Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Bốn - Phẩm Như Lai Chẳng Thể Nghĩ Bàn - Tập Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI THỪA BỒ TÁT TẠNG CHÁNH PHÁP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM BỐN
PHẨM NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN
TẬP BỐN
Này Xá Lợi Tử! Dù lúc đó gió lớn thổi như vậy, nhưng y vi diệu của Như Lai không thể lay động, dù chỉ bằng đầu sợi lông, huống là chéo y.
Vì sao?
Vì Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, thần lực chẳng thể nghĩ bàn, duyên chẳng thể nghĩ bàn, sở hành chẳng thể nghĩ bàn, đại bi đều đầy đủ.
Này Xá Lợi Tử! Lúc gió lớn thổi lên, Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía trên dưới khắp cả mười phương hằng hà sa số tất cả Thế Giới làm cho gió lớn cứ thổi mãi không ngừng. Lúc đó, Như Lai dùng ngón tay chặn đứng gió lại, tức thời gió lớn dừng lại. Như vậy, thần thông trí lực của Như Lai không bị giảm mất là vì chẳng thể nghĩ bàn.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát trụ tín đối với thần thông trí lực của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Tất cả chúng sinh trong ba cõi
Đều làm Thanh Văn đủ trí tuệ
Trí ấy ngang bằng với Mục Liên
Đầy đủ thần thông Ba la mật
Như Lai ở tại nơi đất ấy
Bỏ một hạt cải rất là nhỏ
Tất cả Thanh Văn dùng thần thông
Nhưng không thể nâng hạt cải lên
Sở hữu hằng hà sa số đẳng
Mười phương tất cả các Thế Giới
Lúc gió Tỳ Lam Bà thổi lên
Khắp cả các phương đều lay chuyển
Khi gió lớn kia thổi như vậy
Phật dùng y vi diệu chận lại
Gió không lay nổi đầu sợi lông
Nhờ thần lực Phật chẳng nghĩ bàn
Gió lớn thổi động rất mãnh liệt
Như Lai chỉ dùng môt sợi lông
Thần lực chặn đứng cơn gió dữ
Rộng lớn vô biên bằng hư không.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát trụ tín đối với thần lực của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Bồ Tát trụ tín đối với mười trí lực chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.
Như Lai do đầy đủ mười trí lực, cho nên hiểu biết thù thắng, hơn cả các hàng Trời, Người, thế gian. Rống tiếng rống Sư Tử, chuyển phạm luân vi diệu, tất cả Trời, Người, Ma, Phạm không thể chuyển được, không đồng với pháp của Như Lai.
Mười lực là gì?
1. Xứ Phi xứ trí lực.
2. Nghiệp báo trí lực.
3. Chủng chủng tín giải trí lự.
4. Chủng chủng giới trí lực.
5. Căn thắng liệt trí lực.
6. Chí xứ đạo trí lực.
7. Thiền định giải thoát Đẳng trì đẳng chí nhiễm tịnh trí lực.
8. Túc trụ tùy niệm tác chứng trí lực.
9. Thiên nhãn tác chứng trí lực.
10. Lậu tận tác chứng trí lực.
Này Xá Lợi Tử! Như vậy gọi là mười trí lực của Như Lai. Như Lai do đầy đủ mười trí lực nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng có khả năng rống tiếng rống Sư Tử, chuyển phạm luân vi diệu, cho đến tất cả thế gian không có pháp nào bằng Phật.
Sao gọi là Xứ Phi xứ trí lực của Như Lai?
Vì Như Lai dùng trí lực vô thượng tối thắng đối với xứ Phi xứ biết rõ như thật.
Thế nào là Thị xứ?
Thế nào là Phi xứ?
Này Xá Lợi Tử! Phi xứ nghĩa là không dung thọ thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Nếu ba nghiệp hành động như vậy mà chiêu cảm qua báo tốt đẹp thì không thể có. Còn nói dung thọ nghĩa là thân, miệng, ý làm ác, không chiêu cảm quả báo tốt đẹp, việc này là đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là thân, miệng, ý nghiệp làm các việc thiện, mà chiêu cảm quả báo không tốt đẹp, điều đó không thể có. Còn dung thọ nghĩa là thân, miệng, ý làm các việc thiện, chiêu cảm quả báo tốt đẹp, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ tức là nếu người keo kiệt mà chiêu cảm quả báo giàu có, điều đó không thể có. Nếu người keo kiệt chịu quả nghèo hèn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người bố thí mà chiêu cảm quả báo nghèo cùng, thì không thể có. Nếu người bố thí mà được qua báo giàu có, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người phá giới mà được sinh lên Cõi Trời, thì không thể có. Nếu người phá giới mà đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người trì giới mà lại đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, thì không thể có. Nếu người trì giới được sinh thiên, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người sân hận mà chiêu cảm quả báo đoan chánh, thì không thể có. Nếu người sân hận mà chịu quả báo thô lỗ xấu xa, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người nhẫn nhục mà chịu quả báo thô lỗ xấu xa, thì không thể có. Nếu người nhẫn nhục chiêu cảm quả báo đoan chánh, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người biếng nhác mà được tam muội hiện tiền, thì không thể có. Nếu người biếng nhác không được tam muội hiện tiền, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tinh tấn mà không được tam muội hiện tiền, thì không thể có. Nếu người tinh tấn mà được tam muội hiện tiền, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tâm tán loạn mà được đạo xuất ly, thì không thể có. Nếu người tâm tán loạn không được đạo xuất ly, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tâm tánh hay an trụ vào một cảnh mà không được đạo xuất ly, thì không thể có. Nếu người tâm tánh hay an trụ vào một cảnh mà được đạo xuất ly, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người không có trí tuệ mà có khả năng đoạn trừ tất cả thói quen chủng tử, thì không thể có. Nếu người không co trí tuệ, thì không có khả năng đoạn trừ thói quen của chủng tử, đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người có trí tuệ mà không có khả năng đoạn trừ tất cả thói quen của chủng tử, thì không thể có. Nếu người có trí tuệ, có khả năng đoạn trừ tất cả thói quen của chủng tử, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người sát sinh khởi lên nhân giết hại, mà chiêu cảm quả sống lâu, thì không thể có. Nếu người sát sinh mà chịu lấy sự chết yểu, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa sát sinh mà chiêu cảm quả chết yểu, thì không thể có. Nếu người lìa sát sinh mà chiêu cảm quả sống lâu, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người trộm cắp mà chiêu cảm quả giàu sang, thì không thể có. Nếu người trộm cắp mà chiêu cảm quả nghèo hèn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa trộm cắp mà chiêu cảm quả nghèo hèn, thì không thể có. Nếu người lìa trộm cắp mà chiêu cảm quả giàu sang, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tà nhiễm mà được nhà cửa con cái thì không thể có. Nếu người tà nhiễm mà không được nhà cửa con cái, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa tà nhiễm mà không được nhà cửa vợ con thì không thể có. Nếu người lìa tà nhiễm mà được nhà cửa vợ con, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người vọng ngữ mà không chiêu cảm sự chửi bới hủy báng thì không thể có. Còn chiêu cảm sự chửi bới, hủy báng, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa vọng ngữ mà lại chịu sự hủy báng chửi bới, thì không thể có. Còn không chịu sự hủy báng chửi bới, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người nói hai lưỡi, mà quyến thuộc không chia lìa, thì không thể có. Còn như quyến thuộc chia lìa, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa nói hai lưỡi mà quyến thuộc chia lìa, thì không thể có. Còn quyến thuộc không chia lìa, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người ác khẩu mà thường được nghe những lời vừa ý, thì không thể có. Còn nghe những lời không vừa ý, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa ác khẩu mà không nghe những lời vừa ý, thì không thể có. Còn nghe những lời vừa ý, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người nói thêu dệt mà được biện tài quyết định, thì không thể có. Còn không được biện tài quyết định, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa nói thêu dệt mà không được biện tài quyết định, thì không thể có. Còn như được, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người nhiều tham lam mà được giàu sang, thì không thể có. Còn không được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa tham lam mà sự giàu sang không được tồn tại lâu dài, thì không thể có. Còn được giàu sang mãi mãi, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tâm sân nhuế mà không đọa vào địa ngục, thì không thể có, còn nếu đọa thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa tâm sân nhuế mà không sinh lên Cõi Trời, thì không thể có. Còn nếu sinh lên Cõi Trời thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tà kiến, tích tập nhân tà kiến mà được Thánh đạo, thì không thể có. Người tà kiến, tích tập nhân tà kiến mà không được Thánh đạo, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người chánh kiến tích tập nhân chánh kiến, mà không được Thánh đạo, thì không thể có. Nếu người chánh kiến tích tập nhân chánh kiến lại được Thánh đạo, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tu hạnh bố thí mà tâm không được thanh tịnh, thì không thể có. Còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xư là nếu người trì tịnh giới mà không được tịnh tâm, thì không thể có, còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người khởi lên kiến chấp có sở đắc mà được thuận nhẫn, thì không thể có. Còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người chứng Không giải thoát mà không được thuận nhẫn, thì không thể có. Còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người làm việc ác mà tâm được khinh an, thì không thể có. Còn không được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người làm ác mà tâm được điều phục và khinh an, thì không thể có. Còn không được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ mà thành Chuyển Luân Thánh Vương, thì không thể có. Nếu người nam được thành, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ làm chủ Cõi Trời Đế Thích, thì không thể có. Nếu người nam làm chủ thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ làm Phạm Vương, thì không thể có. Nếu các người nam làm, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ hiện thành quả Phật, thì không thể có. Còn nếu vào Bát nhân địa, lần lượt được quả, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu Tu Đà Hoàn hiện chuyển chứng vị thứ tám, thì không thể có. Còn nếu ở trong uẩn đó thú chứng Niết Bàn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu Tư Đà Hàm hiện chuyển vị thứ ba, thì không thể có. Còn nếu trong uẩn đó hướng đến Niết Bàn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu A Na Hàm mà còn trở lại nhân gian, thì không thể có. Còn nếu ở trong uẩn đó hướng đến Niết Bàn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu A La Hán mà còn kết phược tập khí, thì không thể có. Nếu không còn thì đó là lẽ đương nhiên.
Lai nữa, Phi xứ là nếu các Bậc Thánh Nhân mà hướng cầu các thầy ngoại đạo chỉ dạy về pháp tà dị, thì không thể có. Nếu không như vậy thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người được Vô sinh pháp nhẫn mà con bị thoái chuyển, thì không thể có. Còn nếu đạt đến chứng quả Bồ Đề, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các Bồ Tát ngồi Bồ Đề Đạo Tràng rồi, mà không chứng quả Bồ Đề, thì không thể có. Nếu các Bồ Tát ngồi Bồ Đề tràng rồi, quyết định chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác sau lại rời tòa, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu Chư Phật mà còn biểu hiện thói quen của chủng tử thì không thể có. Nếu Chư Phật đoạn trừ tất cả thói quen của chủng tử, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu trí của Chư Phật mà còn có chướng ngại, thì không thể có. Nếu trí của Chư Phật không có chướng ngại, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu ai có khả năng quán thấy đảnh tướng tối thắng của Chư Phật, thì không thể có. Còn không thấy được đảnh tướng của Chư Phật thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu ai có khả năng biết được tâm sở hành của Như Lai, thì không thể có. Còn không biết được tâm sở hành của Như Lai, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu Chư Phật trụ tâm thiền định mà còn có tướng sở đắc, thì không thể có. Chư Phật tâm thường trụ thiền định, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu Chư Phật mà còn nói dối không quyết định, thì không thể có. Chư Phật nói năng không hư vọng, thì đó là lẽ đương nhiên.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba