Phật Thuyết Kinh Bảo Tinh đà La Ni - Phẩm Bốn - Phẩm đại Tập - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Ba La Pha Mật Đa La, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH BẢO TINH ĐÀ LA NI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Ba La Pha Mật Đa La, Đời Đường
PHẨM BỐN
PHẨM ĐẠI TẬP
PHẦN HAI
Lúc bấy giờ, vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha A Tăng Kỳ Trời, Rồng, Dạ Xoa, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người … cùng với đại chúng tụ đến nhất thời đồng thanh xướng lên rằng: Hay thay!
Họ lại nói lên rằng: Nam Mô!
Hy hữu chưa từng có vô số tinh tấn Cụ Túc như Đức Thế Tôn hôm nay!
Nam Mô! Nam Mô!
Đại hy hữu, chưa từng có vô số tinh tấn Cụ Túc như Đức Thế Tôn hôm nay!
An ủi tất cả Trời, người và các loài chúng sinh đều nhờ được độ thoát, đánh lùi các ma chúng, diệt tan cấu bẩn phiền não của chúng sinh, phá tan núi ngã mạn, chặt đứt cây thọ sinh, đập nát mặt trời sinh tử, trừ diệt bóng tối vô minh, khởi sinh niềm tin cho ngoại đạo, làm cạn nước bốn dòng chảy, thắp lên đuốc chánh pháp, bày ra đường bồ đề.
Trao cho chúng sinh nhẫn nhục nhu hòa, du hí tam muội, sống với niềm vui thiền định, khắp khiến cho giác ngộ tứ Thánh Đế đạo, Đạo Sư đại bi rộng độ chúng sinh, ở trong biển sinh tử, dẫn những Trời, người vào thành vô úy!
Những Trời, Người, A Tu La… đều dùng đủ thứ hương hoa vi diệu của Trời, hương xoa, bột thơm, tạp bảo, vòng hoa cài tóc… đồ trang nghiêm tung lên trên Đức Phật.
Vì cúng dường Đức Phật nên họ quét dọn, trang hoàng đường lớn, hẻm nhỏ, dùng áo báu Trời, diệu hoa Trời, the lụa Trời che khắp trên đường.
Họ lại mưa xuống hoa Mạn Đà La, hoa Ba Lô Sa, hoa Ca Lô Già, hoa Đại Lô Già, hoa Ưu Bát La, hoa Câu Vật Đà, hoa Phân Đà Lợi… đủ thứ hoa sen theo bước đi của Đức Phật mà bày ở dưới chân.
Hai bên con đường ấy hóa ra cây Trời với cành lá hoa trái đều dùng thất bảo mà trang nghiêm. Trên cây thất bảo lại hiện ra đủ thứ áo Trời báu diệu, mũ Trời, vòng ngọc đeo tai, vòng báu đeo tay… đồ trang sức nghiêm trang.
Vùng những cây đó có ao hoa Trời, giáp vòng bốn bờ ao ấy toàn là bảy báu, trong ao nước trong mát ngon lành, đầy đủ tám đức. Mọi thứ hoa sen báu và những loài chim kêu tiếng vi diệu, đủ màu… xen lẫn tràn đầy trong ao ấy.
Những Thiên Chúng đó cúng dường Đức Phật nên ở trong hư không đều cầm tràng phan bảy báu và hoa cái, trang hoàng bằng đủ thứ dây vàng, lụa bóng, chân châu, chuỗi ngọc.
Họ lại mưa xuống mạt vụn vàng, mạt bạc, Mạt Tỳ Lưu Ly và tung lên tất cả hương bột trầm thủy, hương bột Đa Già La, hương bột hắc Chiên Đàn, hương lá Đa Ma La.
Họ lại mưa xuống hương thơm Ngưu Đầu Ưu La Già Chiên Đàn… đủ thứ hương bọt khắp ở trên đường.
Họ lại mưa xuống dây vang đan nối với chuỗi ngọc chân châu, chuỗi ngọc ma ni, chuỗi ngọc như ý… phơi bày rực rỡ ở trong hư không, theo gió xoay vần. Trên những con đường, trong ngoài thành ấy, đều dùng đủ thứ đồ trang nghiêm của Trời mà trang sức.
Cho đến trong thành ma và quyến thuộc cũng dùng đồ trang nghiêm diệu bảo của Trời mà nghiêm sức các con đường. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn thương xót tất cả chúng sinh nên liền vào Tam Muội Thủ Lăng Nghiêm, tâm Ngài chánh thọ.
Vì đã vào định nên Đức Phật bước đi từ từ ở trên đường, hiện ra nơi sắc thân đủ thứ vi diệu, tướng tốt uy nghi quanh minh hiếm có. Ở giữa đường bên trong thành ấy, Ngài đứng ngay thẳng khiến cho tất cả chúng sinh trên đường đó đều thấy thân Phật.
Nếu có người thờ Phạm Thiên, ứng dùng thân Phạm mà được giải thoát thì Đức Thế Tôn liền hiện thân Phạm mà hóa độ họ.
Nếu có người thờ Đế Thích, ứng dùng thân Đế Thích mà được giải thoát thì Đức Thế Tôn liền hiện thân Đế thích mà hóa độ họ.
Nếu có người thờ Na La Diên, ứng dụng thân Na La Diên mà được giải thoát thì Đức Phật liền hiện thân Na La Diên mà hóa độ họ.
Nếu có người thờ Mê Ê Thủ La, ứng dùng thân Mê Ê Thủ La mà được giải thoát thì Đức Phật liền hiện thân Ma Ê Thủ La mà hóa độ họ.
Nếu có người thờ Trời Tứ Thiên Vương, ứng dùng thân Trời Tứ Thiên Vương mà được giải thoát thì Đức Phật liền hiện thân Trời Tứ Thiên Vương mà hóa độ họ.
Nếu có người thờ Chuyển Luân Thánh Vương, ứng dùng thân Chuyển Luân Vương mà được giải thoát thì Đức Phật liền hiện thân Chuyển Luân Vương mà hóa độ họ.
Nếu có người thờ các Tiểu Vương, ứng dùng thân các Tiểu Vương mà được giải thoát thì Đức Phật liền hiện thân các Tiểu Vương mà hóa độ họ.
Nếu có người thờ bậc đại thần thông, có người thờ Sa Môn, có người thờ đồng nam, đồng nữ, phụ nữ… thì Đức Phật đều hiện những thân đó mà hóa độ họ. Thậm chí có người thờ sư tử, thờ rồng, thờ voi, thờ thỏ, thờ A Tu La… đủ loại thân.
Những chúng sinh đó ứng dùng uy nghi sắc tướng của những thân đó mà được giải thoát thì Đức Như Lai đều hiện những hình tướng đó mà hóa độ họ.
Khi Đức Thế Tôn thị hiện đủ thứ như vậy thì tất cả chúng sinh đi trên đường đó thấy việc đó rồi đều chắp tay, đầu mặt sát đất, lễ bái, khen ngợi, vây quanh Đức Như Lai, được điều chưa từng có.
Nếu có người thờ voi, thờ rồng, thờ A Tu La… cho đến nếu có người thờ thần thỏ thì những chúng sinh đó liền thấy Đức Như Lai đồng hình tướng với thỏ đang uy nghi ở trên đường mà đi.
Nếu có chúng sinh thờ Phật thì những chúng sinh đó liền thấy Đức Như Lai đúng như uy nghi của Đức Phật đang ở trên đường mà đi. Những chúng sinh đó đều chắp tay khen ngợi, lễ bái, cùng nhau nương theo đi sau Đức Phật.
Lúc bấy giờ, Tiên nhân Quang Vị ở núi Tuyết cùng năm trăm đồ chúng của ông bị sự điều khiển của ma, đi đến thành Vương Xá, đến chỗ Đức Phật.
Khi đó Quang Vị ở bên trong cửa thành, đứng đợi Đức Như Lai, thấy thân Phật giống như người tiên, uy nghi hình tướng hiển phát trang nghiêm và thấy vô lượng trăm ngàn câu chỉ Chư Thiên vây quanh cúng dường.
Thấy việc đó rồi, ông lại khởi ý niệm này: Như người này quả là đại Tiên Nhân, có sự gia hộ lớn, đáng thọ sự cúng dường tối thượng của người Trời và hiện ra tất cả thân phận trang nghiêm giống như bậc Thánh trí.
Hai người chúng ta, ai là tôn thắng?
Trí tuệ ai hơn?
Ta hôm nay làm sao rõ biết?
Ông lại khởi ý niệm này: Ta nên đến gần mà hỏi, do loài nào sinh ra?
Do dòng họ nào?
Thọ trì những gì?
Do chí nguyện gì?
Do những hạnh nào?
Tiên nhân Quang Vị tự quan sát đồ chúng, nói kệ như vậy:
Nay thấy đa văn phước đức lớn
Người trì đại hạnh Ứng Cúng dường
Tối Mâu Ni hay trì Thiện Đạo
Trí đại nhẫn nghĩa pháp đầy đủ
Các ông, tất cả lòng ân cần
Dùng đại phương tiện cúng dường luôn
Ta phải đến người công đức ấy
Nghe Ngài giảng nói qua bờ kia.
Bấy giờ, tất cả đồ chúng ma na bà của Quang Vị đều cùng đồng thanh nói lời như vậy: Đúng vậy!
Thưa Đại Sư! Ngài nên làm như vậy!
Tiên nhân Quang Vị cùng các quyến thuộc kéo đến chỗ Đức Thế Tôn.
Đến trước Đức Phật rồi, họ chắp tay đứng mà nói như vậy:
Nay Ngài là ai?
Đức Thế Tôn đáp rằng: Ta là Bà La Môn!
Tiên nhân lại nói: Họ Ngài là gì?
Đức Thế Tôn đáp rằng: Họ ta là Cù Đàm.
Tiên nhân lại nói: Chí Ngài ưa gì?
Đức Thế Tôn đáp rằng: Ba cửa giải thoát!
Tiên nhân lại nói: Ngài làm những hạnh nào?
Đức Thế Tôn đáp rằng: Ta hành chân như tế!
Tiên nhân lại nói: Ngài xuất gia bao lâu rồi!
Đức Thế Tôn đáp rằng: Lâu như sự khởi lên của vô minh kia!
Ta nay xuất gia cũng lại như vậy!
Tiên nhân lại nói: Như vậy đại tiên là tinh tú ứng hiện như điều minh ký ghi sáng đều tụng vậy chăng?
Đức Thế Tôn đáp rằng: Như đó bình đẳng, ta chẳng quên vị trí.
Đó sở hữu gì?
Có gì kiên cố?
Như tướng này thì trí thế gian biết.
Tiên nhân lại nói: Vì muốn khiến cho những người trí tuệ, lòng sinh hoan hỷ nên nói lời nói này.
Đức Thế Tôn hỏi rằng: Sao gọi tên là câu tinh tú?
Tiên nhân đáp rằng: Hai mươi tám vì sao, mặt trời, mặt trăng đã nương theo chuyển động mà đi và đều y theo tám chỉ ngón tay tay ngang của người đó lấy làm phép đo lường. Mười hai lần tám chỉ đó dùng làm đo lường thân.
Dùng một lần tám chỉ để đo lường đảnh. Dùng một lần tám chỉ để đo lường bàn chân. Như vậy là mười bốn lần tám chỉ. Ngài nên biết rằng, đó là câu phép đo lường tinh tú. Nếu giải như thế này lại không phép khác thì đều tùy theo người ấy có chỗ ghi núm vào để làm định pháp.
Nếu chẳng vậy thì xin Đại Mâu Ni lắng nghe! Tôi nay sẽ nói về câu tinh tú.
Người sinh nhằm sao Mão thì ở bên mặt phải xuống chừng bốn chỉ có núm đỏ, đen, trên núm có lông.
Người ấy trí tuệ vang lừng, kết tụ tài lộc, thế lực tương ứng xí thạnh.
Người sinh nhằm sao Mão có tướng như vậy.
Người sinh nhằm sao Tất thì trên thân có vết chừng độ bốn chỉ.
Người ấy sáng suốt trinh thật, lòng thường giữ pháp, trí tuệ, tàm quí xấu hổ, kết tụ tài lộc đầy đủ. Ở mọi lúc, lòng thường dũng kiện, có thể đánh thắng oán địch.
Người sinh nhằm sao Sâm thì dưới cổ trước, trong bốn chỉ có vết đen. Tính người ấy dũng kiên, kết tụ tài lộc đầy đủ.
Người sinh nhằm sao Chủy, thì từ đỉnh trở xuống độ một gang rưởi tay bên trái có núm.
Người ấy tính nhiều sân si mà có kết tụ tài lộc.
Người sinh nhằm sao Phú Na Bà Tô thì ở dưới hông trái có vết đen.
Người ấy của cải, lúa gạo đầy đủ và ít trí tuệ.
Người sinh nhằm sao Phú Sa Sao Quỷ thì có tướng tối thượng, tướng luân trong tay giống như vừng Mặt Trời, thượng diệu đoan chánh, tướng tóc xoắn về bên phải, tất cả nương trụ thân trên viên mãn, có thể phá phiền não, làm đại Đạo Sư.
Người sinh nhằm sao A Thất Lệ Sa sao Liễu thì ngực có vết đen, ưa đấu tranh, phạm giới, khó cùng ở chung, tính nhiều dâm dục bảy sao trên là sao ở phương Đông.
Người sinh nhằm sao Mạc Già sao tinh thì hoặc ngực, hoặc lưng mà có bứu nhỏ.
Người ấy là Thiện Trượng Phu có thể theo đúng pháp hạnh mà nhiều của cải.
Người sinh nhằm sao Sơ Phá Cầu sao Trương thì bên phải hoặc bên trái rốn ắt phải có vết.
Người ấy nhiều keo kiệt, chết yểu đoản mạng.
Người sinh nhằm sao Đệ Nhị Phá Cầu sao Dực dưới rốn bốn chỉ nếu thấy có núm thì kết tụ tài lộc, trì giới đều mất hoại.
Người sinh nhằm sao A Tát Đa sao Chẩn thì hông dưới cửa rốn phải có núm đỏ.
Người ấy tính ưa làm giặc, dua nịnh, ít trí thông minh, phước mỏng.
Người sinh nhằm sao Chất Đa La sao Giốc thì trên âm căn trai hay gái sẽ có cái núm.
Người ấy, tính thuần trực mà nhiều ái dục lại ưa ca múa.
Người sinh nhằm sao Tát Bà Để sao Cang thì hoặc là đầu nam căn hoặc ở dưới căn có núm vàng sinh.
Người ấy, thọ tính nhiều tham, sân, làm não đại chúng mà không trí tuệ.
Người sinh nhằm sao Tô Xá Khư sao Đê thì từ háng trở xuống độ tám chỉ, bên trong tùy chỗ mà có núm đỏ sinh.
Người ấy quyến thuộc đầy đủ, có nhiều đồng bộc tôi tớ, ở địa vị khánh tướng, thông minh, tàm quí, dũng kiện, mưu lược, quả quyết, có thể thoái lui được oán địch, thường thọ an vui, mạng chung sinh lên Trời bảy sao trên thuộc phương Nam.
Người sinh nhằm sao A Nô La Đà sao phòng thì từ đầu gối trở lên tám chỉ, bên trong nếu có bướu nhỏ thì người đó trì giới có pháp, kết tụ tài lộc đầy đủ.
Người sinh nhằm sao Thệ Sắt Tra sao Tâm thì bên trong bắp vế có núm.
Người ấy chết yểu, nghèo cùng, phạm giới, ít lòng từ, bị người ganh ghét.
Người sinh nhằm sao Mộ La sao Vĩ thì trên vế phải có vết nhỏ.
Người này có phước đức mà chóng diệt môn cửa.
Người sinh nhằm sao Sơ A Sa Trà sao Ky thì đầu gối có núm.
Người này tính ưa xả thí, có thể biết Đạo pháp, mạng chung sinh lên Trời.
Người sinh nhằm sao đệ nhị A Sa Trà sao Đẩu thì ở trên cẳng chân phải có núm xanh.
Người này tính ưa đấu tranh với người, chẳng nương cậy mà chẳng tín thọ.
Người sinh nhằm sao Thất La Bà sao Ngưu thì ở trên cẳng chân phải nhất định phải có hai núm.
Người này thường giàu có, kết tụ tài lộc, thọ thân không bệnh, được sự yêu thích của mọi người, mạng chung sinh lên Trời.
Người sinh nhằm sao Đà Nhĩ Sắt Tra sao Nữ thì trên cẳng chân có núm.
Người này nhiều sân, ít tham, tuy có trí tuệ mà không kết tụ tài lộc bảy sao trên thuộc phương Tây.
Người sinh nhằm sao Xá Đa Tỳ Sa sao Nguy thì từ gối trở xuống mười sáu chỉ, bên trong có núm đen.
Người này, tính ngu si, bị chết chìm.
Người sinh nhằm sao Đệ nhất Bạt Đà La Bạt Đà sao Thất thì từ chỗ gối cong trở xuống tám chỉ, trên xương đùi bên trong phải có vết.
Người này làm cho người sân não, ngu si, bần cùng, ưa làm đạo tặc trộm cướp.
Người sinh nhằm sao Đệ Nhị Bạt Đà La sao Tích thì ở bên trong hổ khẩu phải có núm con.
Người này ưa bố thí, trì giới, sức nghĩ nhớ lâu, có trí tuệ, có từ bi, tính không sở úy.
Người sinh nhằm sao Lệ Bà Để sao Khuê thì người đó hạ tiện, tự nuôi sống.
Người sanh nhằm sao A Thấp Tỳ Ni thì vùng ngón chân cái có núm xanh, thân không bệnh não mà thường có sức mạnh lớn.
Người sinh nhằm sao Bà La Ni sao Vị thì ở dưới bàn chân có núm con.
Người này thọ tính không bi, ưa làm tay đồ tể, phá giới, hành động ác, chết vào địa ngục đây là nhóm sao phương Bắc.
Như trên đã nói, đây tức gọi là câu tinh tú. Nhờ đây mà được biết tính hạnh của con người, giàu nghèo, tốt xấu. Nếu biết điều này thì có thể khiến cho chúng sinh đến với bờ kia.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tiên nhân rằng: Đây là sự thấy của kẻ phàm phu ngu si, nương lòng theo chấp trước, trụ ở hạnh phân biệt. Sự thấy hư vọng của phàm phu nóng nẩy bệnh hoạn như loài chó, rắn, cá, rùa kia.
Nếu trong số đủ loại chúng sinh còn lại kia mà sinh nhằm sao Phú Sa này họ chẳng phải lạc phận bằng lòng với thân phận.
Như thần thông của ông được định giải thoát, ta lại có thể vì tất cả chỉ vẽ điều ấy.
Ông nay vì sao chẳng hỏi ta?
Tiên nhân Quang Vị phát sinh đại hoan hỷ liền dùng kệ mà khen ngợi, thỉnh rằng:
Tiên nhân hình tướng người
Con thấy tướng tối thượng
Chẳng biết dòng họ Ngài
Là Trời, là người vậy?
Âm thanh phép nói Ngài
Giống như Trời Đại Phạm
Sắc tướng, trì hạnh trì
Tương tợ tiên xa lắm.
Xưa đã chẳng thấy nghe
Tướng Mâu Ni đầy đủ
Thấy Ngài đã nói gì?
Và nói tính Ngài vậy.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn liền dùng kệ đáp Tiên Nhân rằng:
Chẳng biết bờ đây đó
Nên có tưởng lập nên
Bị buộc tất cả khổ
Pháp khí chẳng phải ông
Ông chẳng phải là đồ
Chứa pháp giải thoát
Tánh ta là Lục Độ
Lục thông của Bà La Môn
Nói sáu hòa kính đó
Phân biệt tu sáu căn
Ba pháp, ba giải thoát
Biết vô ngã ngang bằng bình đẳng
Khi tâm bồ đề phát
Lúc đó ta xuất gia
Tướng ta chẳng thể được
Với vô tướng khéo tu
Không người, không thọ mạng
Biết vô ngã cũng rỗng
Ba thọ, ba pháp hành
Phân biệt tu rỗng không
Ta qua bờ trí đó.
Đây nói không ai bằng vô đẳng
Không sở trước hư không
Tâm bồ đề tạo tác
Kia đầy đủ nhẫn lực
Sẽ được trí như trên.
Chẳng chấp trước các pháp
Người được báo quả cũng không
Giải thuận như vậy
Bồ đề được chẳng khó khăn.
Chẳng đứng ở các pháp
Và đây, đó chẳng nương
Phân biệt tu chân tế
Đây sẽ được Thế Tôn Như Lai
Không tướng, không tướng tưởng
Có sở đắc xa luôn
Các pháp phi hòa hợp
Đây sẽ được Thế Tôn Như Lai
Ông bỏ những tướng ấy
Hoặc lòng mình bỏ luôn
Ông giác bằng hư không
Như vậy sẽ được Phật.
Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn nói bài kệ này thì trong lúc không gián đoạn, Tiên Nhân Quang Vị cùng các quyến thuộc liền thấy hình tướng uy nghi của Đức Thế Tôn trở lại như Đức Phật trụ, lại được sự nghĩ nhớ.
Họ tự nghĩ ra thuở xa xưa nhờ gieo trồng thiện căn mà được hiện tiền. Tiên nhân Quang Vị liền được Bồ Tát Tam Muội tên là Bảo Tinh.
Sự sở đắc Tam Muội đối với Bồ Tát Tam Muội, tất cả quan sát thấy như ở tại cao tràng, quan sát thấy tất cả tam muội, sở đắc tất cả cảnh giới tự tại không có sự ràng buộc, lệ thuộc, chẳng nương theo sự thấy của người khác, không người có thể hủy hoại, không người có thể đoạt lấy.
Tiên nhân Quang Vị liền ở trước Đức Phật chắp tay mà đứng, hai tay dâng hoa, dùng kệ khen rằng:
Vô biên khen nói thật
Thế gian khéo cậy nương
Như Lai mắt tuệ sáng
Soi tất cả chúng sinh.
Vượt lên trên sinh chúng
Tinh tấn từ bi luôn
Cúi lạy Đấng kiên cố
Đạo Sư, trước chấp tận cùng.
Ánh sáng màu vàng tía
Chạm chúng sinh thanh lương mát mẻ
Giác tất cả sinh chúng
Là nhờ bồ đề công đức.
Phật chuyển bánh xe pháp
Hay phá núi não phiền
Làm xong việc tối hậu
Trí bồ đề mau thành.
Thầy thuốc trong sinh chúng
Tướng chân thật trang nghiêm
Nói ta sẽ đắc Phật
Đạo Sư trong chúng sinh.
Cắt hoại những lưới ái
Độ mình, độ chúng sinh
Từ lâu được Phật ký Phật thọ ký
Sẽ làm Thương Trung Nhân
Chúng sinh khổ trôi nổi
Biển hữu khiến đưa sang
Chỗ Niết Bàn yên ổn
Đạo vô lậu đặt lên.
Sở hữu mười phương Phật
Công đức như biển mênh mông
Đó vì con làm chứng
Hồi hướng bồ đề tâm
Tất cả các sinh chúng
Ác não, khổ cực cùng
Ba đời và phước đức
Do thân, miệng, ý con
Và tất cả sinh chúng
Khổ diệt, Phật lạc thành
Chúng sinh khắp đầy đủ
Được thường trụ Niết Bàn.
Bịnh chúng sinh tịch diệt
Nước phiền não khô khan
Các căn được trí tuệ
Tự tính thường vững bền.
Chúng sinh đến xứ chết
Sát xứ: chỗ làm cho chết
Và chịu khổ buộc ràng
Đức sáng của con sẽ
Khắp khiến giải thoát liền.
Mỗi một chúng sinh giới cõi chúng sinh
Được công đức vô cùng như biển
Được phước trí vô lượng
Tất cả vui đầy tràn đầy đủ
Bỏ những ác kiến đó
Chánh kiến mau thân gần
Nghĩ nhớ chỗ sinh trước
Chúng sinh được pháp hành.
Tất cả được thuyền pháp
Biển hữu, bờ kia sang
Đã qua đến bờ đó
Được mọi pháp Thế Tôn.
Trụ lâu vô lượng kiếp
Mưa pháp vũ khắp cùng
Nước thanh tịnh mây pháp
Rửa sạch các chúng sinh
Nếu mọi việc làm ác
Của thân, miệng, ý con
Con phát lồ tất cả
Xin Đức Phật chứng minh.
Con sinh lòng kính trọng
Nghiệp ác lại không làm
Chẳng thể nghĩ bàn Phật
Thường được thấy hiện tiền
Nếu có một phước đức
Hồi hướng bồ đề liền.
Con nhân các sinh chúng
Nhẫn chịu mọi khổ nàn
Con khuyên các sinh chúng
Bồ đề thượng đạo hành tu hành
Các cõi, kiếp thanh tịnh
Và biển trí chúng sinh
Con được cõi Thanh Tịnh
Theo đó bồ đề thành chứng
Được đồ chúng thanh tịnh
Trụ Địa, nhẫn sạch trong
Quyết định năm thần đạo ngũ thần đạo
Con được sư tử khen
Hiện bày trí vô trước
Đạo Sư thọ ký con!
Nếu khi định đắc Phật
Mọi pháp điều ngự xong
Hoa con tung lên cúng
Thành hoa cái trong không.
Những Chúng Trời, người, rồng…
Tất cả đến làm chứng
Con đảnh lễ Thế Tôn
Khiến đất đai chấn động.
Lúc bấy giờ, hoa của Tiên Nhân Quang Vị tung lên đều trụ ở không trung, gần trên đảnh Đức Phật, hợp làm một lọng hoa. Tiên Nhân Quang Vị thấy việc này rồi thì vừa ý bội phần, không hy vọng gì khác nữa. Ông phát sinh ái lạc đệ nhất, hoan hỷ vô cùng, liền cúi đầu, hai gối quì xuống đất, làm lễ dưới chân Đức Thế Tôn.
Khi đại tiên Quang Vị lễ dưới chân Đức Phật thì ngay tức thời, không gián đoạn, tất cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới sáu thứ chấn động và sở hữu vô lượng a tăng kỳ chúng sinh, trăm ngàn câu chi na do tha… của những Thế Giới đó đều đến tập hội, đều bi hỷ phát sinh cả Kinh, kêu lên lạ chưa từng có.
Lúc đó, Đức Như Lai tùy theo sự ưng thấy của các chúng sinh đó mà thị hiện đủ thứ thân. Kẻ ưng dùng hình voi mà giáo hóa thì liền thấy Đức Như Lai như hình voi đó mà sinh lòng yêu thích.
Họ lại thấy hoa của vị đại Tiên Nhân đã tung lên, trụ trên hư không biến thành lọng hoa và đất đai chấn động. Đã thấy điều này rồi thì họ bội phần phát sinh lòng hy hữu, đi đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Đức Phật.
Có chúng sinh ưng dùng thân Phật mà giáo hóa thì họ thấy Đức Như Lai như thân tướng của Phật mà phát sinh lòng hy hữu. Lúc đó, Đức Thế Tôn liền ra khỏi định, Ngài từ Tam Muội Thủ Lăng Nghiêm an tường mà khởi lên.
Vô lượng chúng sinh đã được giáo hóa đều thấy Đức Thế Tôn thì không hy vọng gì khác nữa, đều rất vui sướng phát sinh lòng yêu thích, đều như sở đắc. Họ mang vòng hoa cài tóc hoa man, y phục, hương bột, hương xoa, các đồ trang nghiêm… tung lên cúng dường.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì Tiên Nhân Quang Vị nói kệ thọ ký rằng:
Mau dậy nghe thọ ký
Đạo Sư nay vì nói
Đại tiên được bồ đề
Đất động, hoa một lọng
Trong hư không trụ lại
Gia hộ không ai bằng
Ông được Lưỡng Túc Tôn
Lợi thế gian tự tại
Phật có phước vô biên
Biên lượng ngang hư không
Kiên cố trong ba cõi
Đèn pháp soi thế gian.
Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Quang Vị liền ở trước Đức Phật cung kính mà bạch rằng: Thưa Đức Thế Tôn!
Con được cõi Phật giống tướng cõi nào?
Con ở cõi đó chuyển bánh xe đại pháp?
Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Ngài Quang Vị rằng: Đời vị lai, qua vô lượng A tăng kỳ kiếp, ở địa phận phương Bắc có Thế Giới tên là Khai Phu Hương, có đầy đủ các tướng trang nghiêm như Thế Giới An Lạc ở phương Tây.
Này Thiện Trượng Phu!
Ông sẽ ở Cõi Phật đó được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, hiệu là Vô Cấu Hương Quang Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Đức Phật đó thọ mạng chừng mười trung kiếp, chỉ gồm có các Đại Bồ Tát, không có Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa, thuần nói về đại thừa thanh tịnh vô thượng.
Đại chúng nghe Đức Thế Tôn thọ ký cho Tiên Nhân Quang Vị xong thì đều đem đồ cúng dường mang theo cúng dường cho Tiên Nhân.
Năm trăm Ma Na Bà… và chín mươi hai na do tha trăm ngàn câu chỉ chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác và được Tam Ma Đề Bồ Tát chẳng quên tâm bồ đề.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh chánh Pháp Hoa - Phẩm Hai Mươi Năm - Tịnh Phục Tịnh Vương
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Hai Mươi Hai - Pháp Hội đại Thần Biến - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Cựu Tạp Thí Dụ - Phần Ba Mươi Năm
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Bốn Quả - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Như Lai Giáo Thắng Quân Vương