Phật Thuyết Kinh Bổn Sư - Phẩm Hai - Phẩm Pháp Hai - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH BỔN SỰ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Huyền Trang, Đời Đường
PHẨM HAI
PHẨM PHÁP HAI
PHẦN HAI
Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Tất cả người ngu si
Làm ba loại độc ác
Chẳng làm ba điều lành
Dẫn theo nghiệp mà sanh
Lúc mạng hết chẳng còn
Quyết định có sầu não
Chết đọa vào đường dữ
Sanh vào nơi địa ngục.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.
Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có một loại Bổ Đặc Già La chúng sanh thành tựu hai pháp, đến khi mạng chung chẳng sanh sầu khổ, lên chỗ tốt đẹp, sanh vào Thiên Giới.
Sao gọi là hai?
Nghĩa là làm chẳng làm.
Sao gọi là làm?
Nghĩa là thân làm điều lành, nói điều hay, ý nghĩ đẹp. Đây có tên là làm.
Thế nào là chẳng làm?
Nghĩa là thân làm ác, nói lời ác, ý nghĩ ác. Có tên là chẳng làm. Cũng có một loại Bổ Đặc Già La chúng sanh thành tựu như thế, nên nói hai pháp, đến khi lâm chung sanh vào sầu khổ, thân hoại mạng chung, sanh lên thiện giới, sanh vào Chư Thiên.
Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Cùng những người sáng suốt
Làm ba loại hành động
Chẳng làm ba điều ác
Dẫn đến sanh đạo đức
Đến khi chết đi rồi
Quyết định chẳng sầu não
Sẽ sanh vào đường lành
Sanh vào nơi thiên giới.
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này.
Các Tỳ Kheo nên biết! Có hai loại diệu trí. Đó là sự tu học về trí tuệ có thể được những gì chưa có thể. Có thể gặp được những gì chưa gặp, có thể chứng được những gì chưa chứng, có thể mất đi sự lo nghĩ, có thể tiêu đi sự khổ não, có thể được chánh lý, có thể được nước Cam Lồ, có thể chứng được Niết Bàn.
Sao gọi là hai?
Một là pháp trí.
Hai là loại trí.
Lúc pháp trí sanh thì làm cho chẳng điên đảo, biến trí thành có nơi pháp hữu vi, khi Biến Tri rồi thì làm cho cảm thọ, sau đó nhờ nhân duyên sanh khởi nên tăng trưởng lớn dần.
Khi loại trí sanh thì có thể làm cho như thật đoạn diệt vô minh. Khi diệt vô minh xong thì làm cho chẳng hí luận, khi chẳng hí luận rồi thì làm cho chẳng dò xét.
Khi chẳng dò xét rồi thì làm cho chẳng dục lạc. Chẳng dục lạc rồi thì làm cho chẳng yêu mến.
Khi chẳng yêu mến rồi thì làm cho chẳng keo kiệt.
Khi chẳng keo kiệt rồi thì làm cho nhiều loại chẳng bị dao cắt, hại đến cãi cọ mà hỗ tương với nhau.
Khi lời nói không thật hay làm cho ly gián, nói lời dơ uế làm cho vô lượng tội ác khởi lên trở thành pháp bất thiện.
Khi bị các pháp bất thiện rồi thì tạo nên nghiệp, làm cho chẳng tăng trưởng.
Sau khi thọ nghiệp chẳng tăng trưởng rồi thì các nghiệp diệt tận.
Khi nghiệp đã diệt tận rồi thì các sự khổ sẽ diệt.
Khi khổ diệt rồi thì đường sanh tử mất tuyệt.
Đường này mất rồi thì làm cho tự biết lấy. Ta đã không còn sanh nữa và phạm hạnh đã lập rồi cũng đã làm xong. Chẳng thọ sanh nữa. Như thế có tên là hai diệu trí, làm cho sanh ra chưa đắc được đắc, chưa gần được gần, chưa chứng được chứng. Có thể làm cho tiêu sầu lo.
Hay diệt trừ những ưu khổ, hay làm cho chánh lý, hay làm cho ngọt ngào, có thể chứng Niết Bàn.
Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Có hai loại diệu trí
Nên tu tập phát sanh
Hay được gì chưa được
Đó pháp trí loại trí
Khi pháp trí sanh ra
Biến trí thành hữu vi
Làm cho có tiếp theo
Nhân chẳng sanh chẳng tăng
Nếu khi loại trí sanh
Vô minh được đoạn diệt
Do pháp này thay đổi
Chẳng sanh tử luân hồi
Tự biết ta hết sanh
Và phạm hạnh đã lập
Những gì đã làm rồi
Không cho sanh ra nữa.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.
Các Tỳ Kheo nên biết! Có hai loại diệu trí.
Đó là ưng chánh tầm tư và ưng thiện xưng lượng, ưng thẩm quan sát. Hay được những gì chưa được, hay gặp những gì chưa gặp, hay chứng những gì chưa chứng, hay tiêu sầu khổ, hay diệt ưu não, hay làm cho chánh lý, hay có vị ngọt, hay chứng Niết Bàn.
Sao gọi là hai?
Nghĩa là thế gian trí và xuất thế trí. Thế gian trí nghĩa là sắc uẩn có thể hiểu biết rõ ràng. Đây là sắc uẩn. Nơi thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng lại như thế.
Ở nơi địa giới hay biết rõ ràng đây là địa giới.
Ở nơi nước, lửa gió và không thức giới lại cũng như thế.
Ở nơi nhãn giới hay làm cho thấy biết rõ, đây là nhãn giới.
Ở nơi sắc giới cho đến nhãn thức giới cũng lại như vậy.
Ở nơi nhĩ giới có thể làm cho biết rõ ràng đây là nhĩ giới.
Ở nơi thinh giới cho đến nhĩ thức giới cũng lại như vậy.
Ở nơi tỉ giới hay làm cho biết rõ ràng đây là tỉ giới.
Ở nơi hương giới cho đến tỉ thức giới cũng lại như vậy.
Ở đây thiệt giới có thể làm cho thấy biết rõ ràng đây là thiệt giới.
Ở nơi vị giới cho đến thiệt thức giới cũng lại như vậy.
Ở nơi thân giới hay làm cho thấy biết rõ ràng đây là thân giới.
Ở nơi xúc giới cho đến thân thức giới cũng lại như vậy.
Ở nơi ý giới hay làm cho biết rõ ràng đây là ý giới.
Ở nơi pháp giới cho đến ý thức giới cũng lại như vậy.
Ở nơi những pháp thế tục như thế, như thị như thị, phải biết rõ như vậy, thấy nghe suy nghĩ, xem xét hiểu biết, khắp cùng hết rồi biết tên của thế gian cùng các Thánh Đệ Tử.
Ở nơi thế gian trí này mà nói là: Ưng chánh tầm tư, ưng thiện xưng lượng, ưng thẩm quan sát. Đây là thế gian trí. Khi tu tập thì hay làm cho kia sánh pháp hữu tình xa rời sự sanh.
Hay làm cho kia thoát khỏi nơi già trong chốn hữu tình. Với pháp bệnh và tử, sầu bi ta thán, ưu lo khổ não, bất an ổn lại cũng như vậy.
Sau khi quan sát rồi lại nên biết rõ. Đó là thế gian trí. Khi tu tập thì chẳng làm cho kia sanh pháp hữu tình, quyết xa rời sự sanh.
Chẳng làm cho kia, pháp già của hữu tình thoát khỏi già, pháp bệnh, pháp chết, pháp sầu, pháp thán, pháp ưu, pháp khổ, pháp bất an ổn cũng lại như vậy.
Vì sao thế?
Đây là trí thế gian. Chẳng phải pháp của Hiền Thánh. Chẳng thể xa rời, chẳng vui Niết Bàn, chẳng thể rời thú, chẳng thể xa lìa, chẳng hay đoạn diệt, chẳng thể yên lặng, chẳng trí huệ chánh, chẳng Chánh Đẳng Giác, chẳng đến Niết Bàn.
Đây là pháp thọ sanh, đây là sự cảm thọ của pháp già, pháp bệnh, pháp chết, pháp sầu, pháp thán, pháp ưu, pháp khổ, pháp chẳng an ổn.
Nơi kia như vậy gọi là tầm tư xưng lượng, thẩm quán sát nơi pháp thế gian, ở nơi sự sợ hãi. Ở nơi pháp xuất thế thì ở nơi an tịnh.
Từ nơi thế gian sanh ra sợ hãi cũng chẳng chấp thọ cho đến chẳng chấp thọ rồi chẳng sanh khát yêu cho nên bên trong chứng được Niết Bàn cứu cánh.
Khi chứng Niết Bàn rồi làm cho tự biết được, sự sanh ta đã tận, phạm hạnh ta đã lập rồi cho nên chẳng thọ lại nữa. Vì vậy có tên là thế gian trí, ưng chánh tầm tư, ưng thiện xưng lượng, ưng thẩm quan sát. Xuất thế gian trí nghĩa là ở nơi tất cả uẩn giới xứ hay biết rõ ràng.
Đây là các pháp có tánh vô thường, tánh khổ, tánh bệnh, tánh sầu, tánh lo, tánh não, tánh hại, tánh sợ, tánh nóng, tánh hoại, tánh diệt, tánh tai, tánh ngang, có tánh bệnh, tánh hư, tánh ngụy, tánh không, tánh vọng, tánh không có ngã, tánh khó giữ lòng tin.
Như thế đó ở nơi các tánh này hãy biết như thật, thấy nghe rõ ràng hiện xem giác ngộ, khắp các nơi rồi, có tên là xuất thế gian trí.
Các Thánh Đệ Tử từ nơi này mà nói về trí xuất thế gian. Ưng chánh tầm tư, ưng thuận xưng lượng, ưng thẩm quán sát.
Đây là trí xuất thế khi tu tập chân chánh thì vì làm cho kia sanh pháp hữu tình, xa rời chẳng sanh.
Vì có thể làm cho kia pháp già hữu tình xa rời chẳng già. Bệnh pháp, tử pháp, sầu pháp, thán pháp, ưu pháp, khổ pháp, bất an ổn pháp cũng lại như vậy.
Khi quan sát rồi hay hiểu rõ đây là trí xuất thế gian, khi tu tập thì định làm cho kia rõ pháp sanh hữu tình xa rời sự sanh.
Định làm cho kia pháp già hữu tình làm cho thoát già, pháp bệnh, pháp chết, pháp sầu, pháp thán, pháp ưu, pháp khổ, pháp chẳng an ổn cũng lại như vậy.
Cho nên đây là trí xuất thế. Cũng là pháp của Hiền Thánh, có khả năng ra khỏi, đó là niềm vui Niết Bàn, xa rời cảnh thú, có thể vĩnh viễn xa rời.
Có thể vĩnh viễn tiêu diệt, có thể vĩnh viễn yên tĩnh. Đó là trí huệ chân thật. Đó là Chánh Đẳng Giác, có thể chứng được Niết Bàn, chẳng thọ sanh nữa, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết, chẳng sầu, chẳng than, chẳng lo, chẳng khổ, chẳng không an ổn.
Từ nơi ấy được gọi là Tầm Tư Xưng Lượng, khi quan sát sâu vào thì nơi pháp xuất thế ấy sanh ra ý nghĩ trân quý. Ở nơi thế gian pháp thì sanh tư tưởng thấp kém và đối với pháp xuất thế thì sanh trân bảo vậy. Sẽ sanh hoan hỷ. Khi sanh hoan hỷ rồi, tâm này được an vui.
Khi tâm an vui rồi thì thân được nhẹ nhàng.
Khi thân nhẹ nhàng rồi thì thọ nhận những điều an lạc.
Khi an lạc rồi thì tâm sẽ được tịch định.
Khi tâm tịch định rồi thì có thể thấy được trí chân thật.
Khi thấy được trí chân thật rồi thì vào sâu nơi sự chán ghét. Sau khi chán ghét rồi thì có thể ly dục chân chánh.
Khi ly dục chân chánh rồi thì có thể giải thoát.
Khi đã được giải thoát rồi thì liền tự biết đủ.
Ta đã hết sanh, phạm hạnh đã lập, việc làm đã qua, chẳng thọ thân nữa, cho nên có tên là xuất thế trí, ưng chánh tầm tư, ưng thiện xưng lượng, ưng thẩm quan sát. Như thế có tên là hai diệu trí.
Ưng chánh tầm tư, ưng thiện xưng lượng, ưng thẩm quán sát làm cho cái gì chưa được sẽ được, có thể gặp những gì chưa gặp, có thể chứng những gì chưa chứng, có thể tiêu lo buồn, có thể diệt khổ não, có thể được chánh lý, có thể có Cam Lồ, có thể chứng Niết Bàn.
Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Có hai loại diệu trí
Kẻ trí hay tìm hiểu
Nghĩa đời và xuất thế
Hay làm cho hết khổ
Hay xem trí thế gian
Phát sanh sự sợ hãi
Cả không cùng chấp có
Chuyển đổi đến Niết Bàn
Hãy xem trí xuất thế
Phát sanh ý trân quý
Do đây sanh hoan hỷ
Làm cho thân nhẹ nhàng
Nhẹ nhàng rồi vui vẻ
Vui vẻ rồi tâm yên
Do tâm đã được yên
Làm cho sanh giác ngộ
Giác ngộ xem chân lý
Xa rời các lưới nghi
Hai căn hai phiền não
Hai hàng cùng hai giới
Hai việc làm chẳng làm
Hai trí cùng hai loại.
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này.
Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có Tỳ Kheo vì muốn giả bộ cuồng si nơi chúng sanh, vì cầu danh dự, cầu lợi dưỡng hoặc cầu sự cung kính mà làm người xuất gia thì đó là kẻ chẳng chân thật.
Y nơi Như Lai mà tu hành phạm hạnh. Nếu có Tỳ Kheo vì hiểu biết, vì nhanh nhẹn mà làm kẻ xuất gia thì đây là chân thật vậy. Y nơi Như Lai tu hành phạm hạnh.
Vì sao vậy?
Là các Tỳ Kheo vì sự hiểu biết, vì sự nhanh lẹ nên mới xuất gia vậy, làm cho trở nên như thật, thấu suốt hiểu biết, biết những gì đáng biết, có nghĩa là như thật, thông suốt nhiều điều, biết được điều biết, làm cho như thật, dứt trừ những gì đáng dứt trừ, tu những gì đáng tu, chứng những gì sẽ chứng, tức là có thể như thật trong việc đoạn, tu và chứng vậy.
Lúc ấy sẽ rõ ràng biết rằng ta không còn sanh, phạm hạnh đã lập rồi và việc làm đã xong, chẳng thọ sanh nữa. Như thế nên có tên gọi là hiểu biết, là biến tri mà xuất gia vậy. Nên có tên là chân thật. Y nơi Như Lai tu hành phạm hạnh.
Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Vì giả cuồng, danh dự
Lợi dưỡng cùng cung kính
Chẳng phải tu phạm hạnh
Đó xuất gia chẳng thật
Vì hiểu biết chân chánh
Mau chứng nghĩa tối thượng
Đó là chân phạm hạnh
Chẳng hư vọng xuất gia
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.
Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có Tỳ Kheo vì muốn giả cuồng trong chúng sanh để cầu danh dự, để cầu lợi dưỡng và cầu cung kính mà xuất gia thì đó gọi là chẳng chân thật.
Y nơi Như Lai tu hành phạm hạnh. Nếu có Tỳ Kheo vì luật nghi, vì xả bỏ mà xuất gia thì kẻ ấy được gọi là chân thật nương nơi Như Lai tu hành phạm hạnh.
Vì sao vậy?
Này các Tỳ Kheo! Vì luật nghi, vì xả bỏ chân chánh vậy. Khi xuất gia rồi làm cho như thật, bảo hộ sáu căn, chẳng phá giới và hay mau chứng được việc tối thượng khi đoạn lìa hư vọng để trở thành chân chánh. Nên gọi là như thật.
Hộ trì sáu căn, chẳng phá giới và hay chứng được chánh tín, làm cho trở nên như thật, bỏ những gì đáng bỏ, tu những gì nên tu, chứng những gì nên chứng, tức đó là chân thật.
Khi đoạn, tu, chứng rồi liền làm cho sáng suốt. Sự sanh của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân nữa, như thế có tên là vì luật nghi vậy. Vì dứt bỏ chân chánh vậy, khi ấy xuất gia có tên là chân thật. Y nơi Như Lai tu hành phạm hạnh.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Vì giả si, danh dự
Lợi dưỡng cùng cung kính
Chẳng phải tu phạm hạnh
Đó hư vọng xuất gia
Vì hay giữ luật nghi
Sớm chứng nghĩa vô thượng
Gọi phạm hạnh chân chánh
Chẳng hư vọng xuất gia.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.
Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có Tỳ Kheo vì muốn giả say trong chúng sanh để cầu danh dự, cầu lợi dưỡng và cầu sự cung kính để mà xuất gia thì có tên gọi là không chân thật.
Y nơi Như Lai mà tu hành phạm hạnh. Nếu có Tỳ Kheo vì cầu sự chán ghét, vì cầu ly dục mà xuất gia thì đó là kẻ chân thật vậy. Y nơi Như Lai tu hành phạm hạnh.
Vì sao thế?
Hỡi các Tỳ Kheo! Vì chán ghét rồi, vì ly dục rồi mà xuất gia cho nên có tên là như thật chán ghét ly dục.
Khi ly dục rồi làm cho được giải thoát.
Khi giải thoát rồi, làm cho được hiểu rõ.
Ta sanh đã tận, phạm hạnh đã làm xong, việc làm đã làm, chẳng thọ thân nữa. Như thế nếu có kẻ vì chán ghét, vì ly dục mà xuất gia thì có tên là chân thật. Y nơi Như Lai mà tu phạm hạnh.
Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Vì muốn giả, danh dự
Lợi dưỡng cùng cung kính
Chẳng phải tu phạm hạnh
Đó hư vọng xuất gia
Vì chán ghét, ly dục
Sớm chứng vô thượng nghĩa
Đó là chân phạm hạnh
Chẳng hư vọng xuất gia
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.
Các Tỳ Kheo nên biết! Tất cả Như Lai, ưng Chánh Đẳng Giác đã nói các pháp môn, lược nói có hai.
Thế nào là hai?
Một là nương nơi ác rốt ráo.
Hai là xa lìa tất cả những sự ác nương vào Như Lai Chánh Đẳng Giác.
Lược nói như vậy có hai pháp môn.
Vì sao vậy?
Các người tu hành! Ở nơi pháp ác nên biết rằng từ nơi pháp ấy sinh chán ghét, khi chán ghét rồi thì hay sinh ly dục. Khi ly dục rồi làm cho được giải thoát và làm cho tự biết rõ ràng, ta đã chẳng sanh, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân nữa, như thế hành giả xa rời ái dục và những trói buộc, chẳng điên đảo, quán sát sự khổ đến tận cùng.
Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Hãy biết các Như Lai
Nên biết kẻ Chánh Giác
Có lòng thương chúng sanh
Nói hai loại pháp môn
Để người ác cùng biết
Và chán ghét, ly dục
Tâm giải thoát tự tại
Hiểu rõ đến cùng khổ
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này.
Các Tỳ Kheo nên biết! Có hai loại pháp. Đó là tu và tập. Nếu tu tập nhiều có thể dứt trừ hai pháp.
Thế nào gọi là hai?
Nếu tu và tập. Nếu tu tập nhiều, hay đoạn trừ hai pháp. Nghĩa là quán bất tịnh và quán từ bi hay trừ tham dục cùng với sân si.
Sao lại như vậy?
Tất cả những việc tham trong quá khứ hiện tại cho đến vị lai, tất cả đều do tác ý tư duy mà thành tướng.
Tất cả sân hận trong quá khứ, hiện tại và vị lai đều do tác ý tư duy của sự sợ hãi làm tướng.
Nếu đoạn được tham dục trong hiện tại và vị lai, tất cả đều do tác ý tu bất tịnh quán. Nếu đoạn được sân si của hiện tại và vị lai, tất cả đều do tác ý tu từ bi quán.
Nơi bất tịnh quán, nếu tu tập, hoặc hành trì cẩn mật thì quyết định sẽ bỏ được tất cả những tham dục.
Nơi từ bi quán, nếu có tu tập hoặc hành trì miên mật thì quyết định hay đoạn được tất cả sự sân hận.
Nếu người muốn quyết định đoạn sự tham dục thì phải nên siêng năng tu bất tịnh quán.
Nếu kẻ muốn quyết định đoạn trừ sân si thì nên siêng năng tu từ bi quán.
Tu bất tịnh quán chẳng có tham dục, mà tu từ bi quán thì chẳng có sân hận. Đó có tên của hai loại pháp.
Nếu hay tu tập, hoặc hay dụng công thì có thể trừ được hai pháp.
Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Tu tập hằng tu tập
Hai pháp trừ hai pháp
Đó bất tịnh từ bi
Đoạn tham dục sân si
Cho nên nơi người trí
Hãy xem để lợi lạc
Tu bất tịnh từ bi
Đoạn tham dục sân si.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.
Các Tỳ Kheo nên biết! Nơi cảnh giới Niết Bàn, lược nói có hai loại.
Thế nào gọi là hai?
Một là Hữu Dư Y Niết Bàn, hai là Vô Dư Y Niết Bàn.
Vì sao có tên là Hữu Dư Y Niết Bàn?
Là chư Tỳ Kheo đã chứng A La Hán các lậu tận đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, những gì xả bỏ đã bỏ, những gì chứng đã tự chứng. Những gì đã tận diệt đã được kết liễu.
Những gì chân chánh đã được giải bày, tâm lành giải thoát, đã có trí tuệ, lấy túc hạnh làm duyên, các căn nhanh lẹ, sống còn liên tục, các căn thành thục.
Tiếp xúc với nhiều loại cảnh giới tâm linh tốt đẹp mà hay xả bỏ tất cả, chẳng hề chấp trước. Chẳng hề có tâm yêu giận bao vây tâm này. Những sự ràng buộc của si ái, tất cả đều được xa lìa.
Nếu nương nơi sắc mà cầu để thấy thì chỉ có cách nhìn về các sắc mà chẳng phát khởi sự tham sân, chỉ có nơi nhãn căn mà có màu sắc tốt xấu. Nên chẳng tham dục cùng chẳng sân hận.
Vì sao thế?
Do si ái kết chặt, tất cả đã được đoạn trừ vậy. Nương nơi sự nghe, cầu được sự nghe thì chỉ có tai nghe được các âm thanh mà chẳng phát khởi sự tham sân si thì chỉ có lỗ tai mới nghe được sự tốt xấu. Nên chẳng tham dục lại cũng chẳng sân si.
Sao lại như vậy?
Do sự kết chặt của si ái mà tất cả đã đoạn lìa, nương nơi mùi thơm cầu được mùi vị thì chỉ có lỗ mũi ngửi được các mùi hương mà chẳng phát khởi tham sân si thì chỉ có lỗ mũi mới biết được mùi tốt xấu, chẳng khởi tham dục cũng chẳng sân si.
Sao lại như vậy?
Do si ái kết chặt và tất cả đã được đoạn trừ rồi. Nương nơi mùi vị để cầu mặn nhạt thì chỉ có lưỡi căn với các mùi vị mà chẳng phát khởi tham sân si thì phải có lưỡi mới biết được mùi tốt xấu, nhưng chẳng tham dục lại cũng chẳng sân si.
Sao lại như vậy?
Vì si ái kết chặt nhưng tất cả đều đã bỏ đi rồi. Nương nơi các xúc để cầu đến sự cảm giác thì chỉ có thân này ở nơi va chạm mà chẳng phát khởi tham sân si, chỉ có nơi thân mới cảm nhận được sự tốt xấu, mà chẳng tham dục lại cũng chẳng sân si.
Sao lại như thế?
Do ái si kết chặt mà tất cả đã được đoạn lìa vậy. Nương nơi các pháp để cầu sự hiểu biết, chỉ có nơi ý mới biết các pháp mà chẳng phát khởi tham sân si, lìa các tham dục chứng được cứu cánh tịch diệt Niết Bàn. Suy nghĩ như thế.
Thế Tôn! Vì sự bố úy mà có nơi A lại da thức. Hay vì đoạn kiến nơi sự trói buộc làm cho các nghiệp quả chẳng mất đi. Khi nói chánh pháp, lúc thấy được làm cho sự thấy rộng ra. Người trí bên trong chứng được nhứt thiết thế gian chân thật đối trị.
Nghĩa là hay trừ diệt được kiêu mạn, khát ái làm hại A lại da, trừ những đường nhỏ, chứng vào chân thật tánh, lìa các tham dục.
Chứng được cứu cánh tịch diệt Niết Bàn. Như thế đó có tên là huệ nhãn, hay xem xét chánh đáng. Đó cũng có tên là hai loại làm cho Trời Người, một loại yếu kém, một loại mạnh mẽ, kẻ có huệ nhãn hay xem xét chánh đáng.
Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:
Do hai loại trói buộc
Làm cho cả Trời Người
Một loại là yếu kém
Một loại là mạnh mẽ
Có huệ nhãn Thanh Văn
Hay quán sát như thật
Hay trừ mạn xa lìa
Cứu cánh chứng Niết Bàn
Lại hiểu biết như thật
Phật lại nói chánh pháp
Hay đoạn diệt thường kiến
Và hai ái vô dư
Có huệ nhãn Long Vương
Hay dùng mưa tưới khắp
Diệt các loại phiền não
Làm cho được thanh lương.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Hai - Hai Pháp - Phẩm Mười - Phẩm Kẻ Ngu
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh An Lạc - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Pháp Cú Thí Dụ - Phẩm Hai Mươi Mốt - Phẩm Lão Mạo - Thí Dụ Bốn Mươi Hai
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Năm Mươi Ba
Phật Thuyết kinh đại Tập Hư Không Tạng Bồ Tát Sở Vấn - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Lâu Thán - Phẩm Mười Hai - Phẩm Tai Biến
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Một - Phẩm Một Kệ - Phẩm Ba