Phật Thuyết Kinh Con đường Tu Hành - Phẩm Tám - Phân Biệt Hành Tướng - Tập Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH CON ĐƯỜNG TU HÀNH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM TÁM
PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG
TẬP BA
Bài tụng rằng:
Người miệng nói nhu hòa
Mà tâm ôm độc hại
Nhìn người rất hoan hỷ
Theo đuổi thì dễ thân.
Miệng nói lời nhu thuận
Trong tâm họ ngậm độc
Như cây, sắc hoa tươi
Quả lại đắng như độc.
Làm sao biết người miệng dục, tâm si?
Lời nói nhu hòa, nhưng tối dạ, chẳng thể làm ích cho người mà cũng chẳng làm tổn hại người. Ví như cái bình vẽ vời, nhìn bề ngoài rất tốt đẹp nhưng bên trong thì trống rỗng và tối. Miệng dục, tâm si thì cũng giống như thế.
Bài tụng rằng:
Miệng nói có nhu hòa
Mà tâm vẫn si mê
Nên biết những người ấy
Miệng dâm mà tâm ngu.
Xem miệng ấy như tuệ
Trong tâm tối như mực
Ngoài đẹp như bình vẽ
Nhưng trong rỗng, lại tối.
Thế nào gọi là người miệng dục mà tâm nộ si?
Lời nói thì nhu hòa, nghĩ về điều thiện chút ít, tánh chẳng điều thuận, hoặc lại nghĩ ác, có lúc chẳng nghĩ. Thiện ác chẳng phân, tánh ấy khó biết. Ví như thuốc ngọt trộn lẫn mặn, đắng, chẳng thể phân biệt. Người có miệng dục mà tâm nộ si, cũng giống như vậy.
Bài tụng rằng:
Có người miệng nói dục
Mà tâm ôm nộ, si
Ví như đề hồ ngọt
Xen lẫn cay, đắng, mặn.
Thế nào gọi là người miệng thô mà tâm dâm?
Ngôn ngữ cứng cỏi nhưng trong làm tổn thương người. Mọi người đều ghét, chẳng muốn nhìn thấy, không ai kính trọng. Ví như cha mẹ quở trách con cháu, tuy miệng cứng cỏi nhưng lòng thương yêu. Ví như thuốc chữa ghẻ nhọt, chà rửa mụt ghẻ của người, đang lúc ấy thì rất đau, nhưng dần dần sẽ lành, lòng rất vui vẻ. Người có miệng cứng cỏi mà tâm dâm, cũng giống như thế.
Bài tụng rằng:
Có người mieng nói cứng
Mà tâm ôm dâm dục
Như mặt trời mùa hạ
Ánh sáng chiếu nước lạnh.
Thế nào gọi là người miệng cứng cỏi mà tâm nộ?
Miệng nói thô bạo và những điều cần suy nghĩ thì không có sự thương yêu, chẳng muốn làm lợi người. Ví như thuốc đắng lại hòa thêm chất độc, nếu cho uống thì người bệnh mửa ra không uống, nếu đã uống vào rồi thì hại đến mạng người. Người miệng cứng cỏi mà tâm nộ, cũng giống như thế.
Bài tụng rằng:
Người miệng nói cứng, không thân kính
Tâm nghĩ tệ ác và ôm độc
Thường ưa chống đối vối người khác
Nên xem kẻ này hành tạp độc.
Thế nào gọi là người miệng thô mà tâm si?
Nói thường cứng cỏi, gán điều ác cho người, cử động làm việc tâm chẳng tự biết, chẳng nghĩ việc thiện của người, cũng chẳng nghĩ điều ác. Ví như có giặc cướp rút đao uy hiếp người, nhưng chẳng làm hại. Như vậy, hành giả biết miệng cứng cỏi mà tâm ngu si.
Bài tụng rằng:
Miệng nói cứng cỏi, tâm chẳng hại
Ưa khủng bố người, không gì khác
Ví như rút đao mà không chém
Miệng thô, tâm si cũng như vậy.
Thế nào gọi là người miệng thô, tâm chứa ba độc?
Miệng nói cứng cỏi hoặc thiện với người, rồi lại thêm điều ác. Bỗng dưng nghĩ điều bất thiện, cũng chẳng thể làm ác. Ví như vị khâm sai bắt được giặc cướp, ông ta ra lệnh thuộc hạ khủng bố, trách mắng, rồi lại cho người dụ dỗ, thăm hỏi. Kế đó thuộc hạ lại tra khảo đánh đập. Lại có vị không hỏi thiện, ác cũng chẳng tra khảo, trách mắng. Đó gọi là người miệng thô mà chứa ba độc.
Bài tụng rằng:
Miệng nói lời cứng cỏi
Tâm sẵn chứa ba độc
Người tánh ý như thế
Chẳng thiện, chẳng làm ác.
Làm theo cách người này
Gọi là người trung gian
Khổ nhọc và an ổn
Việc ấy xen lẫn nhau.
Thế nào gọi là người miệng si mà tâm dục?
Không biết rõ điều gì về người, cùng nói chuyện hoàn toàn không có kiến giải, chẳng hiểu thiện ác.
Tâm thường tự nghĩ: Ý nghĩa của mục đích hướng đến là nên làm gì, để cho người thêm lợi ích.
Đã đến được mục đích như điều mong ước rồi, mà không quên chủ ý ban đầu. Ví như đêm tối, khởi mây, đổ mưa. Người miệng si tâm dục cũng giống như thế.
Bài tụng rằng:
Có người miệng si mà tâm dục
Miệng nói ra lời chẳng hiểu rõ
Như rồng phun mưa mà chẳng sấm
Miệng si tâm dục cũng như thế.
Thế nào gọi là miệng si tâm cứng cỏi?
Chẳng thể làm việc thiện, cũng chẳng thêm điều ác, thường nghĩ rằng dùng cách gì để làm hại người. Nếu có cách rồi thì liền làm ngay để hại người. Ví như dùng tro phủ lên than đỏ, người đi trên đó liền bị phỏng chân, miệng si tâm nộ cũng như thế.
Bài tụng rằng:
Miệng si mà tâm cứng
Chẳng nhu, không nói ác
Ôm ác gán cho người
Chẳng nghĩ tạo thiên lợi.
Lời nói chẳng rõ ràng
Chứa ác ở trong tâm
Như tro phủ than đỏ
Nếu giẫm, thiêu thân người.
Thế nào gọi là miệng si, tâm tăm tối?
Chẳng thể dùng điều thiện ban bố cho người, tâm cũng chẳng thể nghĩ thêm điều ác. Đối với điều thiện, ác của người khác, không tăng, không giảm.
Vì sao?
Vì không có uy lực. Ví như lửa tàn dùng tro phủ lên, nếu mang cỏ khô và phân bò khô, chất đống trên đó, tay chạm chân đạp, không thể thiêu cháy được và cũng chẳng bị phỏng.
Vì sao?
Vì không còn có khả năng phát hỏa. Miệng si, tâm tăm tối cũng giống như thế.
Bài tụng rằng:
Người miệng nói ngu si
Và trong lòng hắc ám
Đều chẳng thường nghĩ ác
Cũng chẳng luôn nghĩ thiện.
Chẳng thể thành việc được
Cũng có thể làm nên
Như vội vàng thổi, nấu
Không thể nào chín được.
Thế nào gọi là miệng si, tâm chứa ba độc?
Miệng nói không xâm phạm, cũng chẳng làm ích lợi người, trong đó có chút ít tổn hại thì ngày đêm suy nghĩ, do đâu mà tổn hại đến người, lại nghĩ làm sao để lợi người.
Hoặc tâm niệm: Chẳng làm tổn hại, hay lợi ích cho người. Ví như chiếc bình cũ chứa đầy vật sạch, hoặc chẳng sạch, rồi đậy miệng lại, chẳng thấy gì bên trong, có nói mới biết. Miệng si tâm chứa ba độc cũng giống như thế.
Bài tụng rằng:
Tánh ưa làm ngang ngược
Miệng nói chẳng chừa gì
Mà chứa dâm, nộ, si
Đầy ắp điều xú uế.
Ví như bình cũ lớn
Chứa vật tịnh, bất tịnh
Chẳng thể ích cho người
Cũng không làm tổn hại.
Là Pháp sư thì dùng mười chín việc này quán, quán xét tánh tình của người mà giảng nói pháp cho họ.
Với người có tướng dâm thì giảng thuyết thế nào?
Vì họ mà giảng rằng, người quen thói dục nhiều khi bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ. Sau khi được thoát ra lại làm loài chim dâm dục như là oanh vũ, sẻ xanh, bồ câu, uyên ương, ngỗng, vịt, khổng tước, và loài dã nhân vượn, khỉ. Nếu trở lại làm người thì đa dâm, phóng dật, cẩu thả, vội vàng, hung bạo. Nên quán sát điều này, sắc đẹp và thân người, quán biết là tội lỗi, dơ uế, xấu xa, mong manh, bất tịnh. Chớ quen thói dâm dục.
Bài tụng rằng:
Người quen dâm dục nhiều
Kiêu mạn, mau tự đốt
Trong loài người, súc sinh
Hoặc địa ngục, ngạ quỷ.
Sinh ra rồi tự hại
Lửa trần lao thiêu hủy
Muốn được thoát chốn này
Tùy thuận nên giảng nói.
Nếu người sân si nhiều thì tùy theo nếp sống của họ mà nói pháp thích ứng. Nếu nhiều sân giận thì bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ. Từ chốn ác thoát ra sẽ làm các loài thú độc, quỷ mị, La sát, phản túc, nữ quỷ, hỗn quỷ, lại làm sư tử, hổ sói, rắn hổ mang.
Trùng độc, muỗi nhặng, sâu, ong, loài trùng nhiều chân. Nếu từ chốn này trở lại nhân gian thì hình mạo xấu xí, chẳng ai ưa thích, thường chết yểu, nhiều tật bệnh, thân thể bất toàn. Vì tội lỗi phân minh như vậy, nên thực hiện lòng từ, trừ bỏ sân giận.
Bài tụng rằng:
Người ôm nhiều sân giận
Mọi người ai cũng ghét
Mang tội đọa cõi ác
Nhiều bệnh chẳng an ổn.
Đọa làm quỷ, thú độc
Sinh làm người hạ tiện
Người hành trì tâm từ
Liền dứt trừ sân giận.
Nếu người nhiều ngu si, thì vì họ nói pháp này: U mê quá mức thì chết bị đọa vào đường địa ngục, ngạ quỷ.
Nếu đọa vào súc sinh thì làm những loài thú ngu đần như là trâu, bò, cáo, chó, la, lừa, heo. Nếu trở lại làm người thì tánh chẳng cương quyết, nhãn căn yếu, không rõ, mang nhiều tật bệnh, sáu loài tình cảm chẳng đầy đủ, sinh trong loài dã nhân, man rợ, từ chỗ tối tăm này nhập vào chốn tăm tối khác. Vì vậy dạy cho họ quán mười hai nhân duyên để diệt trừ cội gốc của ngu tối.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Pháp Tập Yếu Tụng - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm Tự Mình
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Hai Mươi - Phẩm Da Du đà La Thấy điềm Mộng
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Năm - Phẩm Tập Tương ưng - Kinh Thực
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Mười Ba - Phẩm Tranh Tài Kết Hôn - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Niệm Tụng được Lược Ra Trong Kim Cương đỉnh Du Già - Phần Mười Hai