Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn - Phẩm Bốn Mươi Sáu - Phẩm Vô Cấu Quang Thần Thông Giải Thoát đàn Tam Muội Gia Tượng - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT KINH BẤT KHÔNG
QUYẾN SÁCH THẦN BIẾN CHÂN NGÔN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM BỐN MƯƠI SÁU
PHẨM VÔ CẤU QUANG THẦN THÔNG
GIẢI THOÁT ĐÀN TAM MUỘI GIA TƯỢNG
TẬP HAI
Bạch Đức Thế Tôn! Lại có Bất Không Vương hiện bày tượng Nhất Thiết Huyễn Hóa Tam Muội Gia Dùng hương Bạch Chiên Đàn, hương Đa Nga La, hương Ô Thí La, Đinh hương, hương Tất Lật Ca, hương Nhạ Đổ Lỗ Khư Phộc La Nễ Ca, hương Cam Tùng, rễ Mao hương, hương Uất Kim, hương Long Não, hương Na Mễ Lỗ, hương Tất Lật Dương Ngu, hương Huân Lục, hương Trầm Thủy, Tiên hương, hương Tô Hợp, Long Hoa, tua hoa sen… lượng bằng nhau, sửa trị cho tinh sạch.
Chọn ngày có sao Tú tốt, hòa với sáp, tụng Chân Ngôn gia trì ngàn biến một trăm biến, làm tượng Bất Không Vương Quán Thế Âm Bồ Tát màu trắng, thân cao khoảng mười sáu ngón tay, ba mặt, sáu cánh tay.
Mặt lớn ở chính giữa: Từ bi, vui tươi như mặt Đại Phạm Thiên, tam tinh có một con mắt, đầu đội mão Trời, mão có vị Hóa A Di Đà Phật.
Mặt bên trái: Mắt giận dữ đáng sợ, tam tinh có một con mắt, tóc dựng đứng, đầu đội mão mặt trăng, mão có vị Hóa Phật.
Mặt bên phải: Cau mày, trợn mắt, ló nanh chó lên trên, rất ư đáng sợ, tam tinh có một con mắt, tóc dựng đứng, đầu đội mão mặt trăng, mão có vị Hóa Phật. Một tay cầm sợi dây, một tay cầm hoa sen, một tay cầm cây đinh ba, một tay cầm cây búa, một tay thí vô úy, một tay cầm cây gậy báu như ý. Ngồi kiết già, thân tỏa lửa sáng. Mọi loại áo Trời màu nhiệm, chuỗi ngọc, vòng, xuyến, mọi loại trang nghiêm, ngồi trên tòa hoa sen.
Bên trái, làm tượng Thấp Phế Đa Bạch Quán Thế Âm Bồ Tát, ngồi bán già. Bên phải, làm tượng Đa La Bồ Tát, ngồi bán già.
Dùng mão hoa, quần áo, ngọc báu, Anh Lạc, khoen tai, vòng, xuyến… như pháp trang nghiêm Lại bên phải làm người trì Chân Ngôn, quỳ gối mà ngồi, một tay cầm hoa sen, một tay bấm tràng hạt, chiêm ngưỡng Bồ Tát ba Tượng dùng vàng ròng, nhiều màu sắc…
Tô điểm đẹp đẽ: Thân màu thịt, mão trên đầu, Anh Lạc, khoen tai, vòng, xuyến, quần áo, tòa hoa. Nếu trang sức Tượng xong, ở nơi nhàn tĩnh, tắm gội sạch sẽ, dùng hương xoa bôi thân, mặc quần áo sạch.
Dùng các bùn hương, như pháp xoa tô Đàn. Dùng bùn hương Bạch Chiên Đàn, bùn hương Trầm Thủy, bùn hương Uất Kim điều hòa màu vẽ ngay chính giữa, vẽ hoa sen nở rộ một trăm lẻ tám cánh. Bốn mặt, bốn góc vẽ hoa sen tám cánh, dấu hiệu Kim Cương, giới hạn… để tượng trên đài sen.
Dùng nước hương, hương, hoa, mọi loại thức ăn uống, ba loại thức ăn uống màu trắng… bày hiến cúng dường ngày đêm sáu thời ngồi ở cửa Tây, y theo tướng của Bất Không Vương Quán Thế Âm dùng tất cả pháp nhận giữ Trí Ấn, Kim Cương Thân ngữ Tâm Ấn… nhập vào bánh xe chữ của Chân Ngôn, xoay vần nhiếp tướng của Quán Thế Âm, Bình Đẳng Luân Quang Tam Muội Gia của Quán Tự Tại.
Tụng trì thần thông Giải Thoát Tâm Đà La Ni Chân Ngôn, Phấn Nộ Vương Chân Ngôn gia trì vào Hương Tượng của Bất Không Vương Quán Thế Âm khiến hiện thần thông, phóng ánh sáng lớn, chiếu soi Đạo Trường, đất cả Đàn chấn động.
Khi ở trên vai phải của người trì Chân Ngôn tỏa ra ánh sáng lớn, thời Tượng phát ra tiếng nói: Lành thay! Lành thay bậc Đại Chân Ngôn! Ngươi khiến được chứng Bất Không Vương Quảng Đại Tất Luân Tam Muội Gia Thần Biến Tất Địa, được thành tựu các Bất Không Quyến Sách Tất Địa tối thắng.
Nay ngươi có thể vì Thời Thế, người dân làm Đại Quán Đỉnh A Xà Lê Sư Được chứng nghiệm xong. Ở nơi thanh tịnh làm Đàn, an trí Hương Tượng, để thêm tượng vẽ Bất Không Quán Thế Âm, một lòng cúng dường, cung kính, thừa sự. Tụng niệm Thần Thông Giải Thoát Tâm Đà La Ni Chân Ngôn thời số chẳng thiếu sót, cầu mọi loại thắng pháp xuất thế gian, liền được Quán Thế Âm Bồ Tát dùng lời nói dạy bảo, chiếu tất cả các pháp.
Mạn Noa La Tam Muội Gia Maṇḍala samaya của Bất Không Vương Hương Tượng này: Dùng bùn hương Bạch Chiên Đàn như pháp xoa chà Đàn.
Dùng bùn hương Bạch Chiên Đàn, bùn hương Uất Kim, bùn hương Trầm Thủy… ngay tâm tô vẽ hoa sen nở rộ một trăm lẻ tám cánh bốn mặt, bốn góc tô vẽ hoa sen tám cánh, dấu hiệu tiêu biểu, giới hạn, cửa.
Trên đài để Hương Tượng Bất Không Vương Quán Thế Âm. Tùy theo tâm bày biện mọi loại cúng dường.
Phía Nam cạnh bên ngoài cửa Tây của Đàn làm cái Đàn Hộ Ma một khuỷu tay.
Chặt cắt cây Bạch Chiên Đàn: một ngàn không trăm tám mươi đoạn, hòa với bơ, mật. Một lần tụng Chân Ngôn thì một lần thiêu đốt. Sau khi hết xong, không có thế của lửa thì thu lấy tro này, tụng Chân Ngôn một ngàn biến.
Tắm gội sạch sẽ, xoa chà thân, mặc quần áo sạch. Dùng hạt cải trắng hòa với tro gia trì bảy biến rồi rải tán mười phương, liền được Thần Biến âm thầm kín đáo của Quán Thế Âm Bồ Tát, thân tâm mạnh mẽ, hiểu biết sâu xa.
Giải giới: Gia trì vào nước hạt cải trắng rưới vảy mười phương với vảy trên thân, liền làm được pháp khác.
Nếu gia trì vào tro này, hòa với bột hương Bạch Chiên Đàn xoa bôi thân, đi vào trong rừng Thi Đà làm pháp. Liền được tất cả quyến thuộc của Đại Tự Tại Thiên, Dược Xoa, La Sát, tất cả quỷ thần thảy đều kính phục, vui thích làm tôi tớ Nếu lại xoa bôi thân, kết Ấn ấn vào Thân, ngầm tụng Chân Ngôn, vào trong đại chúng.
Liền được người dân: Tiêu diệt nghiệp chướng, kính sự như Phật, cung kính cúng dường.
Nếu lại xoa bôi thân, đi vào trong nước ao lớn có Rồng ở. Liền được sáu mươi tám ngàn chúng Đại Long Vương diệt các tội khổ, thảy đều kính phục, ưa thích âm thầm hộ giúp, sẽ nhận làm việc sai khiến.
Nếu lại xoa bôi thân, đi đến chỗ của tất cả người Quý Thắng. Liền được diệt các tội não chướng ngại của đời trước, cúng dường, cung kính cho đến trọn đời.
Nếu lại xoa bôi ở trên thân người bệnh, liền được trừ diệt mọi loại bệnh não. Tội nặng, cái chướng của nghiệp thân miệng ý do Nhân Hetu này cho nên đóng bít cửa địa ngục, sẽ sinh vào Tịnh Thổ, vượt lên Bất Động Địa.
Pháp này chỉ trừ kẻ: Chẳng trung, chẳng chính, chỉ nịnh hót, nói hai lưỡi, ganh tỵ, phẫn hận. Trộm cắp tất cả Chân Ngôn Minh Pháp, Kinh Pháp của Đại Thừa. Chẳng biết ơn, chẳng đủ niềm tin chân chính, chẳng kính: Hòa Thượng A Xà Lê, Cha Mẹ, Sư Trưởng.
Nhóm Bật Sô, Bật Sô Ni, Tộc Tính Nam, Tộc Tính Nữ thuộc loại Chiên Trà La Caṇḍāla… nhóm này cũng chẳng tin kính Đà La Ni Chân Ngôn Kinh Điển này của con Quán Thế Âm. Chỉ dùng ngã mạn, cống cao, khinh chê người khác.
Luôn tự khen đường lối chế diễu, chẳng phải là điều thiện lành của người khác, làm các Nghiệp Ma. Trộm nghe đạo rồi nói văn tự, chương cú của tất cả Chân Ngôn. Chẳng vâng theo Thầy thọ trì Chân Ngôn Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia.
Bạch Đức Thế Tôn! Hết thảy nhóm Chiên Trà La như vậy là nơi mà tất cả Chư Phật ba đời ở mười phương, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát thường đã vứt bỏ. Tất cả chủng tộc Chân Ngôn Mạn Noa La Thần, tất cả Thiên Thần cũng vứt bỏ hết.
Nhóm Chiên Trà La này: Đời đời thọ nhận thân, tu các Thiện Nghiệp từng không có thành tựu.
Tất cả căn lành của thân quá khứ hiện nay thảy đều thiêu đốt hết, căn lành của thân sau cũng đã hoại nát Do Nhân này cho nên, tức chẳng phải là lỗi của con Quán Thế Âm Bạch Đức Thế Tôn! Nhóm Chiên Trà La này.
Nếu có người hay răn dạy giới, hay hối lỗi: Mọi nghiệp hạnh ác của nhóm vô minh hắc ám, tham, sân, si… chuyên dùng vô lượng phương tiện khéo léo, tinh cần chẳng lùi, chí tâm nghĩ nhớ Chư Phật Như Lai, thành khẩn tu tịnh hạnh… tức được chút phần công đức của thế gian mà liền thành tựu.
Lại có hữu tình: Tự tính thuần thiện, không có các ác kiến Mithyā dṛṣṭi dùng pháp tu tâm, mặc áo giáp đại từ Mahā maitra, cầm cây đao đại bi Mahākāruṇa, ở đất nhẫn nhục Kṣānti, đối với các hữu tình: Tâm thường khiêm hạ, kính sự, thương xót… tâm chẳng ghét bỏ, ý rất thích nghi hơn.
Bạch Đức Thế Tôn! Con Quán Thế Âm liền hứa khả cho người này thành Bất Không Vương hương Quán Thế Âm Tượng Tam Muội Gia đó.
Lại có hữu tình: Các Kiến Dṛṣṭi yên lặng vĩnh viễn, pháp Dharma không có tướng hành Saṃskāra: Lưu chuyển tạo ứng, đối với các hữu tình thì thấy như Đức Phật, nghe Kinh Đà La Ni Dhāraṇī sūtra chưa được nghe thì Tâm chẳng nghi ngờ, chẳng ghanh tỵ với điều tốt của người, chẳng khen ngợi điều tốt của mình.
Tâm thường tương ứng quán nhìn Hương Tượng của con Quán Thế Âm tức như thấy Pháp Thân thanh tịnh của con, công đức không có khác.
Lại như ngang bằng với vô lượng công đức nhìn thấy chín mươi chín căng già sa câu chi na dữu đa trăm ngàn Chư Phật Bạch Đức Thế Tôn! Lại có pháp. Nếu Bật Sô, Bật Sô Ni, quốc vương, đại thần, tất cả người dân mong cầu thấy Quán Thế Âm Bồ Tát trong cung điện báu trên núi Bổ Đà Lạc. Tất cả Chư Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát ba đời ở mười phương, các Tiên Khổ Hạnh, Tam Thập Tam Thiên, tất cả Thiên Thần, Hội chuyển bánh xe pháp, bậc Bất Thoái Địa.
Lại muốn thích thấy chủng tộc của tất cả Như Lai ba đời ở mười phương hội thông với tất cả Đại Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia. chủng tộc của tất cả Kim Cương hội thông với tất cả Đại Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia.
Lại cầu Thần Thông Tam Muội Gia của các Như Lai hiển bày cho mọi người dân… thì nên thường tinh tiến trì không có gián đoạn, nhẫn nhục không có lui, trong ngoài thanh tịnh, luôn siêng năng tu hành Tam Muội Gia này.
Tâm chẳng lo lắng nghi ngờ, nói rằng: Nay ta đã trì pháp này là có thành chăng?
Là chẳng thành chăng?
Liền được thành tựu Cần phải như pháp gia trì vào vàng ròng làm tượng Bất Không Vương Quán Thế Âm Bồ Tát có ba mặt, sáu cánh tay.
Mặt lớn ở ngay chính giữa: Từ bi, vui vẻ, tam tinh có một con mắt. Mặt bên trái cau mày, trợn mắt đáng sợ, tam tinh có một con mắt.
Mặt bên phải cau mày nhướng mắt, ló nanh chó lên trên rất đáng sợ, tam tinh có một con mắt. Ba cái đầu đội mão báu, mão có vị Hóa A Di Đà Phật, tóc dựng đứng.
Một tay cầm sợi dây, một tay cầm cây đinh ba, một tay cầm cây búa, một tay cầm cây gậy như ý, một tay cầm cái bình Táo Quán, miệng bình phun hoa sen. Một tay thí vô úy… ngồi kiết già, thân tỏa lửa sáng. Dùng mọi áo Trời màu nhiệm, ngọc báu, Anh Lạc, khoen tai, vòng, xuyến, mọi loại trang nghiêm Bên trong bụng Tượng trống rỗng.
Dùng bột hương Bạch Chiên Đàn, bột hương Long Não hòa với một trăm lẻ tám hạt Xá Lợi của Phật… lấp đầy trong bụng Tượng như pháp bên trái là tượng Thấp Phế Đa Bồ Tát bằng bạc, ngồi bán già. Bên phải là tượng Đa La Bồ Tát bằng bạc, ngồi bán già.
Dùng mão hoa, Anh Lạc, vòng, xuyến, quần áo, vàng, báu trang nghiêm. Lại đúc tượng A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi kiết già, như pháp trang nghiêm, ngồi trên cây hoa sen. Hoa, lá, cành, nhánh của cây ấy có ba mươi hai cành.
Trên sen ở ba cành: Ở giữa để Bất Không Vương Quán Thế Âm Bồ Tát, bên trái để Thấp Phế Đa Bồ Tát, bên phải để Đa La Bồ Tát.
Lại trên sen ở hai cành để A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật với cạnh khuôn mặt hướng vào nhau, ở ngay trên đỉnh đầu của Bồ Tát bên trái bên phải. Hai cành hoa sen ở sau lưng hai vị Bồ Tát dấy lên trên.
Cây hoa sen ấy: Mầm, cọng, cành, lá, đài hoa phô bày màu sắc, mọi loại trang nghiêm xong.
Ngày tám của kỳ Bạch Nguyệt: Vuông tròn tám khuỷu tay, sửa trị tinh sạch đất của Đàn. Tinh khiết xoa chà, trang sức giới, viện theo khuôn mẫu.
Nội Viện: Ngay chính giữa để Tỳ Lô Giá Na Như Lai Nhất Thiết Chư Phật Bạch Hương Tượng chủng tộc Bồ Tát Ma Ha Tát ngồi trên tòa hoa sen.
Mặt Đông để A Súc Như Lai Nhất Thiết Chư Phật Kim Cương chủng tộc Bồ Tát Ma Ha Tát ngồi trên tòa hoa sen.
Mặt Nam để Bảo Sinh Như Lai Nhất Thiết Chư Phật Ma Ni chủng tộc Bồ Tát Ma Ha Tát ngồi trên tòa hoa sen.
Mặt Tây để Quán Tự Tại Vương Như Lai Nhất Thiết Chư Phật Liên Hoa chủng tộc Bồ Tát Ma Ha Tát ngồi trên tòa hoa sen.
Mặt Bắc để Bất Không Thành Tựu Như Lai Nhất Thiết Chư Phật Bất Không Thành Tựu chủng tộc Bồ Tát Ma Ha Tát ngồi trên tòa hoa sen.
Viện tiếp theo: Mặt Đông để tất cả Chư Thiên. Ngay cửa để núi Bổ Đà Lạc Potala, trên đỉnh núi để Đa La Bồ Tát kèm các Thị Giả Bồ Tát ngồi vây quanh.
Mặt Nam để tất cả Thiên Tiên. Ngay cửa để núi Tô Đà Lô, bên trên có cung điện bảy báu của Tam Thập Tam Thiên. Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương quấn trên sườn núi. Trong điện để Bán Noa La Bà Tỉ Nễ Bạch Quán Thế Âm Bồ Tát, phía sau là Nhất Kế La Sát Nữ Thần Mặt Tây để Thương Ca Lý Kim Cương Thần.
Ngay cửa để núi Kê La Sa Kailāsa, trên đỉnh núi để Y Noa Phạm Ma La Sát Thần với tất cả Thiên Thần Mặt Bắc để bảy Đa La Thiên Nữ. Ngay cửa để núi Kiền Đà Ma Na hương Túy Gandha mādana, trên đỉnh núi để Tỳ Câu Chi Kim Cương Bồ Tát, phía sau là Tỳ Câu Chi Thần Thị Giả vây quanh với tất cả Càn Thát Bà Thần Trên bốn ngọn núi ấy có mọi loại cây báu, hoa, quả.
Viện tiếp theo: Bốn mặt để hoa sen nở rộ, trên đài để các Khí Trượng Ấn tỏa lửa sáng rực bốn góc để bốn Thiên Vương Thần, mặt mắt đáng sợ, cầm nắm khí trượng. Nhóm Chư Thiên này đều ngồi trên tòa bốn cửa để bình báu Át Già giới hạn của Nội Viện ấy là lối đi nêu dấu hiệu của Kim Cương.
Dấu hiệu ghi nhớ của Ngoại Viện là lối đi giới hạn bằng bảy báu. Ngay bên trên, thứ tự các khoảng giữa vẽ viên ngọc như ý mọi màu sắc có lửa sáng rực nhiễu quanh Nếu xoa bôi trang sức xong, để tượng Bất Không Vương Quán Thế Âm Bồ Tát trên tâm Đàn.
Bạch Đức Thế Tôn! Mạn Noa La Tam Muội Gia này hay hội với tất cả Đàn Ấn Tam Muội Gia Môn của tất cả Tỳ Lô Giá Na Như Lai chủng tộc Vairocanatathāgata kula.
Do đây, nói Đàn Ấn Tam Muội Gia của Bất Không Vương chủng tộc Amogha rāja kula này để khiến cho tất cả người trì Chân Ngôn ngày nay được Đại Thành Tựu. Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia này là điều mà Tỳ Lô Giá Na Như Lai đã nói.
Nghĩa là làm cho hiển hiện thành tựu mọi loại Thần Thông Đại Tam Muội Gia của Bất Không Vương Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn này.
Chính vì thế cho nên người trì Chân Ngôn nên thường tinh cần, chẳng nghĩ đến pháp của đời thế pháp, trí niệm Kim Cương bền chắc của Thật Tướng, khéo giữ gìn uy nghi, tắm gội sạch sẽ, dùng hương xoa bôi thân, mặc quần áo sạch, thọ trì, đọc tụng, sửa trị nghiêm trang Đàn Trường, bày biện trang nghiêm.
Mỗi ngày, trong thời như pháp làm mới: Thức ăn uống có trăm mùi vị, ba loại thức ăn màu trắng, các quả trái tạp, mọi loại hương xoa bôi, hương bột, hoa tạp trên bờ dưới nước, nước Mật, nước tương đường cát, nước tương Bồ Đào, mọi loại nước hương…
Y theo pháp hiến trang sức xếp bày hương Trầm Thủy, hương Bạch Chiên Đàn, hương Tô Hợp, hương Huân Lục, hương Bạch Giao, hương Long não, hương Uất Kim, Thạch Mật… cúng dường làm tất cả hoa vàng, hoa bạc, hoa trân châu đỏ, hoa trân châu trắng, hoa lưu ly xanh, hoa lưu ly đỏ, vòng hoa, cây hoa mọi loại màu sắc…nêu dấu hiệu nghiêm sức.
Đem bình lưu ly năm màu, bình vàng, bình bạc, bình bảy báu… chứa đầy nước hương, bày trí ở bốn cửa, bốn góc cúng dường. Tùy theo pháp trì dùng hoa lúa đậu, hạt cải trắng dùng hai mươi tám chén đèn bơ, đèn dầu bày hiến. Ngày tám của kỳ Bạch Nguyệt, một ngày một đêm chẳng ăn, chẳng nói, Thỉnh Triệu, Kết Giới, Kết Ấn, Hộ Thân.
Ngày chín nên ăn ba loại thức ăn uống màu trắng, y theo tướng của Bất Không Vương Quán Thế Âm, dùng tất cả pháp nhận giữ Trí Ấn, Kim Cương Thân Ngữ Tâm Ấn nhập vào bánh xe chữ của Chân Ngôn xoay vần nhiếp tướng Quán Thế Âm, Trí Bình Đẳng Luân Quang Tam Muội Gia của Quán Tự Tại. Tụng trì Thần Thông Giải Thoát Tâm Đà La Ni Chân Ngôn, mọi loại cúng dường, thỉnh triệu, phát nguyện.
Nếu có quốc vương, đại thần, Sa Môn, Bà La Môn, tất cả người dân… thỉnh Tam Muội Gia, đều tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới, thọ trì Trai giới, cầm cái gương dẫn vào Tam Muội gia trì, rải hoa, lễ bái, quán đỉnh, thọ nhận Tam Muội Gia, quán Tượng, hành đạo, đi ra bên ngoài, quỳ ngồi, phát tâm Bồ Đề.
Thời người trì Chân Ngôn lại tụng Thần Thông Giải Thoát Tâm Đà La Ni Chân Ngôn làm pháp gia bị. Tụng Phấn Nộ Vương Chân Ngôn gia trì vào nước hạt cải trắng rồi rưới vảy bên trong bên ngoài của Đàn.
Kết Quán Đỉnh Ấn gia trì trên đỉnh đầu, lại dùng hương hoa rải bày trên Đàn cúng dường Bất Không Vương Quán Thế Âm Bồ Tát, Đa La Bồ Tát, Thấp Phế Đa Bồ Tát, tất cả Chư Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Thiên Thần, tất cả Sơn Thần, Chư Thần bên trong bên ngoài.
Lúc đó, người trì Chân Ngôn ngồi ở cửa Tây, rộng phát bốn tâm vô lượng. Lắng tâm quán kỹ lưỡng, nghĩ nhớ tất cả Chư Phật ở mười phương hiện Đại Thần Lực gia bị Mạn Noa La Tam Muội Gia này. Y theo pháp kết Ấn, tụng trì Thần Thông Giải Thoát Tâm Đà La Ni Chân Ngôn khiến cho Đàn chấn động.
Khi chứng Tướng này thời vui mừng hớn hở, trên tất cả Tượng của Chư Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát của tất cả Như Lai chủng tộc đều phóng ánh sáng, phát ra mọi loại âm thanh, cùng một lúc khen ngợi. Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bất Không Vương Quán Thế Âm Bồ Tát, Đa La Bồ Tát, Thấp Phế Đa Bồ Tát cùng một lúc ở trong hư không, hiện thân màu vàng ròng, quán nhìn mười phương.
Thời người trì Chân Ngôn phát tâm Bồ Đề. Pháp vốn không có hình, Chánh Đẳng không có biến đổi. Tâm vốn không có sinh, tự tính rỗng lặng không tịch. Niệm tướng chân thật, lặng lẽ, quỳ thẳng lưng, dùng nước Át Già rồi lại cúng dường.
Lại tụng Thần Thông Giải Thoát Tâm Đà La Ni Chân Ngôn thì tất cả Như Lai duỗi bàn tay xoa đỉnh đầu khen rằng: Nay ngươi đã chứng Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia của Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn, ghi nhận thân ngươi trụ Thế Giới An Lạc, chứng Bất Không Vương Đà La Ni Chân Ngôn Minh Tiên bất thoái chuyển Địa, đắc A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Để.
Người đã tụ hội trong Đàn cũng sẽ chứng Bất Thoái Địa, được thọ nhận A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Ký.
Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Tộc Tính Nam, Tộc Tính Nữ thuộc loại Chiên Trà La Caṇḍāla gặp Đàn này thì trong bụng Tượng ấy liền tuôn chảy máu, hiện phát tiếng gầm rống lớn.
Đặc biệt đừng cho người Chiên Trà La đó nhìn thấy Mạn Noa La Tượng Tam Muội Gia này, dầu cho được nhìn thấy thì chẳng được chứng thấy mọi loại tướng biến hóa trong Mạn Noa La. Chỉ âm thầm hộ giúp người trì Chân Ngôn, mộng thấy Thần Thông, các tướng trong Đàn, liền được thành tựu tương ứng tất cả phước đức của thế gian.
Vì thế nên biết người trì Chân Ngôn cần quán sát sâu rộng, dò xét người đã thọ nhận pháp: Trì đủ giới hạnh, căn tin thấy, ba nghiệp thanh tịnh… đối với các hữu tình phát tâm đại bi, tinh tiến tu hành tất cả chánh nghiệp, cung kính Tam Bảo, suy nghĩ mọi loại Giáo pháp của tất cả Đà La Ni.
Cũng chẳng ganh ghét, chê trách, ngờ vực, mỉa mai mọi loại lỗi xấu ác của vị thầy nói tất cả pháp đại thừa, tiểu thừa. Chỉ nên cung kính Hòa Thượng A Xà Lê, cha mẹ, anh em… đều chẳng có ý khinh thường, dốc sức nhún nhường kính trọng hầu hạ.
Người trì Chân Ngôn: Tâm không có phóng dật, tinh trì Tự Tính Kim Cương Bình Đẳng bên trong bên ngoài, giới thanh tịnh. Đối với các Kinh pháp thực hành chẳng trái ngược, cũng thường chẳng ăn thức ăn dư thừa của phàm, Thánh. Thức ăn dư thừa ở chỗ của mình.
Cũng chẳng thức ăn uống, quần áo, mọi loại cúng dường của các nhà: Mua bán rượu, uống rượu, bán thịt, ăn thịt, gieo trồng mua bán năm tân, ăn nuốt năm tân, tất cả mười luật nghi ác.
Người trì Chân Ngôn ăn uống thức ăn thường có của mình, cũng chẳng nên làm bán xuất nhập thực, giáp thực, ngữ thực. Dùng bàn tay sạch sẽ nhận lấy thức ăn, thức ăn uống đã ăn cũng thường mới sạch.
Người làm thanh tịnh, tu trì pháp này thì bụng tượng vàng ròng của Quán Âm chẳng hiện ra máu, được Quán Thế Âm hiện thân trong Đàn, cầm tay dạy bảo, tự cởi chuỗi Anh Lạc Quảng Đại Quang Minh Ma Ni cho đeo trên cổ, dùng bàn tay xoa đầu, bảo rằng: Nay ngươi là con chân thật của ta.
Người chứng Tướng này, được Đại Thần Thông Tam Muội Gia, liền được chứng nơi tất cả Như Lai chủng tộc hội thông với tất cả Đàn Ấn Tam Muội Gia, Chuyển Luân Vương Tam Muội Gia của tất cả Bất Không chủng tộc, Đại Đàn Tam Muội Gia tối thắng của Bất Không Vương, Bất Không Quảng Đại Vô Cấu Quang Minh Thần Thông Đại Tam Ma Địa, cho đến Bồ Đề lại chẳng lùi mất.
Dùng Tam Ma Địa Samādhi này chứng thấy mọi loại Thần Biến Sinh Tử Mê Luân Tam Muội Gia của thế gian, đắc được Như Lai Bất Không Tam Muội gia bị rồi được chứng hiểu Nhất Thiết Như Lai Vô Đẳng Đẳng Thần Thông Đại Tam Muội Gia.
Như nơi các Như Lai tu cầu pháp xong, ở nơi vắng lặng, nghiêm khiết tòa báu, an trí Tượng này.
Mỗi ngày sáu thời, yên lặng chẳng nói, thiêu đốt hương Vương, như pháp tụng trì Thần Thông Giải Thoát Tâm Đà La Ni Chân Ngôn, thời số đừng thiếu sót, như pháp cúng dường, lại được Tượng vàng ròng luôn phóng ánh sáng, thường được Quán Thế Âm âm thầm nương theo Tượng này, trong mộng dạy bảo tất cả việc tốt, chẳng tốt trong ba đời. Cũng thường dạy bảo mọi loại phương tiện, trí tuệ của thế gian.
Bạch Đức Thế Tôn! pháp này đừng khiến cho tất cả Bật Sô, Bật Sô Ni, Tộc Tính Nam, Tộc Tính Nữ thuộc loại Đại Tặc Chiên Trà La: Vô minh, tham lam, sân hận, ngu si, phá hòa hợp Tăng, gièm pha nịnh hót lật lọng, trì giới chẳng đủ, trộm cắp các Đà La Ni Chân Ngôn Đàn Ân Tam Muội Gia với trộm cắp tất cả vật của Phật Pháp Tăng… biết nghe giáo ngữ pháp của con Quán Thế Âm.
Tại sao thế?
Vì nhóm Đại Tặc Chiên Trà La này chẳng từng bảy ngày, mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày, cho đến bốn mươi chín ngày, hoặc lại một trăm ngày, một ngàn ngày, ba ngàn ngày, bốn ngàn ngày… như pháp tương ứng điều phục thân tâm, y theo pháp tu tập, thọ trì pháp này, chỉ thường nói giả dối: Ta chứng, ta hiểu, ta là người tu đạo khai mở đạo…bên trong đã gom chứa nghiệp thảy đều hư hỏng, làm các nghiệp ác, dơ bẩn hủy hoại pháp của con.
Bạch Đức Thế Tôn! Thế nên, một chữ, một câu của Kinh này đừng để cho nhóm Đại Tặc Chiên Trà La này được thấy nghe, đọc tụng, thọ trì.
Chính vì thế cho nên, người trì Chân Ngôn nên chính đúng y theo pháp hộ trì giáo của con Quán Thế Âm, mau được chứng Tối Thắng Giải Thoát Bí Mật Đại Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia này tương ứng thành tựu.
Nếu Sa Môn, Bà La Môn, Tộc Tính Nam, Tộc Tính Nữ có Phạm Hạnh Brahma caryā thanh tịnh, tính thuần hòa nhã, tâm từ, nhún nhường, chẳng trái ngược với pháp Luật, y theo tướng của Bất Không Vương Quán Thế Âm, dùng tất cả pháp nhận giữ Trí ấn.
Kim Cương Thân Ngữ Tâm Ấn, nhập vào bánh xe chữ của Chân Ngôn, xoay vần nhiếp tướng Quán Thế Âm, Trí Bình Đẳng Luân Quang Tam Muội Gia của Quán Tự Tại, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu tập Kinh Điển này thời người dân ở đời thường nên cung kính mà cúng dường, như tướng của Như Lai, hoặc như tướng của con.
Nên biết người này tức đã cung kính, chu cấp, hầu hạ Như Lai, quán Thế Âm Bồ Tát.
Thế nên người Trí cần thường thành khẩn, ngưỡng mộ, phát tâm đại bi, tin tưởng sâu xa, cung kính Tam Muội Gia Samaya này. Nếu nhớ nghĩ đến con Quán Thế âm cầu xin các nguyện thì con liền hiện thân đều làm cho thành biện, liền được chứng thấy.
Người như vậy, nếu con chẳng làm cho thành pháp này thì con tức đồng với bọn Chiên Trà La kia.
Thế nên người trí giữ gìn tịnh giới, phát tâm đại bi, tâm tin tưởng không có ngăn ngại, dung mạo vui thích, tâm lại nhu hòa, không có chút tâm đố kỵ ganh ghét, chê bai lỗi của người khác mà sinh tần tích?
Thì con liền làm cho thành địa vô thượng, viên mãn tương ứng công đức giải thoát. Như biển dâng lên Thủy Triều lớn thì tất cả chuyển động phun trào đến vòng khắp cả. Con cũng như vậy, nếu tâm hữu tình chuyên giữ niệm tên gọi của con thì con liền tùy theo đi đến, làm cho trừ tội não.
Lại có chúng sinh đủ đại từ bi, tin thấy thanh tịnh, tạm trì pháp này thì con cũng gia hộ.
Chính vì thế cho nên, người trí nên y theo pháp của con Quán Thế Âm tu trì sáu độ, ưa thích thực hành cúng dường, cũng chẳng dấy lên niệm tham lam keo kiệt, ganh ghét đố kỵ, quán niệm sắc dục.
Thường quán pháp lý thanh tịnh của tất cả Như Lai, chuyển đọc Kinh này, y theo pháp suy nghĩ không có lúc gián đoạn dứt mất. Do duyên này, cho nên con yêu thích người này, vui vẻ quán nhìn, âm thầm gia bị Bất Không Vương Thần Thông Giải Thoát Tâm Đà La Ni Chân Ngôn Tượng Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia Thành Tựu Địa.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Mười - Phẩm Trí Và Minh
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Xá Lợi Phất - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng đảnh Vương - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh Tứ Thập Nhị Chương - Chương Mười Chín - Quán Xét Cả Thật Lẫn Giả
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Phẩm Hai Mươi Hai - Phẩm Chúc Lụy