Phật Thuyết Kinh Chuyển Thân Nữ - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Ma Mật Đa, Đời Lưu Tống

PHẬT THUYẾT

KINH CHUYỂN THÂN NỮ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Ma Mật Đa, Đời Lưu Tống   

PHẦN HAI  

Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Nói điều phục nữa là đối với ngã mà không vô ngã thì gọi là điều phục.

Vì sao?

Vì không ngã kiến đối với các phiền não, không ái, không khởi, gọi là giải thoát.

Nữ Vô Cấu Quang hỏi Xá Lợi Phất: Tôn Giả được giải thoát chưa?

Xá Lợi Phất đáp: Ta đã được giải thoát.

Nữ Vô Cấu Quang nói: Ai trói buộc Ngài mà Ngài nói giải thoát.

Xá Lợi Phất nói: Không phải trói buộc được giải thoát mà bổn tánh vốn là tướng giải thoát nên ta nói là được giải thoát vậy.

Nữ Vô Cấu Quang hỏi: Nếu bổn tánh không trói không giải là tướng giải thoát.

Cớ sao Ngài nói: Ta đã giải thoát.

Xá Lợi Phất đáp: Tất cả các pháp đều là tướng giải thoát nên ta nói ta đã giải thoát.

Nữ Vô Cấu Quang nói:

Như Tôn Giả nói: Nếu biết các pháp đều là tướng giải thoát thì gọi là cứu cánh giải thoát.

Xá Lợi Phất nói: Như các bậc A La Hán lậu tận đã nói, nay ngươi nói không khác.

Nữ Vô Cấu Quang nói: Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Nay con cũng là A La Hán lậu tận.

Xá Lợi Phất nói: Lấy gì làm chứng lời nói đó.

Nữ Vô Cấu Quang nói: Con xa lìa tất cả trần cấu, đạo phẩm của Thanh Văn, Duyên Giác, con thấy biết như Thanh Văn, Duyên Giác, nhưng không dừng lại Thanh Văn, Duyên Giác. Con chỉ cầu Phật Trí, đó là làm chứng lời nói của con, là A La Hán đã lậu tận.

Xá Lợi Phất hỏi: Như có nhân duyên mà các Bồ Tát làm A La Hán sao?

Nữ Vô Cấu Quang đáp: Có.

Xá Lợi Phất hỏi: Lấy nhân duyên gì có.

Nữ Vô Cấu Quang đáp: Nếu có chúng sanh đời trước gieo trồng thiện căn, người ấy nên dùng thân Thanh Văn độ tức là hiện thân Thanh Văn mà nói: Ta là La Hán vì chúng sanh thuyết pháp chứng A La Hán cũng gọi là Bồ Tát làm La Hán.

Khi nói pháp đó hai trăm Tỳ Kheo không thọ lậu pháp, tâm được giải thoát.

Các Tỳ Kheo bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Nữ biện tài này nhờ oai thần Phật hay tự lực?

Đức Phật đáp: Nhờ oai thần của Phật, và người nữ này cũng có sức biện tài.

Bấy giờ, Nữ Vô Cấu Quang bạch Phật: Kính thưa Thế Tôn! Trong hội này chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di vui lòng nguyện muốn nghe cách tu thiện hạnh ra sao để bỏ thân nữ mau chóng thành thân nam và có thể phát tâm vô lượng bồ đề. Nguyện xin Thế Tôn vì chúng con giảng nói.

Vì muốn tứ chúng lợi ích thành tựu tứ pháp Đức Phật bảo Nữ Vô Cấu Quang: Nếu người nữ thành tựu một pháp được xa lìa thân nữ mau chóng thành thân nam.

Pháp ấy là gì! Là thâm tâm cầu bồ đề.

Vì sao! Nếu có người nữ phát tâm bồ đề là tâm người đại thiện, tâm đại trượng phu, tâm Đại Tiên Nhân, tâm chẳng dưới người, tâm mãi mãi xa lìa nhị thừa hèn kém, tâm có thể phá luận ngoại đạo khác, tâm trong ba đời là tối thắng, tâm có khả năng trừ phiền não không tạp nhiễm kết tập thanh tịnh, nếu những người nữ phát bồ đề tâm thì không tạp nhiễm.

Người nữ này tâm không còn trói buộc của người nữ, vì không còn tạp nhiễm mãi mãi xa lìa thân nữ thành thân nam. Sở hữu thiện căn phải hồi hướng vô thượng bồ đề thì gọi là một pháp.

Lại có người nữ thành tựu hai pháp, có thể xa lìa thân nữ mau thành thân nam.

Hai pháp ấy là gì! Nghĩa là trừ tâm kiêu mạn, lìa bỏ khinh khi dối trá không làm huyễn hoặc. Nguyện xa lìa thân nữ mau chóng thành thân nam, sở hữu thiện căn đều hồi hướng vô thượng bồ đề. Đó là hai pháp.

Lại có người nữ thành tựu dược ba pháp, có thể lìa bỏ thân nữ mau chóng thành thân nam.

Ba pháp là gì?

Một là thân nghiệp thanh tịnh thân giữ ba giới, hai là khẩu nghiệp thanh tịnh, miệng xa lìa bốn lỗi, ba là ý nghiệp thanh tịnh, xa lánh sân nhuế. Tà kiến, ngu si, lấy Thập Thiện phát sanh thiện căn, nguyện lìa thân nữ, mau đắc thành thân nam, hồi hướng bồ đề. Gọi là ba pháp.

Lại có người nữ thành tựu bốn pháp, xa lìa thân nữ, mau chóng thành thân nam.

bốn pháp là gì?

Một là không nóng nảy, hai là không sân hận, ba là không sanh phiền não, bốn là trụ ở sức nhẫn nhục. Gọi là bốn pháp.

Lại nữa người nữ thành tựu được năm pháp, xa lìa thân nữ mau thành thân nam.

Năm pháp là gì?

Một là vui cầu thiện pháp, hai là tôn trọng chánh pháp, ba là lấy chánh pháp mà tự an vui, bốn là đối với người nói pháp kính như thầy, năm là như giáo lý tu hành lấy thiện căn đó nguyện xa lìa thân nữ, mau thành thân nam, hồi hướng bồ đề. Gọi là năm pháp.

Người nữ lại thành tựu sáu pháp được xa lìa thân nữ, mau thành thân nam.

Sáu pháp là gì?

Một là thường niệm Phật, nguyện thành thân Phật, hai là thường niệm pháp muốn chuyển pháp luân, ba là thường niệm Tăng muốn bảo hộ Tăng, bốn là thường niệm giới muốn đầy đủ các nguyện, năm là thường niệm thí muốn xả bỏ tất cả phiền não dơ bẩn, sáu là thường niệm Thiên muốn Chư Thiên trong khắp Cõi Trời được Nhất Thiết chủng trí. Gọi là sáu pháp.

Lại nữa người nữ thành tựu bảy pháp, được xa lìa thân nữ, mau chóng thành thân nam.

Bảy pháp là gì?

Một là đối với Phật được niềm tin không hoại, hai là đối với pháp được niềm tin không hoại, ba là đối với Tăng được niềm tin không hoại, bốn là không thờ kính các vị Trời khác chỉ thờ kính Đức Phật, năm là không tích chứa xan tham làm đúng lời nói có thể hành, sáu là luôn nói lời không lỗi, thường chơn chất, bảy là oai nghi đầy đủ. Gọi là bảy pháp.

Lại nữa người nữ thành tựu tám pháp được xa lìa thân nữ, mau chóng thành thân nam.

Tám pháp là gì?

Một là không nặng tình ái với người nam, hai là không nặng tình ái với người nữ, ba là không nặng tình ái với chồng, bốn là không ưa thích y phục anh lạc, năm là không tham trước hoa sức đồ hương, sáu là không ham muốn bữa ăn ngon, coi như thức ăn của La Sát, bảy là không gian lận vật bố thí, thường nhớ nghĩ mà sinh hoan hỷ, tám là thường hành thanh tịnh luôn biết tàm quý. Gọi là tám pháp.

Lại nữa, người nữ thành tựu chín pháp được lìa thân nữ, mau thành thân nam.

Chín pháp là gì?

Nghĩa là chấm dứt chín pháp khổ não, bỏ cái gì mình yêu thích, đã bỏ nay bỏ và sẽ bỏ. Yêu mến cái gì mình ghét, đã yêu mến nay yêu mến và sẽ tiếp tục yêu mến. Đối với cái gì mình đã bỏ nay bỏ và sẽ bỏ. Gọi là chín pháp.

Lại nữa người nữ thành tựu mười pháp, được xa lìa thân nữ, mau thành thân nam.

Mười pháp là gì?

Một là không tự đại, hai là trừ kiêu mạn, ba là kính trọng bậc Tôn Trưởng, bốn là lời nói thành thật, năm là không cơ hiềm sân hận, sáu là không nói thô bỉ, bảy là không khó dạy bảo, tám là không tham tiếc, chín là không bạo ác, mười là không giỡn cợt. Gọi là mười pháp.

Này Thiện Nữ! Nếu người nữ có khả năng quán thân nữ lỗi lầm một cách như thật, tâm sanh nhàm chán xa lìa, liền xa lìa thân nữ, mau chóng thành thân nam. Thân nữ tội lỗi nghĩa là tham sân si, tâm nhiều phiền não nên phải tôn trọng thân nam.

Lại trong thân đó có một trăm vi trùng, thường vì nhân duyên khổ, hoạn, sầu não nên thân người nữ nặng về phiền não phải khéo suy nghĩ quán sát thân ấy là đồ chứa bất tịnh, đầy ô uế. Như giếng khô nước thì thôn xóm khó có thể an vui, vậy phải sinh nhàm chán xa lìa thân này.

Lại quán thân này như người hầu gái, không tự tại thường phục dịch cho trai gái về y phục, ăn uống, hầu hạ gia nghiệp rất khổ não, nên phải dứt trừ như bỏ cấu uế, đờm giải bất tịnh.

Chín tháng cưu mang thân nhiều nhọc nhằn chẳng phải một, khi sinh chịu đau đớn khó bảo tồn tánh mạng. Vì vậy, người nữ phải nhàm chán xa lìa thân nữ.

Lại nữa dù người nữ sanh ở Vương Cung thì trọn đời cũng lệ thuộc người khác. Như nô tỳ theo sự sai khiến của đại gia.

Như đệ tử phụng sự thầy bị hình phạt nhiều thứ: Đao, trượng, ngói, đá, đấm, đánh, nói lời thô ác mạ nhục như vậy chịu nhiều đau khổ không tự tại. Vì thế người nữ tâm sanh nhàm chán xa lìa thân này.

Lại nữa thân nữ thường bị ràng buộc, giam hãm như rắn, chuột trong hang không dám ra ngoài. Người nữ lại bị ràng buộc pháp qui chế không tự do, thường ở bên cạnh người khác hầu hạ, thưa bẩm, cung cấp phục vụ ăn uống, quần áo, hương hoa, những thứ anh lạc trang nghiêm đầy đủ cho voi, ngựa, xe cộ. Nên phải nhàm chán xa lìa thân nữ.

Thân nữ lại bị người khác sai khiến không được tự tại. Người nữ đảm đương phục dịch nhiều công việc như giã thuốc, xay gạo, nấu, nghiền đậu nành, lúa mì lớn nhỏ, dệt vải đan tơ, như thế nhiều thứ khổ nhọc, phục dịch nhiều vô số kể.

Nên người nữ phải biết thân này là hoạn nạn, mong cầu mãi mãi lìa những cái khổ như thế. Phải lấy pháp này dạy lại người khác, thường nhớ lời chân thành của Như Lai. Tán thán xuất gia báo đền ân Phật phải phát tâm đó, nguyện lìa thân nữ, mau được thân nam.

Ở trong Pháp Phật xuất gia tu đạo, không được tham cầu hoa hương trang sức anh lạc, rong chơi vườn rừng. Đối với y phục, ăn uống, trang nghiêm cho thân vừa đủ. Phải quán tự thân hầu hạ quyến thuộc như máy móc, tượng gỗ khiên kéo đưa lên hạ xuống.

Thân này hư giả tích chứa thịt máu chẳng bao lâu sẽ hoại diệt. Thân này như nhà xí có chín lỗ lưu thông những thứ bất tịnh. Thân này là kẻ ngu si lại đắm trước vào nó, chẳng qua là do tứ đại hợp thành. Thân này là các ấm như oan gia.

Thân này tạm bợ trống rỗng không thật, không kiên cố, như làng xóm bỏ trống. Thân này vô chủ, từ cha mẹ sanh, mà lại hành nghiệp để trang sức nó.

Thân này không sạch rõ ràng dơ bẩn. Thân này là đồ chứa nước tiểu, cức phân, đừng chần chờ hãy vứt bỏ không nên đắm mê nó. Thân này cận kề cái chết, thở ra không thở vào tức đoạn diệt. Thân này vô ngã như cây cỏ, ngói đá.

Thân này Vô tác từ nhân duyên sanh. Thân này khi vứt bỏ ngoài nghĩa trang làm thức ăn cho chim, chó sói, dã can. Thân này nhiều khổ là cái khốn của bốn trăm lẻ bốn bệnh.

Thân này mang nhiều thứ bệnh: Phong, hàn, lạnh, nóng và thường dùng thuốc giữ nó tồn tại nhưng rồi cuối cùng cũng đưa đến sự hoại diệt. Thân này không biết báo ơn, lấy ăn uống nuôi dưỡng không biết đủ.

Thân này vô tri bên trong không tác giả. Thân này đằng sau là cái chết, nên người nữ phải quán sát thân này như thế, sanh tâm nhàm chán tu hành thiện pháp.

Khi tu thiện pháp nếu có vật thực hoa quả thơm ngon, trước dâng Chư Phật, Bồ Tát vô thượng phước điền và cha mẹ sư trưởng, sau đó mới ăn.

Phải suy nghĩ: Nay ta dâng cúng hoa quả thơm ngon với lòng tôn trọng phước điền thanh tịnh, nguyện xin được xa lìa thân nữ dơ bẩn để được thân nam đẹp đẽ.

Khi Phật thuyết pháp này, trong hội năm trăm Tỳ Kheo Ni đều phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác và nói: Chúng con có thiện căn nguyện bỏ thân nữ mau được thân nam.

Bấy giờ, trong hội có bảy mươi lăm cư sĩ nữ nghe Phật thuyết pháp này, tâm họ vui mừng khôn xiết. Họ lấy châu ngọc đồ trang sức trên thân tung rải lên Đức Phật.

Nhờ thần lực của Phật cho nên số anh lạc bay lên trên đỉnh đầu Phật giữa không trung hóa thành bảy mươi lăm đài báu bốn trụ đoan nghiêm tuyệt đẹp rất khả ái. Trong đài có nhiều tòa châu báu, mỗi cái có Như Lai ngồi trên đó với đại chúng Tỳ Kheo, Bồ Tát trước sau quay quanh tự nhiên như vậy hiển hiện.

Thấy Phật biến hóa thần thông những cư sĩ nữ bội phần vui mừng hớn hở vô lượng, họ đến trước Đức Phật đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng và thưa rằng: Kính thưa Thế Tôn! Chúng con có thiện căn nên nay mới cùng nhau hội hợp, đồng phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác, được xa lìa thân nữ hồi hướng vô thượng bồ đề.

Đức Thế Tôn đại bi rộng nói lỗi lầm của thân người nữ, thật đúng như lời Đức Thế Tôn dạy. Chúng con nay siêng năng tu phương tiện, luôn luôn xa lìa những lỗi lầm xấu ác. Từ nay trọn đời từ bỏ, phụng trì ngũ giới tịnh tu phạm hạnh, đem thiện căn này cùng tất cả chúng sanh thành Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, Tôn Giả Xá Lợi Phất nói với các cư sĩ nữ: Chị em có thể làm tiếng Rống Sư tử như thế thật là hy hữu.

Chồng các chị có cho phép các chị tu phạm hạnh không?

Phải hỏi họ! Các cư sĩ nữ bạch Tôn Giả Xá Lợi Phất:

Nếu chúng con từng người phải hỏi chồng: Tôi từ đâu đến, sanh ở đây?

Khi chết nơi này sẽ sanh ở đâu?

Tuy làm chồng nhưng không thể đáp. Như vậy hỏi làm gì.

Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất!

Nếu đem vấn đề đó thưa hỏi Như Lai: Chúng con chết ở đâu lại sanh nơi này.

Chết nơi này sanh ở đâu?

Như Lai biết rõ, nhất định vì chúng con phân biệt nói vấn đề đó. Vì vậy Như Lai là cha mẹ chúng con, là Thế Tôn của chúng con, là Đại Sư của chúng con, là phước điền của chúng con, là hòn đảo quý báu để chúng con nương tựa. Nay chúng con tu phạm hạnh cần gì phải hỏi chồng. Từ nay trở đi chúng con siêng năng tu phương tiện, không lệ thuộc chồng như người nữ khác.

Vì sao! Nếu người có khả năng trừ tham dục, sân nhuế, ngu si những trói buộc thì người ấy trọn đời không bị ràng buộc.

Nay thân tâm của chúng con là chồng con, tâm chúng con tu hành phạm hạnh không vui sao?

Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Nếu chẳng phải chồng chúng con, ý muốn làm chồng để giết mạng chúng con thì chúng con vẫn quyết tâm tịnh tu phạm hạnh không hối hận.

Bấy giờ, Tôn Giả Xá Lợi Phất bảo các cư sĩ nữ: Các người thường siêng năng tu phương tiện được xa lìa thân nữ.

Vì sao?

Vì thân nữ không thể chứng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Các cư sĩ nữ bạch Tôn Giả Xá Lợi Phất: Chúng con từ nay không khỏi phiền não của người nữ nữa.

Rồi đảnh lễ sát chân phật thưa rằng: Kính thưa Thế Tôn! Nay chúng con đảnh lễ sát chân Thế Tôn. Chúng con thề không chuyển được thân nữ thành thân nam, thì nhất định không đứng dậy.

Phật bảo: Này các chị em! Ta thường nói, người nữ có thể làm những việc dũng mãnh như người nam.

Này các chị em! Có mười sáu pháp nếu có khả năng tu hành tùy theo sở nguyện cầu thì đều được như ý. Một giới thanh tịnh, hai tâm thanh tịnh, ba không thanh tịnh, bốn vô nguyện thanh tịnh, năm vô tướng thanh tịnh, sáu vô tác thanh tịnh, bảy biết thân nghiệp như ảo ảnh.

Tám biết khẩu nghiệp như âm vang, chín biết ý nghiệp như huyễn, mười biết pháp duyên khởi, mười một xa lìa nhị biên, mười hai biết các pháp nhân duyên, mười ba quán các pháp như huyễn, mười bốn biết các pháp như mộng, mười lăm tưởng các pháp như lửa bốc cháy, mời sáu thâm tâm tịch tĩnh. Khi Phật thuyết mười sáu pháp thanh tịnh này, Đại Địa chấn động vì thần lực của Phật.

Khi ấy, chồng của bảy mươi lăm cư sĩ nữ đến chỗ Đức Phật, thấy mỗi người vợ của mình đảnh lễ sát chân Phật, họ hỏi Tôn Giả Xá Lợi Phất: Vì nguyên do gì vợ chúng tôi đảnh lễ sát chân Phật.

Xá Lợi Phất đáp: Những chị này nghe Phật thuyết giảng pháp xa lìa thân nữ, tâm quá vui mừng hớn hở vô lượng, họ phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện trọn đời phụng trì giữ giới tịnh tu phạm hạnh.

Nay ở trước Phật đảnh lễ sát chân và họ thệ nguyện: Nếu chúng con không chuyển thân nữ này thành thân nam thì không bao giờ đứng dậy.

Này các Cư Sĩ! Các ông phải để chị em này tự do vào trong Pháp Phật, xuất gia tu đạo.

Các vị cư sĩ thưa: Thưa Tôn Giả! Nhờ lời Tôn Giả nói chúng con đồng ý cho họ xuất gia.

Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Nay chúng con cũng muốn vào trong Pháp Phật xuất gia trước độ chúng con sau độ người nữ.

Bấy giờ, Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch lên Đức Phật: Thưa Thế Tôn! Những người cư sĩ này muốn xuất gia trong chánh pháp của Phật, nguyện xin Phật hứa khả.

Phật bảo các Cư Sĩ: Ở trong pháp của ta tùy ý xuất gia.

Những người cư sĩ bạch với Đức Phật: Chúng con nguyện xin xuất gia.

Phật bảo: Thiện Lai Tỳ Kheo! Tất cả đều thành Sa Môn, thân mặc Ca Sa oai nghi thành tựu.

Bấy giờ, những cư sĩ nữ nhờ thần lực của Phật, thiện căn tự lực chánh quán tư duy, được lìa thân nữ biến thành thân nam.

Họ nương thần lực của Phật bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa La, đồng lược cùng nhau nói kệ:

Các pháp đều như huyễn

Chỉ do phân biệt sanh.

Đối với đệ nhất nghĩa

Không có tướng nữ nam.

Ảo thuật làm trò huyễn.

Ở giữa ngã tư đường,

Hóa ra thân nam tử.

Binh lính chiến đấu nhau.

Và cùng giết lẫn nhau.

Việc ấy chẳng phải thật.

Chúng con xem sanh tử

Như huyễn hóa không khác.

Như người đang nằm mộng,

Làm ra các sự việc

Vì việc ấy không thật,

Nên thức dậy chẳng thấy,

Quán kỹ cái ta thấy

Chỉ là ấm nhập giới.

Bản thể không chơn thật,

Phát sanh từ điên đảo.

Ví như trăng dưới nước

Thấy được không thể vớt.

Tánh pháp đồng ánh Trăng.

Kỳ thật không tới lui

Cũng như khi lửa cháy

Thấy có tướng dao động

Hoặc giống như ao hồ

Nhưng nó không chơn thật

Các pháp như hơi nóng

Tánh nóng không có thật

Phát sanh từ điên đảo

Rốt ráo không có ngã

Chúng con vốn thân nữ,

Do điên đảo mà sanh

Nay, quán thân nam tử

Đều không, không chỗ có

Nếu khéo biết là không,

Chớ nên phân biệt không

Thì ngay pháp hiện tại

Thân chứng vô quái ngại

Là sức cảnh giới Phật

Từ lúc phước sanh ra.

Tu từ pháp hiện tiền

Liền xa lìa thân nữ

Nếu có ai là nữ,

Muốn trở thành thân nam

Nên phát tâm bồ đề

Ý nguyện sẽ thành tựu.

Bấy giờ, những người chuyển thân nữ xuất gia làm Bồ tát, từ hư không hạ xuống, đảnh lễ sát chân Phật và nói với các cư sĩ chồng mình: Này thiện tri thức! Các vị phải phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật ra đời là khó, không sanh các nạn lại còn khó hơn. Phật dùng đại bi vì tất cả chúng sanh phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác cũng lại khó. Mọi người có thể phát tâm bồ đề cúng dường Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.

Khi ấy, các Tỳ Kheo nói với các Bồ Tát chuyển thân nữ: Các vị đều là thiện tri thức của chúng tôi có khả năng giáo hóa chúng tôi, vì chúng sanh phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác. Nay trước Đức Phật chúng tôi phát tâm bồ đề, nguyện đời vị lai được thành Phật như Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, như A La Hán Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, các vị Bồ Tát chuyển thân nữ bạch Phật: Kính thưa Thế Tôn! Nguyện cho chúng con xuất gia đúng như pháp xuất gia của Thiện Lai Tỳ Kheo. Chúng con không muốn xuất gia cùng hàng Thanh Văn.

Thế Tôn bảo Di Lặc Bồ Tát: Ông hãy vì các thiện nam tử này như pháp xuất gia.

Lúc ấy, Nữ Vô Cấu Quang đến chỗ mẹ thưa: Mẹ phải phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác nếu mẹ phát tâm thì con đã đền đáp được công ơn của mẹ.

Người mẹ nói: Ta đã phát tâm rồi.

Vì sao?

Vì ta mang thai con mười tháng từ lúc ấy đến nay tâm không sanh xan tham, phá giới, tâm không sân nhuế, không giải đãi, loạn niệm, ác tuệ, tà kiến, tham dục, nóng giận, thường rất an vui thân tâm an lạc. Trong mộng thường thấy các vị Như Lai, Tỳ Kheo Tăng trước sau vây quanh thuyết pháp.

Khi ấy, tâm ta suy nghĩ: Ta đã mang thai đứa con trong bụng chắc là Bồ Tát nên trong mộng mới thấy thân Như Lai. Tâm rất vui mừng, liền phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác. Nay con khuyên, mẹ phát tâm ngay.

Bấy giờ, trong tay trái Nữ Vô Cấu Quang tự nhiên biến ra lọng báu tuyệt đẹp và đem đến chỗ mẹ, thưa: Thưa mẹ! Mẹ cầm lọng báu này dâng lên Như Lai, phải phát đại nguyện vì Chư Thiên, thế nhơn, làm lọng Pháp Bảo.

Tịnh Nhật Phu Nhân cầm lọng báu dâng lên Như Lai phát nguyện, nói: Từ thiện căn này, tương lai con sẽ vì Chư Thiên, thế nhơn làm lọng Pháp Bảo.

Thế Tôn bảo Xá Lợi Phất rằng: Nữ Vô Cấu Quang này, du hý thần thông từ nước Vô cấu xưng Vương Phật, từ khi thọ thân nữ ở đây.

Này Xá Lợi Phất! Người nữ này vốn là Bồ Tát tên Vô Cấu Quang đã chứng Chánh Đẳng Chánh Giác không thối chuyển. Vì thành tựu chúng sanh nên hiện thân nữ chẳng phải do nghiệp.

Xá Lợi Phất! Ông có thấy bảy mươi lăm phụ nữ thành thân nam không?

Xá Lợi Phất thưa: Dạ thấy.

Phật bảo Xá Lợi Phất: Đời trước họ đều là cha mẹ của người nữ đó.

Này Xá Lợi Phất! Nữ Vô Cấu Quang nhiều kiếp phát nguyện: Nếu có chúng sanh nào là cha mẹ của ta, ta phải giúp họ chứng Chánh Đẳng Chánh Giác bất thối chuyển.

Xá Lợi Phất! Ba ngàn đại thiên Thế Giới này có vô số tinh tú mà dễ biết. Còn cha mẹ đời trước của Nữ Vô Cấu Quang này, được người nữ khuyên tu hành thiện pháp chứng Chánh Đẳng Chánh Giác bất thối chuyển không thể biết được.

Bấy giờ, Nữ Vô Cấu Quang trước Phật đảnh lễ sát chân, nói: Các pháp không nam nữ, lời nói này nếu thật thì thân nữ con hóa thành thân nam. Vừa nói xong, tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chuyển động sáu cách. Nữ Vô Cấu Quang biến mất, hóa thành thân nam thành tựu tướng hảo trang nghiêm.

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói với Bồ Tát Vô Cấu Quang: Này nhân giả! Chưa chứng Chánh Đẳng Chánh Giác mà có thể làm Phật Sự, việc này thật hiếm có.

Vô Cấu Quang Bồ Tát nói với Ngài Xá Lợi Phất: Thật như lời Ngài nói, Chư Đại Bồ Tát đại thệ nguyện muốn lợi ích thành tựu tất cả chúng sanh, thật hiếm có. Ví như cây A Già Lâu có hoa lá và tỏa hương A Già Lâu.

Như vậy, Chư Đại Bồ Tát cho đến phát một thiện tâm, cũng vì Chánh Đẳng Chánh Giác đều xuất hương công đức Phật Pháp. Khi nói pháp như thế, trong hội một vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác. Đại Địa chấn động, Chư Thiên trên hư không mưa các loại hoa.

Nhạc cụ Chư Thiên, không đánh tự kêu và nói lên: Bồ Tát Vô Cấu Quang nói pháp chân tịnh, nếu có chúng sanh nghe pháp này thân tâm tin vui được đại oai thế, xa lìa nhiều hoạn nạn, tu hành các thiện hạnh. Nếu có người nữ nghe Kinh này thì nên biết thân này là cuối cùng.

Vì sao?

Vì Kinh này rộng nói lỗi lầm của thân người nữ, cũng giảng nói rộng các hạnh nguyện, được xa lìa thân nữ đắc pháp thanh tịnh.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo A Nan: Ông hãy thọ trì Kinh này đọc tụng phổ biến lợi ích, vì người khác rộng nói giản khắp nơi.

Vì sao?

Này A Nan! Sẽ có người nữ lấy nhiều thứ châu báu đầy Diêm Phù Đề cúng dường Phật Thế Tôn, nhờ thiện căn đó nhờ xa lìa thân nữ. Lại có người nữ nghe Kinh này tin hiểu hoan hỷ, nhờ thiện căn này cầu xa lìa thân nữ.

A Nan nên biết! Nghe Kinh này phải có tên gọi.

A Nan bạch Phật: Kinh này gọi tên gì?

Và thọ trì ra sao?

Phật bảo A Nan: Kinh này gọi là chuyển thân nữ hay Bồ Tát Vô Cấu Quang Sở Vấn, hoặc gọi là Vô Quá Xưng Bồ Tát Đạo Giáo, phải nhớ thọ trì.

Phật thuyết Kinh xong. Bồ Tát Vô Cấu Quang và các Bồ Tát các cõi khác đến cùng cha mẹ của Vô Cấu Quang, Trưởng Lão A Nan, Chư Thiên, Càn Thát Bà, A Tu La, Người, Phi Nhân, nghe Phật thuyết Kinh đều vui mừng khôn xiết, đảnh lễ phụng hành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần