanh khởi.

Chẳng đời này đời sau,

Gọi là chẳng thủ xả.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát nói kệ tán thán xong, tự xưng tên họ rằng:

Con tên là Đại Huệ,

Thông đạt pháp đại thừa

Một trăm lẻ tám câu,

Dùng kệ hỏi Thế Tôn.

Đức Phật nghe kệ rồi,

Quán sát tất cả chúng.

Bảo các Phật Tử rằng,

Nay cho mặc tình hỏi.

Tôi sẽ vì các ngươi,

Thuyết cảnh giới tự giác.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát kính vâng lời Phật, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính, dùng kệ hỏi rằng:

Thế nào niệm trong sạch?

Thế nào niệm tăng trưởng?

Tại sao thấy mê hoặc?

Mê hoặc sao tăng trưởng?

Cách giáo hóa Cõi Phật,

Chúng sanh và ngoại đạo?

Thế nào thọ, vô thọ?

Tại sao gọi vô thọ?

Phật Tử là nghĩa gì?

Giải thoát đến mức nào?

Ai trói ai giải thoát?

Cảnh giới thiền ra sao?

Tại sao có tam thừa?

Mong Phật giải thích cho.

Duyên khởi từ đâu sanh?

Sao nói tác, sở tác?

Sao có pháp đồng dị,

Giảm bớt và tăng trưởng?

Sao gọi vô sắc định,

Và gọi chánh định diệt?

Thế nào là tưởng diệt?

Vì sao có xuất định?

Tại sao sanh sở tác,

Tinh tấn và trì thân

Thế nào hiện phân biệt?

Chư Địa từ đâu sanh?

Phá tam giới là ai?

Thân này là thân gì?

Vãng sanh đến nơi nào?

Bồ Tát Tối Thắng Tử,

Nhân gì đắc thần thông,

Và tự tại tam muội?

Sao gọi tam muội tâm?

Cúi xin vì con nói.

Chữ Tạng là nghĩa gì?

Sao gọi ý và thức?

Sanh diệt là thế nào?

Sở kiến trả về được,

Năng kiến trả về đâu?

Thế nào là tâm lượng,

Chủng tánh phi chủng tánh?

Làm sao kiến lập tướng,

Nghĩa ngã và phi ngã?

Sao nói chẳng chúng sanh?

Sao gọi thuyết thế tục?

Cách nào chẳng sanh khởi,

Đoạn kiến và thường kiến?

Chư Phật và ngoại đạo,

Tại sao chẳng trái nhau?

Phật tánh vốn bất nhị,

Tại sao đời vị lai,

Nhiều bộ phái khác nhau?

Nhân gì lập nghĩa không?

Sao nói sát na hoại?

Thai tạng sanh là gì?

Thế pháp sao chẳng động?

Nhân gì như mộng huyễn,

Như thành Càn Thát Bà,

Như bóng trăng trong nước?

Thế gian như dương diệm,

Sao lại nói giác chi,

Và thất bồ đề phần?

Quốc Độ sao hỗn loạn?

Tại sao chấp hữu kiến?

Thế nào chẳng sanh diệt,

Thế pháp như hoa đốm?

Cách nào giác thế gian,

Thuyết pháp lìa văn tự?

Lìa vọng tưởng là ai?

Sao dụ như hư không?

Mấy thứ pháp như thật?

Mấy tâm Ba la mật?

Nhân gì độ chư địa,

Đến nơi vô sở thọ,

Và hai thứ vô ngã?

Làm sao cảnh trí sạch?

Trí huệ có mấy thứ?

Giới tánh có bao nhiêu?

Hạt chân châu Ma Ni,

Thật tánh từ đâu sanh?

Ai lập ra ngữ ngôn,

Và chủng tánh chúng sanh?

Sáng sủa và kỹ thuật,

Do đâu mà hiển bày?

Kệ tụng có mấy thứ,

Tụng dài và tụng ngắn,

Tất cả có mấy thứ?

Thế nào gọi là luận?

Sao có sự ăn uống,

Và sanh những ái dục?

Tại sao gọi là Vua,

Chuyển Luân và Tiểu Vương?

Cõi Trời có mấy thứ?

Hộ vệ Quốc Độ nào?

Thế nào gọi là địa,

Tinh tú và nhật nguyệt?

Người tu hành giải thoát,

Mỗi môn có mấy thứ?

Đệ tử có mấy loại?

Sao gọi A Xà Lê?

Phật có bao nhiêu thứ?

Sự sanh có mấy loại?

Ma và các ngoại đạo,

Mỗi mỗi có mấy thứ?

Tự tánh và bản tâm,

Có mấy thứ riêng biệt?

Những số lượng thi thiết?

Niệm thông minh là gì?

Cúi xin Phật khai thị.

Hư không và gió mây,

Cây cỏ và rừng rậm,

Tất cả là thế nào?

Tại sao lại bắt lấy,

Những loài voi, ngựa, nai?

Thế nào là thấp hèn?

Nhân gì mà thấp hèn?

Làm sao dứt lục căn?

Sao gọi Nhất xiển đề?

Nam nữ, phi nam nữ?

Từ đâu mà sanh khởi?

Thế nào phát tâm tu?

Sao lại tu lui sụt?

Thiền sư dùng pháp gì?

Dạy cho những người nào?

Chúng sanh vào các cõi,

Tướng nào thuộc loại nào?

Thế nào là giàu sang?

Nhân gì được giàu sang?

Thế nào là thích chủng?

Nhân gì được thích chủng?

Thế nào dòng cam giá?

Xin Thế Tôn giải thuyết.

Những Tiên Nhân khổ hạnh,

Truyền thọ như thế nào?

Sao thân Phật hiển hiện,

Khắp thời gian không gian,

Có đủ loại chúng sanh,

Và Bồ Tát nhiễu quanh?

Tại sao chẳng ăn thịt?

Tại sao cấm ăn thịt?

Những loại nào ăn thịt?

Nhân gì phải ăn thịt?

Sao hình thành nhật nguyệt,

Tu Di và Liên Hoa.

Cõi nước rất thù thắng,

Trùm khắp cả Thế Giới?

Như lưới báu Đế Thích,

Tất cả những trân bửu.

Cây đàn dáng trống cơm,

Và đủ loại hương hoa,

Sáng chói lìa nhật nguyệt,

Mỗi mỗi đều vô lượng?

Thế nào là hóa Phật?

Thế nào báo thân Phật?

Thế nào như như Phật?

Thế nào trí huệ Phật?

Tại sao nơi Dục Giới,

Chẳng thành Đẳng Chánh Giác?

Sao Cõi Sắc Cứu Cánh,

Lìa dục đắc bồ đề?

Chư Phật nhập Niết Bàn,

Ai duy trì chánh pháp?

Như Lai và chánh pháp,

Được trụ thế bao lâu?

Thành tựu và kiến chấp,

Mỗi loại bao nhiêu thứ?

Từ giới luật Tỳ Kheo,

Thanh Văn và Duyên Giác,

Cho đến bậc Bồ Tát,

Nhân duyên gì kiến lập?

Nhân gì nhiều biến đổi?

Tại sao vô sở thọ?

Thế tục thông là gì?

Tại sao xuất thế gian?

Thế nào là Thất Địa?

Cúi xin Phật diễn thuyết.

Tăng Già có mấy loại?

Thế nào phá hoại Tăng?

Y phương luận là gì?

Bởi do nhân duyên gì,

Sao lại Phật Thế Tôn,

Thuyết những lời như thế:

Ca Diếp Phật, Câu Lưu Tôn Phật,

Câu Na Hàm Phật là ta?

Cớ sao nói đoạn thường?

Có ngã và vô ngã?

Sao không tất cả thời,

Đều diễn chân thật nghĩa?

Mà lại vì chúng sanh,

Phân biệt thuyết tâm lượng?

Tại sao cõi Ta Bà,

Núi Kim Cang, Thiết Vi,

Tất cả đều sung mãn,

Như trái Yêm Ma La?

Phật nghe bài kệ hỏi,

Về độ môn đại thừa.

Và diệu tâm Chư Phật.

Lành thay những câu hỏi.

Đại Huệ hãy lắng nghe,

Nay ta vì các ngươi,

Theo thứ lớp giải đáp:

Pháp sanh và bất sanh,

Các loại đến Niết Bàn,

Sát na chẳng tự tánh.

Từ Phật Tử, ngoại đạo,

Thanh Văn và Duyên Giác,

Bồ Tát Ba la mật,

Và hạnh Cõi Vô Sắc.

Mỗi mỗi việc như thế,

Núi Tu Di, biển cả,

Các bộ châu, Quốc Độ,

Tinh tú và nhật nguyệt,

Cõi Trời A Tu La,

Sức thiền Tam Ma Đề,

Giải thoát được tự tại.

Giác chi, Như Ý Túc,

Và các phẩm trợ đạo.

Từ những thân ngũ ấm,

Cho đến Diệt Tận Định,

Gồm vô lượng thiền định.

Phật từ tam muội khởi,

Thuyết pháp độ chúng sanh.

Tâm thức thứ tám,

Ý thức thứ bảy, và

Ý thức thức thứ sáu,

Năm pháp và vô ngã,

Năng tưởng và sở tưởng,

Tự tánh hiện nhị kiến.

Các thừa và chủng tánh,

Vàng bạc, châu Ma Ni,

Cho đến Nhất Xiển Đề,

Nhiều loại với nhất Phật,

Trí Nhĩ Diệm chứng đắc.

Chúng sanh hữu hay vô,

Những cầm thú voi, ngựa,

Tại sao bị bắt lấy,

Do nhân duyên thành tựụ

Năng tác và sở tác,

Tòng lâm cùng mê hoặc,

Tâm lượng chẳng hiện hữu,

Chư Địa chẳng đến nhau.

Biến hiện thọ, vô thọ,

Y phương và công xảo,

Nội ngoại trong ngũ minh,

Đại Địa, núi Tu Di,

Biển cả, nhật, nguyệt, tinh,

Chúng sanh thượng, trung, hạ,

Quốc Độ và sắc thân,

Mỗi mỗi bao vi trần.

Thước tấc và số dặm,

Số ngắn đến số dài.

Nói chung những câu hỏi,

danh từ các số lượng,

Diễn tả sự hiện hữu,

Không gian và thời gian,

Nên hỏi những việc này,

Đâu cần hỏi việc khác.

Thanh Văn và Duyên Giác,

Bồ Tát cho đến Phật,

Mỗi thân bao nhiêu trần,

Số lượng của tứ đại,

Thân ngũ uẩn con người,

Vua chúa trên thế gian,

Cho đến Chuyển Luân Vương,

Đều ham giữ của cải,

Làm sao được giải thoát?

Nghĩa hẹp và nghĩa rộng,

Như chỗ hỏi của ngươi,

Việc Phật Tử nên hỏi.

Muốn mỗi mỗi tương ưng,

Phải xa lìa kiến chấp.

Thành tựu lìa ngôn thuyết.

Nay ta sẽ khai thị,

Kỹ càng từng lớp một,

Phật Tử hãy lắng nghe.

Trăm lẻ tám câu này,

Như Chư Phật sở thuyết.

Cú sanh cú bất sanh, cú thường cú vô thường, cú trụ dị phi trụ dị, cú sát na cú phi sát na, cú tự tánh cú phi tự tánh, cú không cú bất không, cú đoạn cú bất đoạn, cú biên cú phi biên, cú trung cú phi trung, cú duyên cú phi duyên, cú nhân cú phi nhân, cú phiền não cú phi phiền não, cú ái cú phi ái.

Cú phương tiện cú phi phương tiện, cú xảo cú phi xảo, cú tịnh cú phi tịnh, cú thành cú phi thành, cú ví dụ cú phi ví dụ, cú đệ tử cú phi đệ tử, cú sư cú phi sư, cú chủng tánh cú phi chủng tánh, cú tam thừa, cú phi tam thừa, cú sở hữu cú phi sở hữu, cú nguyện cú phi nguyện, cú tam luân cú phi tam luân.

Cú hữu phẩm cú phi hữu phẩm, cú câu cú phi câu, cú duyên tự Thánh trí hiện pháp lạc cú phi hiện pháp lạc, cú sát độ cú phi sát độ, cú thủy cú phi thủy, cú cung cú phi cung, cú thật cú phi thật, cú số cú phi số, cú minh cú phi minh, cú hư không cú phi hư không.

Cú vân cú phi vân, cú công xảo kỹ thuật minh xứ, cú phi công xảo kỹ thuật minh xứ, cú phong cú phi phong, cú địa cú phi địa, cú tâm cú phi tâm, cú thi thiết cú phi thi thiết, cú ấm cú phi ấm, cú chúng sanh cú phi chúng sanh, cú huệ cú phi huệ, cú Niết Bàn cú phi Niết Bàn.

Cú nhĩ diệm cú phi nhĩ diệm, cú ngoại đạo cú phi ngoại đạo, cú hoang loạn cú phi hoang loạn, cú huyễn cú phi huyễn, cú mộng cú phi mộng, cú diệm cú phi diệm, cú tượng cú phi tượng, cú luân cú phi luân, cú Càn Thát Bà cú phi Càn Thát Bà, cú Thiên cú phi Thiên, cú ẩm thực cú phi ẩm thực, cú dâm dục cú phi dâm dục, cú kiến cú phi kiến, cú Ba la mật cú phi Ba la mật, cú giới cú phi giới.

Cú nhật nguyệt tinh tú cú phi nhật nguyệt tinh tú, cú đế cú phi đế, cú quả cú phi quả, cú khởi diệt cú phi khởi diệt, cú trị cú phi trị, cú chi cú phi chi, cú thiền cú phi thiền, cú mê cú phi mê, cú hiện cú phi hiện, cú hộ cú phi hộ, cú tục cú phi tục, cú tiên cú phi tiên, cú vương cú phi vương.

Cú nhiếp thọ cú phi nhiếp thọ, cú bảo cú phi bảo, cú ký cú phi ký, cú Nhất Xiển Đề cú phi Nhất Xiển Đề, cú nữ nam bất nam cú phi nữ nam bất nam, cú vị cú phi vị, cú sự cú phi sự, cú thân cú phi thân, cú giác cú phi giác, cú động cú phi động, cú căn cú phi căn, cú hữu vi cú phi hữu vi.

Cú vô vi cú phi vô vi, cú nhân quả cú phi nhân quả, cú sắc cứu cánh cú phi sắc cứu cánh, cú thiết cú phi thiết, cú tòng thọ cát đằng cú phi tòng thọ cát đằng, cú tạp cú phi tạp, cú thuyết cú phi thuyết, cú tỳ ni cú phi tỳ ni, cú Tỳ Kheo cú phi Tỳ Kheo, cú xứ cú Phi Xứ, cú tự cú phi tự.

Phật bảo Đại Huệ rằng: Đó là một trăm lẻ tám câu Phật xưa đã nói, người và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Các thức có mấy thứ sanh, trụ, diệt?

Phật bảo Đại Huệ: Các thức có hai thứ sanh, trụ, diệt, chẳng phải suy nghĩ biết được. Hai thứ sanh gọi là lưu chú sanh và tướng sanh. Hai thứ trụ gọi là lưu chú trụ và tướng trụ. Hai thứ diệt gọi là lưu chú diệt và tướng diệt.

Đại Huệ! Các thức có ba thứ tướng, gọi là chuyển tướng, nghiệp tướng và chân tướng. Nói tóm tắt có ba thứ thức, nói rộng có tám thứ tướng.

Ba thứ thức ấy là: Chân thức, hiện thức và phân biệt sự thức.

Đại Huệ! Ví như gương sáng hiện những sắc tướng, chỗ hiện của hiện thức cũng như thế.

Đại Huệ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này tướng hoại và chẳng hoại làm nhân với nhau.

Đại Huệ! Sự huân tập bất tư nghì và sự chuyển biến bất tư nghì là cái nhân của hiện thức. Nhận lấy các cảnh trần và huân tập vọng tưởng từ vô thỉ là cái nhân của phân biệt sự thức.

Đại Huệ! Nếu mỗi mỗi sự hư vọng chẳng thật che khuất chân thức đều tiêu diệt thì tất cả căn thức đều diệt, ấy gọi là tướng diệt.

Đại Huệ! Sao nói tương tục diệt?

Bởi cái nhân của tương tục đã diệt thì tương tục phải diệt. Sở nhân diệt thì sở duyên cũng diệt. Sở nhân và sở duyên đều diệt thì tương tục phải diệt.

Tại sao?

Vì có sở nương tựa. Nói nương tựa, là vọng tưởng huân tập từ vô thỉ. Nói duyên, là tự tâm hiện những cảnh vọng tưởng của thức.

Đại Huệ! Ví như cục đất với vi trần có khác, cũng không có khác, dùng vàng ròng làm ra những đồ trang sức cũng vậy.

Đaị Huệ! Nếu cục đất với vi trần có khác thì cục đất chẳng do vi trần họp thành, mà thật thì do vi trần họp thành, nên nói chẳng khác. Nếu chấp thật chẳng khác thì cục đất với vi trần chẳng có phân biệt.

Như thế, Đại Huệ! Chân tướng của chuyển thức với tạng thức nếu là khác thì tạng thức chẳng phải cái nhân của chuyển thức. Nếu là chẳng khác thì chuyển thức diệt, tạng thức cũng phải diệt, mà chân tướng của nó thật chẳng diệt.

Cho nên Đại Huệ! Chẳng phải tự thức của chân tướng diệt, chỉ là nghiệp tướng diệt. Nếu tự thức của chân tướng diệt thì tạng thức cũng phải diệt.

Đại Huệ! Nếu Tạng thức diệt thì chẳng khác gì đoạn kiến của ngoại đạo.

Đại Huệ! Các phái ngoại đạo lập luận như thế này: Cảnh giới nhiếp thọ diệt thì sự lưu chú của thức cũng diệt. Nếu sự lưu chú của thức diệt thì sự lưu chú từ vô thỉ phải đoạn dứt.

Đại Huệ! Ngoại đạo nói cái nhân sanh khởi của lưu chú, chẳng do nhãn thức, sắc không và sáng tối hoà hợp mà sanh, ngoài ra còn có các nhân khác.

Đại Huệ! Cái nhân của họ nói như thắng diệu, như sĩ phu, như tự tại, như thời gian, như vi trần v.v...

Lại nữa Đại Huệ! Có bảy thứ chủng tánh của tự tánh, gọi là: Hoà hợp tự tánh, tánh tự tánh, tướng tự tánh, đại chủng tự tánh, nhân tự tánh, duyên tự tánh và thành tựu tự tánh.

Lại nữa Đại Huệ! Có bảy thứ đệ nhất nghĩa, gọi là: Cảnh giới tâm, cảnh giới huệ, cảnh giới trí, cảnh giới kiến, cảnh giới siêu nhị kiến, cảnh giới siêu tử địa siêu việt phiền não, và cảnh giới Như Lai tự tại.

Đại Huệ! Đây là đệ nhất nghĩa tâm của tự tánh, cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai Chư Phật Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu pháp thế gian và xuất thế gian, cho đến xuất thế gian thượng thượng pháp, do huệ nhãn của bậc Thánh soi vào tự cộng tướng mà kiến lập, kiến lập này chẳng đồng với lập luận ác kiến của ngoại đạo.

Đại Huệ! Thế nào là lập luận ác kiến của ngoại đạo?

Ấy là cảnh giới vọng tưởng của tự kiến chấp, chẳng biết do chấp tự tâm sở hiện, vì chẳng thông đạt ngằn mé tự tánh cùng khắp không gian thời gian, vốn chẳng có ngằn mé, vì khởi tâm chấp thật thành có ngằn mé.

Đại Huệ! Vì tánh ngu si của phàm phu, ở nơi bất nhị của tự tánh vô tánh đệ nhất nghĩa lập ra nhị kiến luận pháp tương đối.

Lại nữa, Đại Huệ! Cái nhân vọng tưởng khổ của tam giới diệt thì các duyên của vô minh, ái nghiệp liền diệt. Nay ta sẽ thuyết những cảnh huyễn hóa tùy theo kiến chấp của tự tâm sở hiện.

Đại Huệ! Nếu có Sa Môn, Bà La Môn muốn khiến nhân quả của sự hữu chủng, vô chủng, và sự vật thời gian có sở trụ... Và những cái do chấp ấm, giới, nhập nơi sanh và trụ biến hiện hoặc nói sanh rồi thì diệt, như sự vật hoặc sanh hoặc hữu, hoặc Niết Bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc chân lý, hoặc thường trụ, đều là đoạn diệt luận.

Tại sao?

Vì những sự việc kể trên vốn là vô thỉ chẳng có sự bắt đầu, nên hiện tiền đều bất khả đắc.

Đại Huệ! Ví như cái bình bể chẳng dùng được, như hạt giống cháy chẳng thể nảy mầm.

Như thế, Đại Huệ! Nếu tánh ấm, giới, nhập đã diệt, nay diệt, sẽ diệt điều do kiến chấp vọng tưởng của tự tâm vô nhân mà có, thì sự sanh khởi chẳng có thứ lớp.

Đại Huệ! Nếu lại nói cái thức vô chủng, hữu chủng do ba duyên kiến, tướng, thức hòa hợp sanh khởi, thì con rùa nên mọc lông, ép cát phải ra dầu, tông họ ắt phải tự hoại, vì trái với nghĩa quyết định. Cái thuyết hữu chủng, vô chủng có lỗi như thế, nếu theo đó.

kiến lập sự nghiệp đều hư dối vô nghĩa.

Ấm, nhập, giới: Ấm là ngũ ấm, tức sắc, thọ tưởng, hành, thức. Nhập là lục nhập, tức lục căn nhiếp thọ lục trần, có sự cảm thọ, gọi là lục nhập. Giới là thập bát giới, tức lục căn tiếp xúc lục trần sinh ra lục thức, gọi là thập bát giới.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần