Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Hai - Kim Luân Phật đảnh Tượng Pháp - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN HAI
KIM LUÂN PHẬT ĐẢNH TƯỢNG PHÁP
TẬP HAI
Lại dùng tay bốc hạt cải trắng chà xát chuyển theo bên phải trên đầu, trên tim, ngực, vai, lưng… ngày đêm bốn thời, năm thời thiêu đốt An Tất Hương, nhiễu quanh thân theo bên phải, với xông lỗ mũi. Trong bảy ngày, làm pháp liền khỏi bệnh.
Nếu Thiên Ma, quỷ thần khó Phát Khiển. Như lúc trước làm cái Đàn bốn khuỷu tay, dựa theo pháp như lúc trước, hiến tám mâm thức ăn, mười sáu chén đèn, bốn góc đều có một cái, bốn cửa đều có hai cái. Tòa Phật ở trung tâm, bốn góc đều có một cái. Khi hạ đèn xuống thời đều tùy theo mặt trời chuyển, chẳng được đi ngược lại.
Kết giới phụng thỉnh như lúc trước chẳng khác, dạy bảo khiến người bệnh tắm gội thanh tịnh, mặc quần áo sạch, ở gần sát cửa Tây của Đàn, khiến ngồi bên trái Chú Sư xong. Chú Sư cho lò hương ấy, đốt hương phát nguyện lễ bái. Như lúc trước làm pháp hạt cải một trăm lẻ tám biến, liền lấy một bát dấm, một bát thức ăn, một chén nước tương ngọt, nước lạnh.
Lấy bát thức ăn ấy ở trên đầu, trên tim ngực của người bệnh xoay chuyển vần theo bên phải, Chú hai mươi mốt biến. Đem cái bát để tạm trên đầu của người bệnh, khiến một người ở ngay trước mặt, nâng vật khí sạch, đem thức ăn trong cái bát đổ vào bên trong vật khí sạch.
Hai cái bát còn lại cũng như thế. Chú Sư nhận lãnh ba vật của vật khí sạch, quấy đảo khiến hòa với nhau. Chuyển trên đầu, nhiễu quanh thân ba vòng xong, khiến người mau chóng đem đổ trên Tây Nam, đừng khiến ngoái lại nhìn pháp đưa tiễn thức ăn.
Tống Thực này làm ở hai độ: Đầu đêm, canh năm. Bảy ngày làm pháp, đến ngày thứ tư dùng mọi loại thức ăn uống, quả trái cúng dường. Ở cửa Tây an lò lửa báu sạch, đốt củi sạch, chí Tâm phụng thỉnh Thích Ca Văn Phật ngồi trên hoa sen ở trong lò lửa.
Nên lấy sữa, váng sữa đặc, bơ, mật, thức ăn, quả trái, mè, dầu… Chú vào hai mươi mốt biến, đều lấy chút ít, Chú vào một biến thì một lần ném vào trong lửa, mãn một trăm lẻ tám biến.
Ngày đêm ba thời: Sáng sớm, giờ Ngọ, đầu đêm cúng dường, thời thời tác pháp. Chú Sư lấy hạt cải trắng tuần tự chuyển ở trên thân của mình. Chú vào hạt cải trắng mãn một trăm lẻ tám biến thì tất cả quỷ thần thảy đều đi xa, chẳng được dịp thuận tiện gây hại phàm muốn làm pháp, đều nên làm pháp tốt tự hộ thân. Nếu chẳng như thế thì sợ.
Quỷ Thần được dịp thuận tiện gây hại.
Tiếp theo, làm pháp Phật Đảnh Sách Ấn
Phật Đảnh Sách Ấn Chú thứ hai mươi ba.
Dựa theo Phật Đảnh Đao Ấn lúc trước, chỉ sửa: Co lóng trên của hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón, khiến đầu ngón ngang bằng nhau Nếu nơi có nạn quỷ thần thì làm Ấn tụng Chú, ắt các quỷ thần thảy đều diệt tan.
Liền nói Sách Chú Chú là:
Úm đổ lỗ úng bàn đà, bàn đà sa ha.
Nếu nơi có nạn giặc, tụng Chú làm Ấn thì giặc chẳng thể đến gần con người.
Nếu người bị bệnh mắt kéo màng trắng trải qua nhiều năm. Lấy Tất Bạt hòa với nước hoa trong giếng, mài nghiền thuốc trên đá, tùy theo mài nghiền Chú vào thuốc rồi lấy vật khí chứa đựng. Ở trước Tượng, Chú một ngàn không trăm tám mươi biến rồi chấm trong con mắt thì màng mắt bị đau liền khỏi.
Phật Đảnh Phược Quỷ Ấn Chú thứ hai mươi bốn.
Cài ngược hai ngón út, hai ngón vô danh ở trong lòng bàn tay. Dựng thẳng hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón, kèm dựng hai ngón cái vịn bên cạnh lóng giữa của ngón giữa, co hai ngón trỏ đè móng ngón tay của hai ngón cái cùng dính nhau, hợp cổ tay.
Liền nói Chú là:
Úm tỳ du đề sa ha
Các Tỳ Kheo lấy cành Đông Dẫn Đào không có bệnh mụn, dùng Ấn ấn lên cành Đào, Chú hai mươi mốt biến, đánh lên thân người bệnh thì bệnh ấy liền khỏi.
Nếu bị nhóm bệnh: Hồ Mỵ, Sơn Tinh, Quỷ Mỵ, Áp Cổ… Chú vào hạt cải trắng hai mươi mốt biến, dùng đánh lên đầu, mặt, ngực, tim của người bệnh. Đốt An Tất Hương, nhiễu quanh thân, xông lỗ mũi với hít lấy khói hương hai mươi mốt lần. Dùng pháp lấy cành đào đánh thì trước tiên đánh bên trong khuỷu cánh tay trái, tiếp theo đánh nguỷu tay phải, eo lưng thì bệnh ấy liền khỏi.
Dùng mài nghiền Hùng Hoàng, Chú vào một trăm lẻ tám biến, hộ Thân kết giới. Trên đảnh đầu, mé chân tóc, nách bên trái, nách bên phải, trên trái tim, bên dưới cổ, tam tinh… bảy nơi như vậy đều điểm vào, ngày đêm ba thời như vậy làm pháp.
Bên dưới giường của người bệnh, dùng bùn phận bò làm cái Đàn Nhỏ khoảng một khuỷu tay, rưới vảy sạch sẽ chén đèn, để một chén đèn, kết giới làm pháp để riêng bên ḍưới cái đèn thì bệnh ấy liền khỏi.
Thích Ca Phật Nhãn Ấn Chú thứ hai mươi năm.
Cài ngược hai ngón út, hai ngón vô danh ở trong lòng bàn tay. Dựng thẳng hai ngón giữa trụ đầu ngón, kèm dựng hai ngón cái, co hai ngón trỏ đè đầu hai ngón cái, cùng trụ đầu ngón.
Chú là:
Úm tỳ lô chỉ nễ sa ha.
Làm Phật Nhãn Ấn, tụng Đại Chú lúc trước thì được thân thanh tịnh, nhãn căn. Con mắt thanh tịnh.
Nếu chí thành thọ trì Phật Nhãn Ấn Chú thì cũng được đầy đủ năm loại mắt thanh tịnh. Tất cả chúng sanh nhìn thấy đều vui vẻ.
Nếu người bị bệnh mắt, đau mắt đỏ. Làm Ấn ấn con mắt với ấn lên thuốc, Chú vào rồi rưī vải trong con mắt. Hoặc ấn vào nước, Chú xonh rồi phun vào tròng mắt. Nhãn tinh, rưới vảy liền được trừ khỏi bệnh.
Thích Ca Phật Ấn thứ hai mươi sáu Ấn này không có Chú, chẳng biết được danh hiệu.
Dựa theo Phật Nhãn Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón cái, co vịn lưng lóng trên của ngón giữa, ngón cái phải đè trên ngón cái trái.
Thích Ca Phật Ấn thứ hai mươi bảy. Cũng không có Chú với tên gọi.
Dựa theo lúc trước, chỉ sửa ngón cái trái đè trên ngón cái phải.
Thích Ca Phật Ấn thứ hai mươi tám. Cũng không có Chú với tên gọi.
Dựa theo lúc trước, chỉ sửa: Kèm co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay.
Nếu người hay thọ trì ba Ấn này với hay ngày ngày cung kính cúng dường thì tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt, tất cả công đức niệm niệm tăng trưởng.
Chước Ca La Bạt La Để Ấn Chú thứ hai mươi chín.
Cakra pravarti: Đường nói là Luân Chuyển Đồng với Kim Luân Ấn Chú là:
Úm tỳ xã duệ sa ha.
Chú vào Tòa Luân của Phật hai mươi mốt biến. Hoặc Chú vào nước, rưới rót một trăm lẻ tám biến.
Phật Chước Ca La pháp Ấn thứ ba mươi. Buddha cakra dharma mudrā.
Hai tay đem ngón vô danh cùng trụ nhau, cùng với hai nhóm ngón cái, ngón trỏ cùng trụ nhau, kèm thẳng hai ngón giữa, đưa ngón trỏ qua lại. Tụng Đảnh Chú lúc trước.
Ấn này hay hàng phục tất cả ma ác, ngoại đạo. Khi ngồi thiền thời dùng, đễ được vào định.
Bên trên đã xong phần Nguyên Bản. Hai Ấn Chú bên dưới được thêm vào sau.
Như Lai Thí Chúng Sanh Vô Úy Pháp Ấn Chú thứ ba mươi mốt.
Đem tay phải rũ xuống bên dưới, ngón cái vịn trên móng ngón vô danh.
Tay trái: Ngón cái đè trên móng ngón giữa, dựng thẳng các ngón còn lại hướng lên trên ngực. Chú Sư làm khuôn mặt vui vẻ, quỳ gối ngồi, mở đầu gối như hướng về phía trước, thân cũng hướng về phía trướng, đầu hơi hướng về bên trái.
Vô Úy Chú là:
Úm bà la na đế lê la thi bộ lộ sa mạn đát la dạ sa ha.
Nhất Tự Phật Đảnh pháp Chú thứ ba mươi hai.
Dựa theo Quân Trà Lợi Thân Ấn bên trên, chỉ sửa: Mở lòng bàn tay, cổ tay, đem hai cạnh ngón cái đều vịn lóng giữa của hai ngón trỏ Chú là: Bật lăng.
Một chữ của bản Phạn, đất này. Trung Hoa không có chữ, cho nên hô nhị hợp.
Pháp Ấn Chú này. Nơi làm Đại Đàn, Thỉnh Triệu xong, sau đó dùng Ấn Chú này, Chú bảy biến xong thì Đàn pháp liền thành. Mỗi lần hô một biến, nên tụng Đại Phật Đảnh Thân Chú một biết thì ngang bằng không có sai khác.
Nếu tụng trọn đủ mười vạn biến thời liền có ánh sáng ứng nghiệm, hai mươi vạn biến liền hay rộng lợi cho tất cả chúng sanh.
Nếu tụng các Chú, gia thêm Chú này tụng mãn mười vạn biến, liền đủ đại nghiệm.
Phần bên dưới trở lại là Nguyên Bản.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Nếu người hay thọ trì, đọc tụng Tam Muội Đà La Ni, y theo lúc trước làm Đàn, liên tục tụng Chú, hoặc ba mươi vạn biến, hoặc bảy mươi vạn biến, làm mọi loại cúng dường thì ở bên trong hiện bày cảnh giới Hành Giả lúc đó ưa thích tự an tâm, đừng khiến cho sợ hãi.
Hoặc thấy lửa đèn dài một Trượng năm Xích 5m, khói hương cũng như thế. Hoặc Đạo Tràng có Phan, dây đai tự lay động. Hoặc hoa đã rải hiến, nhiều ngày chẳng chết.
Hoặc quả tạp, cành cây nhiều ngày chẳng hư héo. Hoặc trong phòng có âm tiếng thì đừng sanh kinh sợ. Hoặc không có mây mà có tiếng sấm. Hoặc không có mây mà mưa rơi xuống thì đừng sanh kinh sợ. Nên biết tất cả tội chướng của Hành Giả thảy đều tiêu diệt, được sức của Tam Muội Đà La Ni.
Sau này, liền làm Đàn pháp năm màu, đèn, thức ăn, hương, hoa, mọi loại cúng dường… mỗi mỗi dựa theo pháp lúc trước. Hoặc Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang, hàng Trời vì Hành Giả hiện thân, tùy theo sự thấy ấy thời mọi loại cầu xin Nguyện Phật Đảnh Bát Trửu Đàn pháp Trị Địa như lúc trước. Dựng cây sào trang nghiêm với chôn bảy báu kèm với hạt của năm loại lúa đậu, tám loại hương… cũng như lúc trước nói.
Tiếp theo, điều hòa phấn trắng, dùng nước thơm hòa, cùng chung với một vị Tỳ Kheo hiểu pháp vào Đạo Tràng xong. Tứ cây cột ở góc Đông Bắc, bên trong lìa cây cột sáu ngón tay, lầy phấn chấm xuống một điểm. Ba góc còn lại thì pháp cũng như vậy.
Chấm điểm bốn góc xong, lấy sợi dây dài 40 xích 40/3m tinh tế như bộ phận của cây thoa cài đầu?
Tẩm trong nước cốt của phấn, dùng cỏ Tẫn nhuộm màu vàng rồi lấy ra, khiến người hiểu pháp lúc trước cột ép đầu sợi dây ấy pháp Sư hướng về chỗ cột ép trên điểm ở góc Nam, dùng tay trái ghép ráp sợi dây. Điểm ba ngón tay ở Đông thì một lần ghép ráp sợi dây. Điểm ba ngón tay ở Tây thì một lần ghép ráp sợi dây. Liều thu sợi dây lại, ngâm trong phấn rồi lấy ra.
Người trước cầm đầu sợi dây, hướng về phía Tây đi ra, khiến tay phải cầm một đầu sợi dây, hướng lên trên đầu xoay theo Mặt Trời chuyển, nên nói với người kia rằng: Y theo trên điểm, cột ép sợi dây.
Vị thầy cũng y theo chỗ cột ép trên điểm bên Đông, trở lại tay trái một lần ghép ráp sợi dây. Điểm ba ngón tay hướng Nam thì một lần ghép ráp sợi dây. Điểm ba ngón tay phía Bắc thì một lần ghép ráp sợi dây.
Thu sợi dây lại, ngâm trong phấn rồi lấy ra Hướng về cửa Tây đem sợi dây đi ra. Trước tiên, hướng về đầu Nam đứng, vị thầy cầm đầu dây, dựa theo lúc trước y theo điểm cột ép. Vị thầy dùng tay trái ghép ráp sợi dây.
Điểm ba ngón tay ở Tây thì một lần ghép ráp sợi dây. Điểm ba ngón tay ở Đông thì một lần ghép ráp sợi dây. Thu sợi dây lại, ngâm trong phấn rồi lấy ra người trước cầm sợi dây đặt tại chỗ cột ép trên điểm ở góc Đông Bắc. Vị thầy trở lại như lúc trước, đặt tại chỗ cột ép ở góc Tây Bắc, trên điểm thì một lần ghép ráp sợi dây.
Điểm ba ngón tay ở Bắc thì một lần ghép ráp sợi dây. Ba ngón tay ở điểm Nam thì một lần ghép ráp sợi dây. Ghép ráp một vòng xong làm một mảnh trúc mỏng khoảng hai khuỷu tay. Từ đường viền bên ngoài ở góc Đông Bắc, phóng một mảnh trúc đo.
Hướng về phía Tây liệu lường, lại đặt một mảnh trúc đo. Hướng Nam liệu lường chấm xuống một điểm, lấy mảnh trúc đo y theo trên điểm. Hướng về phía Tây liệu lường. Hướng về phía Bắc dùng mảnh trúc đo, chấm xuống một điểm.
Từ điểm trên hướng Nam liệu lường, đem đầu hai mảnh trúc cùng trụ, chấm xuống một điểm. Góc Đông Nam, góc Tây Nam, góc Tây Bắc cũng như vậy, liệu lường đều chấm xuống một điểm phấn.
Từ bên cạnh Đông, ngâm sợi dây rồi lấy ra. Lại y theo pháp lúc trước nên chấm điểm, ghép ráp sợi dây. Điểm Đông, điểm Tây đều ba ngón tay điểm đất, y theo pháp trước ghép ráp. Phương Nam, Tây, Bắc cũng ghép ráp như vậy Viện thứ nhất xong.
Lại lấy mảnh trúc đo, từ đường viền thứ nhất ở góc Đông Bắc, từ góc hướng phía Tây liệu lượng, đo rồi chấm điểm xuống. Từ điểm hướng Nam liệu lường, lại từ góc đặt mảnh trúc xuống hướng phía Nam liệu lường dùng đầu mảnh trúc chấm xuống một điểm.
Từ điểm hướng Tây liệu lường, dùng đầu hai mảnh trúc cùng trụ nhau chấm xuống một điểm. Pháp liệu lường ba góc còn lại cũng như vậy, liệu lường xong thì chấm xuống một điểm từ bên cạnh Tây, đem sợi dây trong phấn ra, từ cửa Tây đi vào, từ góc Đông Bắc cột ép.
Vị thầy hướng về đầu Tây dựa theo lúc trước một lần ghép ráp. Hướng ba ngón tay ở Đông thì một lần ghép ráp. Lại hướng ba ngón tay ở Tây thì một lần ghép ráp. Phương Nam, Đông, Bắc cũng ghép ráp như vậy, Nam hướng đầu Bắc, Tây hướng đầu Đông, Bắc hướng đầu Nam.
Đường viền bên trong một vòng xong lại lấy mảnh trúc đo đường viền bên trong ở góc bên ngoài của Tây Bắc, đo lường hai mảnh trúc ba ngón tay thì khắc một lần để ghi nhớ. Đem mảnh trúc đo, từ góc hướng về Tây liệu lường, đầu khắc chấm xuống một điểm, từ điểm hướng về Nam liệu lường. Lại lấy một lần đo, từ góc hướng về Nam liệu lường, đầu khắc chấm xuống một điểm.
Từ điểm hướng về Tây liệu lượng, hai đầu khắc cùng trụ nhau, chấm xuống một điểm. Góc Đông Nam, góc Tây Nam, góc Tây Bắc cũng như vậy, y theo khắc chấm xuống một điểm trở lại, từ bên cạnh Tây lấy sợi dây trong Phấn ra, lại từ cửa Tây đi vào.
Từ góc Tây Bắc, trên điểm cột ép sợi dây, vị thầy hướng đầu y theo điểm cột ép, ghép ráp sợi dây. Điểm ở ba ngón tay của Đông thì một lần ghép ráp dây. Điểm ở ba ngón tay của Tây thì một lần ghép ráp dây. Phương Nam, Tây, Bắc cũng ghép ráp như vậy.
Dây thứ hai xong. Lấy hai mảnh trúc đo, liệu lường sáu ngón tay thì khắc một lần.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba