Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thiện Giới - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Như Pháp Trụ Sanh Bồ đề địa - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Ma, Đời Tống

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Ma, Đời Tống  

PHẨM HAI MƯƠI BỐN

PHẨM NHƯ PHÁP TRỤ SANH BỒ ĐỀ ĐỊA  

PHẦN MỘT  

Đại Bồ Tát đầy đủ tánh, đầy đủ giới, đầy đủ sự học giới Bồ Tát, đầy đủ tướng Bồ Tát, thành tựu đầy đủ sự trang nghiêm của Bồ Tát, đủ mười năm món của tịnh tâm, là được sự nghiêm tịnh của ba nghiệp thân, miệng, ý.

Có mười hai hạnh, nhiếp tất cả những gì thuộc hạnh Bồ Tát, nhiếp luôn hạnh Như Lai hạnh thứ mười ba. Khi được vô thượng Chánh Đẳng Giác rồi, gọi là vô thắng hạnh.

Những gì gọi là mười hai hạnh của Bồ Tát?

Tánh hạnh.

Giải hạnh.

Hỷ hạnh.

Giới hạnh.

Tuệ hạnh. Tuệ hạnh lại kiêm luôn ba hạnh kế.

Chung trợ bồ đề hạnh.

Chung Thánh Đế hạnh.

Chung Thập Nhị Nhân Duyên hạnh.

Hành hạnh.

Vô tướng hạnh.

Hay vô hành hạnh.

Vô ngại hạnh.

Bồ Tát hạnh.

Nếu Bồ Tát tu mười hai hạnh này là nhiếp các hạnh là nhiếp luôn hạnh Như Lai, hơn tất cả hạnh. Đó là Vô thắng hạnh.

tánh hạnh là gì?

Đại Bồ Tát tu tập công đức của Bồ Tát, đầy đủ thiện pháp, vì tu tập các thiện pháp cho nên thường vui với thiện pháp, thọ trì tất cả chủng tử Phật Pháp. Tự biết thân mình có hạt giống Phật, phá hoại phiền não phần thô, thế gọi là tánh hạnh. Thập tín vị.

Bồ Tát đầy đủ về tánh hạnh đây, trọn không thể khởi phiền não sâu nặng như tạo năm tội nghịch hay tội Nhứt xiển đề. Đây mệnh danh là tánh hạnh.

Giải Hạnh là gì?

Đại Bồ Tát phát bồ đề tâm tu về các hạnh, gọi là Giải Hạnh Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Về tánh hạnh, khi Bồ Tát thực hành tánh hạnh là còn trong nhân vị của Hạnh Bồ Tát, là nhân của mười hai hạnh, là nhân của hạnh Như Lai.

Dầu là cái nhân của chung các hạnh, nhưng chưa được các hạnh khác huống gì hạnh Như Lai. Cũng chưa được đủ nhân, chưa được quả và cũng là chưa được sự thanh tịnh.

Nếu được một hạnh gọi là giải hạnh, gọi là thực hành về hạnh Như Lai, song cũng vẫn chưa được hạnh Như Lai, chưa tịnh được hạnh Như Lai, mà mệnh danh là tịnh được giải hạnh.

Bởi tịnh giải hạnh nên được hỷ hạnh và tịnh hỷ hạnh. Vì tịnh hỷ hạnh nên được giới hạnh. Tịnh được giới hạnh cũng thế, cho đến Hạnh thứ mười hai gọi là Bồ Tát hạnh. Đầy đủ Bồ Tát hạnh và tịnh Bồ Tát hạnh rồi được Như Lai hạnh và tịnh Như Lai hạnh.

Hỷ hạnh: Bồ Tát dốc lòng tịnh bồ đề tâm, gọi là hỷ hạnh.

Giới hạnh: Bồ Tát trước hết trong sạch các giới trọng thuộc về tánh giới, chẳng hủy giá trọng. Bởi giới được thanh tịnh cho nên tu các thiền định thế gian, gọi là giới hạnh.

Tuệ hạnh: Nương vào thiền định thế gian mà nhập bốn Thánh Đế.

Tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, gọi là chung trợ bồ đề hạnh.

Tu trợ bồ đề hạnh, nhận thực về Bốn Thánh đế, gọi là Chung Thánh đế hạnh.

Chung Thập Nhị Nhân Duyên hạnh: Hoặc quán tứ đế, thấy tất cả khổ từ nhân duyên sanh, từ nhân duyên diệt. Đây gọi là Chung Thập Nhị Nhân Duyên hạnh.

Hành hạnh: Vì pháp trợ bồ đề mà siêng tu tinh tấn, gọi là Hành hạnh.

Vô tướng hạnh: Tuy chẳng thấy tướng chúng sanh hay tướng bồ đề, nhưng tu đạo bồ đề không thôi, không nghĩ gọi là vô tướng hạnh.

Vô ngại hạnh: Tu tập vô phân biệt pháp giới, vì vô lượng chúng sanh diễn nói chánh pháp làm cho chúng sanh tu đạo vô thượng bồ đề.

Thực hành hạnh vô thượng, lần lượt chứng vô thượng bồ đề, làm tất cả Phật Sự, mệnh danh là Bồ Tát hạnh.

Đầy đủ tánh hạnh, Đại Bồ Tát nhất định được mười hai hạnh.

Đầy đủ giải hạnh, đại Bồ Tát đoạn được lậu hoặc về phần thô tướng.

Đầy đủ hỷ hạnh, cho đến Bồ Tát hạnh cũng vậy chẳng còn thoái chuyển đối với quả Phật.

Khi Đại Bồ Tát thực hành tánh hạnh, chẳng chấp tướng mạo tất cả các pháp, cho đến thực hành Bồ Tát hạnh cũng vậy.

Khi Đại Bồ Tát tu hành tánh hạnh, chẳng chấp sự mong cầu thiện pháp và thành quả thiện pháp, cho đến Bồ Tát hạnh cũng vậy.

Khi Đại Bồ Tát tu hành tánh hạnh được sức mạnh của trí tuệ vĩ đại, cho đến thực hành Bồ Tát hạnh cũng vậy.

Khi Đại Bồ Tát tu hành tánh hạnh, dứt năm sự sợ sệt là: Sợ chẳng được sống. Sợ chịu tiếng xấu. Sợ chết. Sợ nẻo ác. Sợ đại chúng.

Tuy nhiên nhiều lúc còn có nghiệp ác thuộc thân, miệng, ý. Nhiều lúc ham muốn nghĩ đến ngũ dục, nhiều lúc còn tiếc những vật mình có, nhiều lúc theo người không tự quyết định.

Hoặc có lúc chẳng quan tâm đến Phật, Pháp, Tăng thật hay chẳng thật, chẳng quan tâm về sự không thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát, chẳng cầu nhân, chẳng cầu quả, chẳng cầu nhiều, chẳng cầu ít.

Với sự đắc, thất không sanh lo mừng, thực hành phương tiện quấy hay chẳng thực hành phương tiện.

Có chút ít Văn Huệ lại nhiều khi quên mất, đầy đủ sự khổ, trí tuệ không thông lợi, ít nghĩ về vô thượng bồ đề, chẳng siêng tinh tấn, chẳng được tâm tin hiểu sâu xa, khi tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc sanh tâm điên đảo, bỏ thân sanh qua đời khác quên mất chánh niệm.

Hoặc có khi sáng suốt, có khi mất sự sáng suốt, chẳng thể biết phương tiện thích nghi để điều phục chúng sanh.

Hoặc có khi nói pháp nhưng chẳng hiểu đúng câu, nghĩa, văn tự, người nghe có kẻ tin nhận, như người nhắm bắn trong tối khi trúng khi không trúng.

Phát bồ đề tâm hoặc thoái hoặc không, hoặc phá hỏng giới Bồ Tát đã thọ, hoặc chỉ muốn tự vui, chẳng vì chúng sanh, hoặc quan niệm lệnh lạc về quả báo, phước báo của Bồ Tát.

Khi nghe pháp sâu có lúc sinh sợ, có lúc vui mừng, hoặc có lúc tin sâu, có khi nghi hoặc, chẳng thể tu tập về lòng từ bi, hoặc thí ít cho người, tâm sanh vui mừng cho là vừa đủ, không tướng Bồ Tát, không tướng trang nghiêm của một Bồ Tát, thấy mình cách xa với đạo vô thượng, chẳng thể đến nới đến chốn.

Tâm nghĩ về Đại Niết Bàn mà chẳng biết về danh tánh các pháp trợ bồ đề v. v… còn có những tướng như vậy, gọi là Bồ Tát tánh hạnh.

Bồ Tát giải hạnh được ba đức nhẫn: Bậc hạ, bậc trung, bậc thượng. Khi được hạ nhẫn tức đồng với tướng thượng nhẫn của hạnh dưới. Trung nhẫn là mức trung bình. Được thượng nhẫn là đồng với tướng hạ nhẫn của hạnh trên.

Đến khi chứng được hỷ hạnh là được chấm dứt tướng nhẫn như vậy, chỉ một mực thiện. Vì đầy đủ thiện pháp cho nên gọi là tịnh tâm. Bồ Tát giải hạnh tuy có ba bậc nhẫn như trên nhưng chẳng thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Bởi khi thực hành ba pháp nhẫn, còn có các phần hạ, trung và thượng, nên chẳng thanh tịnh. Khi trụ hỷ hạnh đoạn hết các điều ác, thế nên thanh tịnh.

Lại nữa, khi trụ hỷ hạnh, phát tâm vô thượng bồ đề, tùy thuận người nói lại tùy mình tư duy, bởi hai nhân duyên này mà tâm được kiên cố, cho nên gọi là tịnh nguyện, lìa pháp thế gian, được pháp xuất thế, phá sự khổ của chúng sanh, hơn sự phát nguyện của Thanh Văn, Duyên Giác.

Đại Bồ Tát trong một niệm tâm phát nguyện, có thể được vô lượng vô biên công đức, nguyện này không động, không cùng, không lui, không đổi, tăng trưởng lẫy lừng, rốt ráo có thể chứng được vô thượng bồ đề, mệnh danh là chân nguyện.

Về chân nguyện này, Bồ Tát có bốn điều để quán sát:

Ai phát đạo tâm?

Do gì phát tâm?

Phát tâm là những tánh gì?

Phát tâm có những công đức gì?

Đó gọi là bốn.

Ai phát đạo tâm là: Sự thành tựu giải hạnh, đủ công đức lành và khéo thực hành đạo bồ đề. Sự phát bồ đề tâm của chúng sanh cũng vậy.

Do gì phát tâm là sao?

Nghĩa là đủ sự trang nghiêm về đạo bồ đề, làm lợi ích chúng sanh, tu vô lượng hạnh thuộc vô thượng bồ đề, thành tựu đầy đủ tất cả Pháp Phật, tất cả hạnh Phật.

Đây gọi là nhân duyên. Do nhân duyên này mà phát bồ đề tâm. Tất cả những sự phát tâm đều nhằm trang nghiêm vô thượng bồ đề.

Tất cả công hạnh cũng đều là việc của đạo bồ đề, tùy thuận nhất thiết trí, tùy thuận tất cả Phật Sự, xa lìa phàm phu, được mệnh danh là Bồ Tát danh tự, Bồ Tát danh tự lìa địa vị phàm phu, vào địa vị quyết định, sanh vào giòng giống Phật, được gọi Phật Tử.

Nhất định chứng quả vô thượng bồ đề, được tâm đại hỷ xả, xa lìa tâm tham vọng, ganh tỵ, sân hận, vì chúng sanh mà diễn nói đạo vô thượng bồ đề, trang nghiêm đầy đủ tất cả Pháp Phật, việc Phật, Hạnh Phật, chứng được tâm hỷ, được vui vắng lặng, xa lìa phiền nã.

Thân được an lạc, thành tựu đầy đủ thiện pháp thanh tịnh, gần với vô thượng bồ đề, chí tâm, tịnh tâm, vì hướng đi của Bồ Tát, lìa tất cả sợ sệt, được tâm đại hỷ, phát tâm bồ đề sâu nặng, bỏ lìa năm thứ sợ sệt, tụ tập chướng vô ngã, rõ biết không ngã, sở hữu của ngã.

Bởi quán không ngã, sở hữu của ngã, cho nên chẳng tham chấp thân, do đó lìa mối lo sợ chẳng sống. Chẳng tìm, chẳng cầu vật dụng người khác, dầu vật đáng giá, thường lập nguyện rằng làm sao cho tôi có thể đem lợi ích lớn cho khắp mọi người do thế Bồ Tát bỏ lìa lo sợ bị mang tiếng xấu. Vì lìa chấp ngã, chẳng thấy có ngã, do đó lìa bỏ mối lo sợ chết.

Vì dốc lòng biết rõ: Tôi bỏ thân rồi thường cùng đi chung với Phật, Bồ Tát. Thế nên lìa mối lo sợ đọa ba đường ác. Vì dốc lòng cầu pháp xuất thế gian, do đó bỏ lìa sợ sệt oai đức đại chúng.

Bồ Tát xa lìa các nỗi lo sợ như thế rồi, cũng được bỏ lìa mối sợ nghe nghĩa sâu xa, lìa tất cả tâm kiêu mạn và tâm nhiễu hại, lìa tâm vui mừng theo kiểu thế gian, được tâm thanh tịnh tâm không hư hỏng, được tâm vĩ đại, được tâm bất động.

Được những tâm ấy cho nên siêng năng tinh tấn hành đạo, vì dốc lòng nghĩ đến vô thượng bồ đề. Bởi dốc lòng tin, cho nên chuyên ròng siêng năng tu tập pháp trợ bồ đề. Đây gọi là hỷ hạnh.

Do trụ hỷ hạnh tâm được thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh nên dốc lòng nghĩ đến việc cúng dường các Đức Như Lai, thường nghĩ đến việc hộ trì chánh pháp, sự tăng trưởng pháp, hết lòng nghĩ đến điều phục chúng sanh, trụ Thế Giới Phật, gần gũi Chư Phật, chí tâm nghe pháp, tịnh Quốc Độ Phật.

Thường nghĩ đến chung hạnh với Phật, các vị Bồ Tát, các thiện tri thức. Vì lợi ích chúng sanh, mong chứng vô thượng bồ đề để làm Phật Sự.

Trong khi chưa được vô thượng bồ đề, Bồ Tát thường lập những nguyện như vậy, gọi là đại nguyện. Trăm ngàn vô lượng những nguyện như vậy gọi là thiện nguyện. Lập nguyện này rồi nơi đời hiện tại siêng tu tinh tấn. Vì tịnh hỷ hạnh mà tu mười pháp.

Mười pháp ấy là:

Tin tất các Pháp Phật. Do mười hai nhân duyên chúng sanh chịu khổ. Vì chúng sanh chịu khổ khiến được giải thoát mà tu bi tâm.

Vì đem an vui cho khắp chúng sanh nên tu từ tâm.

Vì chúng sanh khổ mà không tiếc thân. Không tiếc thân mạng cho nên xả bỏ vật trong lẫn ngoài.

Vì lợi ích chúng sanh mà chịu thống khổ không hề hối hận.

Tâm không hối hận cho nên biết được sách vở, phương thuật thế gian.

Vì biết thế điển nên có thể biết được căn tánh khác biệt thuộc thượng, trung, hạ của các chúng sanh.

Tùy căn cơ của bậc hạ, trung, thượng mà đầy đủ hổ thẹn.

Tu những việc như vậy, tâm không lui sụt.

Được sức dõng kiện, nhận tài vật của người rồi xử dụng vào việc cúng dường Tam Bảo. Trên đây gọi là mười pháp.

Tóm lại, mười pháp này là:

Lòng tin, lòng bi, lòng từ, bố thí, chẳng sầu, biết rõ thế điển, tùy thuộc thế gian, hổ với người, thẹn với mình, mạnh mẽ.

Đại Bồ Tát tu mười pháp này, vì trì giới mà thực hành chín cách quán sát đạo quả, công đức và mối lo ngại. Biết rồi có thể tu tập về đạo.

Hết lòng thọ trì qua tất cả hạnh, được vô thượng bồ đề, luôn luôn độ sanh nơi biển sanh tử, luôn luôn giáo hóa chúng sanh tu các hạnh lành.

Bồ Tát bấy giờ trụ lực thiện hạnh là thấy vô lượng Đức Phật, như chỗ nói về sự thấy, sự nghe trong Bồ Tát tạng.

Bồ Tát lại biết vô lượng Thế Giới trong khắp mười phương, có vô lượng tên, có vô lượng Phật. Biết rồi chí tâm mong thấy và có thể thấy. Đây gọi là thiện nguyện.

Bồ Tát lại lập nguyện:

Nguyện tôi thường sanh nơi Thế Giới Chư Phật, tùy nguyện vãng sanh. Đó gọi là thiện nguyện. Bởi được sanh qua Thế Giới Chư Phật, cho nên cũng được tùy sức cúng dường Phật, Pháp, Tăng Bảo, nghe pháp thọ, trì, đúng như pháp trụ.

Những thiện pháp đã tu, đều đem hồi hướng vô thượng bồ đề, dùng bốn nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh, do đó thiện pháp càng thêm lẫy lừng. Cúng dường Tam Bảo, nhiếp lấy chúng sanh trong vô lượng kiếp, thanh tịnh thân tâm.

Như sự luyện vàng trải qua nhiều lần, màu sắc của vàng càng sáng gấp bội. Tâm Bồ Tát cũng tương tự như vậy. Vì tâm của người trong sạch cho nên thiện pháp quyết phải trong sạch.

Khi Đại Bồ Tát thọ lấy thân người, làm Chuyển Luân Vương, làm vua bốn châu, được tùy ý tự tại, xa lìa sẻn tham và phá sẻn tham của các chúng sanh.

Tạo pháp lành gì hoặc nhiều hoặc ít đều hồi hướng đạo vô thượng bồ đề, nguyện khiến chúng sanh, tất cả đều được lợi ích vô thượng.

Khi đó Bồ Tát bởi sự siêng năng tinh tấn thúc đẩy, bỏ ngôi xuất gia, trong khoảng một niệm có thể chứng đủ một trăm tam muội, một niệm thấy Phật trong trăm Thế Giới, cũng biết việc làm của trăm Đức Phật, có thể làm rung chuyển Thế Giới của một trăm Đức Phật, ánh sáng soi đầy một trăm Thế Giới.

Có thể làm thần thông một thân biến ra trăm thân, mỗi thân biến hóa đều biết những việc quá khứ vị lai trong một trăm kiếp, nhập trăm pháp môn ấm nhập giới môn, mỗi mỗi đều biết trăm số, mỗi mỗi đều hiện trăm người để làm quyến thuộc. Tất cả đều được thần thông v.v…

Khi Đại Bồ Tát trụ bậc hỷ hạnh, vì sức thệ nguyện nên có thể làm những sự thần thông như vậy, do đó Bồ Tát phát nguyện không thể nghĩ bàn.

Bồ Tát Hoan hỷ hạnh có sáu phát tâm: Vì phát thiện nguyện siêng tu tinh tấn. Vì tịnh các hạnh. Vì chứng các hạnh khác. Vì tịnh các thiện căn. Vì khéo ứng thân các cõi. Vì chẳng thể nghĩ bàn.

Hoan hỷ hạnh đây, như trong Thập Trụ nói về Hoan Hỷ Địa, Vì tự lợi gọi là Địa. Lợi tha gọi là hạnh.

Bồ Tát giới hạnh có những tướng nào?

Những công đức gì Bồ Tát hỷ hạnh đã có, Bồ Tát giới hạnh thảy đều đầy đủ, gồm có mười tịnh tâm.

Đây là mười:

Tâm thanh tịnh, hết lòng cung kính vâng thờ các bậc Sư Trưởng. Hòa Thượng, tôn túc kỳ cựu có nhiều đức độ, chẳng sanh khi dối.

Tâm thanh tịnh khi gặp Bồ Tát đồng hạnh, trước mở lời chào, nói năng mềm mỏng.

Tâm thanh tịnh thắng tất cả ma nghiệp phiền não.

Tâm thanh tịnh thấy các tội lỗi qua tất cả hạnh.

Tâm thanh tịnh thấy rõ công đức Niết Bàn.

Tâm thanh tịnh tu tập tất cả pháp trợ bồ đề phần.

Tâm thanh tịnh vì pháp trợ bồ đề mà tu tập vắng lặng.

Tâm thanh tịnh không bị pháp thế gian làm nhiễm ô.

Tâm thanh tịnh lìa Thanh Văn Thừa, ưa nghĩ về đại thừa.

Tâm thanh tịnh thường nghĩ làm lợi ích chúng sanh.

Trên đây gọi là mười tịnh tâm.

Bởi đủ mười tâm thanh tịnh như thế, gọi là giới địa hạnh.

Khi Bồ Tát trụ giới địa hạnh là đầy đủ tánh giới, chung đụng với giới tà nghiệp mà chẳng nhận, chẳng nhớ, chẳng sanh vui mừng.

Những điều giới nhẹ còn chẳng làm hỏng, huống gì giới trung, giới thượng. Đủ mười pháp lành biết đâu là thiện, đâu là bất thiện, biết nghiệp lành, nghiệp dữ, nẻo lành, nẻo dữ, là thừa, phi thừa, nào nhân, nào quả thảy đều biết rõ.

Vì biết rõ ràng cho nên Bồ Tát tự tu Thập Thiện, lại còn dạy bảo chúng sanh thực hành Thập Thiện. Nếu các chúng sanh do nhân duyên nghiệp ác, bị các khổ, Bồ Tát sanh tâm lân mẫn, tu tập đại bi, để phá nỗi khổ của các chúng sanh.

Bồ Tát Giới Hạnh thân được vắng lặng và tâm vắng lặng. Thân tâm vắng lặng thanh tịnh sáng suốt, tựa như vàng ròng lại được chất thuốc ca tư bà thoa vào, khi bỏ vô lửa càng thêm sáng sạch.

Tâm lành của Bồ Tát và những pháp được tu cũng giống vậy. Khi Bồ Tát trụ vào bậc giới hạnh, nếu sanh ra đời là thường làm thân Chuyển Luân Thánh Vương làm vua trong toàn bốn châu thiên hạ, có thể chuyển hóa nghiệp ác hủy giới của nhiều chúng sanh, đặt để chúng sanh trong giới pháp lành. Ngoài ra, như đã nói ở bậc hoan hỷ hạnh.

Lại như trong Thập Trụ về Ly Cấu Địa, vì lìa tất cả cấu bợn hủy giới, cho nên gọi là Ly Cấu Địa. Vì dạy giới Bồ Tát mà gọi giới hạnh. Nghĩa Ly Cấu Địa nói trong Thập Trụ và giới hạnh đây tương đương không khác.

Bồ Tát Tuệ Hạnh có những tướng gì?

Bồ Tát trụ bậc tuệ hạnh được mười tịnh tâm, khởi quán như vầy:

Mười tịnh tâm của tôi không thoái không chuyển.

Đối với tất cả các pháp hữu lậu, tâm tôi chẳng sanh cam vui.

Với pháp hữu lậu, tôi nên ưu tu pháp môn đối trị.

Nơi sự đối trị này tôi không thoái chuyển.

Tất cả nghiệp ma phiền não hữu lậu, không một thứ nào mà tôi chẳng nhận ra và chẳng chiến thắng.

Vì sự tu tập cho nên tôi chẳng sanh tâm xả bỏ.

Tôi rất cam vui với những công hạnh của Phật, Bồ Tát.

Vì Đạo bồ đề của các Đức Phật mà tôi tu hành các thứ hạnh khổ, không sanh chán nản.

Nay tôi dốc lòng nhớ nghĩ giáo pháp đại thừa.

Tôi thường muốn làm lợi ích chúng sanh.

Trên đây là mười tịnh tâm.

Bồ Tát Tuệ Hạnh quán sát tất cả hạnh có vô lượng sự khổ chi phối. Khởi quán này rồi chẳng nhiễm các sự chi phối. Quán sát công đức và vô lượng phước hạnh của trí tuệ Phật.

Bồ Tát hết lòng nghĩ những công đức Chư Phật đã có, được tín tâm lớn. Vì phá khổ não của khắp chúng sanh mà tu bi tâm. Khéo nghĩ phương tiện vì khiến chúng sanh được sự giải thoát.

Vì sự giải thoát quán pháp đối trị. Được pháp đối trị cho nên quán các thiện tam muội, thích nghe Kinh Điển thuộc tạng Bồ Tát, đã được nghe rồi siêng tu tinh tấn. Vì sự nghe pháp mà chẳng tiếc thân.

Của cải trong ngoài đều đem cúng dường cha mẹ, Hòa Thượng, Sư Trưởng, tôn túc kỳ cựu đức độ. Vì chúng sanh mà chịu nhiều thứ khổ.

Nếu như được nghe một chữ, một câu, một kệ, một nghĩa thuộc Bồ Tát tạng, tâm Bồ Tát vui, còn hơn được của trân quý đầy khắp đại thiên Thế Giới, còn hơn được thân Đế Thích, Phạm Vương, Ma Vương hay Chuyển Luân Vương.

Nếu có người bảo: Ta có một chữ, một câu, một kệ, một nghĩa, đây là Phật nói. Nếu người có thể chịu khổ gieo mình vào hầm lửa lớn, ta nói cho người.

Đại Bồ Tát nghe điều kiện này rồi, vui mừng nhận chịu, liền phát lời rằng: Giả sử toàn cõi đại thiên Thế Giới này đầy đặc lửa dữ, ta còn có thể đem thân ở vào trong ấy đến vô lượng kiếp, huống gì chút lửa.

Khi đó Bồ Tát vì sự siêng tu tinh tấn, suy nghĩ như vậy: Nếu được nghe nghĩa chân thật thì ta có lợi ích lớn. Phật Pháp vô thượng chẳng phải bởi chữ hay câu mà có thể lợi ích.

Bồ Tát vì muốn hiểu nghĩa chân thật, cho nên tu về Tứ Thiền, Tứ Vô Sắc Định, Tứ Vô Lượng Tâm và năm thần thông.

Bởi tu Thiền định cho nên Bồ Tát nguyện sanh Cõi Dục, tu tập pháp trợ bồ đề làm lợi ích chúng sanh. Dầu sanh Cõi Dục song lại không bị Dục Giới trói buộc. Trước hết là đoạn tham dục, giận dỗi, ngu si v.v…

Ví như vàng ròng được đem luyện nấu, sửa đổi nhiều lần vẫn không tổn giảm.

Tu thiện căn trong sạch cho nên được thân thắng tốt của Trời Đế Thích.

Vì người thích dục hoại sự tham dục khiến được tư duy về các pháp lành.

Vì khiến chúng sanh có thể hay biết hạnh nghiệp, Thế Giới và chúng sanh giới.

Vì biết phương tiện khéo.

Vì chúng sanh khổ khiến được giải thoát.

Vì cúng dường cha mẹ, Sư Trưởng, Hòa Thượng và người có đức.

Vì khiến chúng sanh ăn ở đúng cách.

Vì được thiền định tam muội đứng đắn và các thần thông…

Như trong Thập Trụ, nói về Minh Địa Như Minh Địa trong Thập Trụ, Tuệ Hạnh đây cũng vậy, ngang nhau không khác.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần