Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Hai - Kim Luân Phật đảnh Tượng Pháp - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN HAI

KIM LUÂN PHẬT ĐẢNH TƯỢNG PHÁP  

TẬP MỘT  

Muốn vẽ Tượng ấy, lấy lụa trắng sạch, hoặc vải lụa sạch, rộng hẹp tùy ý, chẳng được cắt xén. Ở trên lụa ấy, vẽ tượng Thế Tôn, thân màu vàng ròng, mặc Cà Sa đỏ, đội mão bảy báu, làm ánh sáng toàn thân, tay tác Mẫu Đà La. Mudrā. Ấn, ngồi kiết già trên tòa hoa sen bảy báu trang nghiêm.

Bên dưới tòa hoa ấy, dựng đứng bánh xe vàng. Bên dưới bánh xe vàng vẽ làm cái ao báu, nhiễu quanh bốn bên ao làm hoa Uất Kim với bốn vị Thiên Vương đều đứng tùy theo phương.

Phía dưới ấy, bên trái vẽ làm Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Mañjuśrī bodhisattva, thân đều màu trắng với đảnh đầu, lưng có hào quang, Anh Lạc bảy báu, mão báu, áo Trời, mọi loại trang nghiêm, ngồi trên con Sư Tử.

Bên phải vẽ Phổ Hiền Bồ Tát. Samanta bhadra bodhisattva trang nghiêm như lúc trước, ngồi trên con voi trắng.

Ở khoảng giữa sư tử và voi trắng ấy, vẽ tượng Đại Bát Nhã Bồ Tát. Mahāprajñā bodhisattva, mặt có ba mắt, trang nghiêm như lúc trước, tay cầm rương Kinh, ngay thẳng thân mà ngồi.

Ở trong hư không trên đảnh đầu Phật, vẽ làm cái lọng mây năm màu. Hai bên trái phải của cái lọng ấy có Tịnh Cư Thiên Śuddhāvāsa tuôn mưa hoa bảy báu.

Bấy giờ, trong Hội có vô lượng các Đại Bồ Tát, người đạt bốn đạo quả với các Duyên Giác kèm các Thiên Chúng, tất cả quỷ thần, các Tiên ngoại đạo thảy đều vân tập, đều hiến Thần Chú, đều nói là: Con từng đối với Thần Chú mà Chư Phật quá khứ đã nói, con đều thọ trì.

Hoặc nói: Con từng đối với Chú mà mười hằng hà sa Phật đã nói, con đều thọ trì.

Hoặc nói: Chú mà một trăm hằng hà sa Phật đã nói, con đều thọ trì.

Các nhóm Chúng ấy đều bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nay chúng con đều tụng Thần Chú. Nguyện xin Đức Thế Tôn nghe chúng con nói.

Khi ấy, Đức Thế Tôn im lặng nghe hứa. Thời các Bồ Tát, Chư Thiên, quỷ thần, các nhóm Long Vương tùy theo chỗ ứng ấy, đều tụng Thần Chú đã tập trong đời trước. Chú đã tụng ấy đều hiện Chú Thần bên cạnh, tràn đầy trong hư không, không có kẽ hở.

Lúc Đó, Quán Thế Âm Bồ Tát Avalokiteśvara bodhisattva khởi đại từ bi, trật áo hở vai phải, đảnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Quá khứ, con từng ở chỗ của Chư Phật được Đà La Ni. Dhāraṇī. Nay con muốn nói, Nguyện xin Đức Phật nghe hứa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Quán Thế Âm Bồ Tát: Lành thay! Lành thay! Ông, đại từ bi muốn nói Thần Chú. Nay chính là lúc.

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Hà Da Yết Lý Bà.

Hayagrīva: Mã Đầu. Khi nói Thần Chú thời liền hiện Chú Thần che chắn ở phía trước. Chú Thần của tất cả Bồ Tát, các Thiên Thần đã hiện, thảy đều chẳng hiện ra được, như dùng cối đá che trùm trên cái giếng, Chỉ Quán Thế Âm Bồ Tát Nhất Thiết Trì Chú Chúng Thánh Trung Vương hiển một mình tự tại.

Lúc đó, Đức Thế Tôn khởi đại từ bi, liền ở trong tướng Nhục Kế. Uṣṇīṣa trên đẩng đầu phóng ánh sáng năm màu, chiếu khắp tất cả Thế Giới trong mười phương. Ở trong hư không xoay chuyển như cái lọng. Trong ánh sáng ấy có vị Bồ Tát tên là Đế Thù La Thí.

Tejo rāśi ngồi kiết già, trong chi tiết của thân đều tuôn ra lửa nóng, miệng nói Thần Chú: Rộng nhiều thì gọi là Đại Phật Đảnh Chú, ít ỏi thì gọi là tiểu.

Phật Đảnh Chú.

Nói mọi loại Chú pháp của nhóm như vậy, kèm làm Ấn pháp. Mudrā dharma. Khi Đế Thù La Thí nói nhóm Chú này, hiện oai thần thời che chận ổ phía trước. Thân của Hà Da Yết Lý Bà. Hayagrīva với Chú Thần đều chẳng hiện ra được.

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát đảnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Lạ thay! Oai Thần của Đức Thế Tôn thật là hiếm có! Con đối với Vua trong tất cả Trì Chú lại không có gì cao hơn. Trên đảnh đầu từ bi của Đức Thế Tôn phóng ánh sáng, trong ánh sáng hiện ra Đế Thù La Thí Bồ Tát diệt thân mà con đã hiện ra với Chú Thần, không có một thứ gì dư sót. Lại có pháp nào hay diệt đế thù.

La Thí của Đức Thế Tôn?

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: Ta có Tâm Chú. Hṛdayamantra tên là Kim Luân rất tôn quý tối cực, lại không có gì vượt qua được, chỉ có Phật với Phật mới có thể biết. Chú này hay diệt Đế Thù La Thí kèm với pháp của nhóm Chú. Các ông cần phải một lòng thọ trì, sanh tưởng hiếm có.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói Kim Luân Đà La Ni Ấn, Ấn như lúc trước đã nói. Người tụng, người nghe nếu hay chí tâm, tùy tụng một biến thì một lần đi qua lỗ tai, lúc đó mọi tội nhiều như cát bụi, hoặc nhẹ hoặc nặng thảy đều tiêu diệt, không nguyện nào chẳng được quả, mau sẽ thành Phật. Đà La Ni này ắt hay phá hoại tất cả các pháp, lại không có gì cao hơn. Kết Ấn Chú này, có người an ngay ở trong đây. Bản này không có Phóng Bạch Quang Minh Phật Đảnh Ấn thứ mười năm.

Cũng nói là: Phóng Thập Phương Quang Ấn vậy.

Hợp hai ngón út, dựng đầu ngón vịn nhau. Hai ngón vô danh nắm nhau dựng thẳng đầu ngón cách nhau một phân 1/30dm. Hai ngón giữa cũng như thế, đầu ngón cách nhau ba phân 1/10dm. Co hai ngón trỏ vịn bên cạnh lưng lóng trên của ngón giữa. Kèm dựng hai ngón cái cách ngón giữa năm phân 1/6dm, đưa ngón trỏ qua lại. Chú dùng Kim Luân Chú.

Lại có Bạch Quang Minh Phật Đảnh Ấn thứ mười sáu.

Đều dựng hai ngón út với hai ngón vô danh cùng nắm nhau. Hai ngón giữa bật ở trên ngón vô danh. Tiếp theo, cong hai ngón trỏ vịn lóng trên của ngón giữa. Kèm song song hai ngón cái đều vịn bên trong lóng bên dưới của ngón vô danh. Nâng Ấn để trên đảnh đầu của mình, đưa ngón trỏ qua lại. Chú đồng với Kim Luân Chú lúc trước.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Nếu bên trong quốc giới có mưa dầm chẳng ngưng thì làm Bạch Quang Minh Ấn, tụng Đại Tâm Chú, phụng thỉnh Phật, an trí ngồi trên tòa hoa. Liền đốt Cầu La Hương.

Đường nói là: An Tất Hương, Huân Lục Hương cúng dường Phật xong thì bạch rằng: Con. Họ tên… vì việc. Tên là… phụng thỉnh làm pháp, ban cho chúng sanh mọi loại an ổn. Nguyện đại từ bi giúp cho điều Nguyện của con được kết quả.

Nói lời này xong. Lấy hạt cải trắng hòa với muối, Chú vào một trăm lẻ tám biến với tác Quang Minh Ấn Chú hai mươi mốt biến, khấy đảo hạt cải, muối, an một lò lửa, tay trái cầm chày Kim Cang kèm cầu xâu chuỗi, tay phải bốc hạt cải trắng, Chú một biến thì một lần ném vào trong lửa. Như vậy, số đủ một ngàn không trăm lẻ tám biến thì mưa ấy liền ngưng.

Mặt tượng hướng về phương Bắc, Chú Sư hướng về phương Nam, ở đất lộ thiên làm pháp. Nếu mưa chằng ngưng, liện hiện bày oai nghi, đảnh đầu đội tấm lụa đào, dùng lụa vàng ràng cột nhiễu quanh theo bên phải một cây kiếm. Ngay trước mặt Tượng dựng hai cây đao, hai bên cũng dựng, một bên đều có hai cây. Như pháp hạt cải trắng đã làm lúc trước, một trăm lẻ tám biến xong.

Tay phải cầm cây kiếm nhiễu quanh Tượng ba vòng, hành đạo tụng Chú nối tiếp nhau chẳng dứt. Quay lại đến chỗ cũ. Bản xứ, hướng mặt về góc Đông Bắc dùng cây kiếm tùy theo Mặt Trời, chuyển gấp trên đầu. Chuyển ba vòng xong, hướng về Đông Bắc nghĩ định. Bốn góc, bốn phương thảy đều như vậy.

Ở thời phần ban đêm, Chú vào năm cây đuốc lửa. Dùng hạt cải trắng đánh vào cây đuốc lửa ấy, đủ hai mươi mốt biến. Đem một cây đuốc lửa chuyển theo bên phải trên đầu, chuyển ba vòng, lại hướng về phương Đông ném vứt.

Phương Nam, Tây, Bắc thảy đều như vậy. Dùng đầu của một cây đuốc sau cùng ấy hướng về mặt đất chuyển, chuyển ba vòng, lại tiếp theo ở trên mặt đất lại chuyển ba vòng, rồi hướng lên không trung vứt ném. Khi làm pháp này thì liên tục tụng Chú, thời mưa ấy liền ngưng.

Lại có làm pháp. Đem mọi loại hoa rải tán trên tượng Phật. Sau đó, gom lấy hoa, nâng để ở Tịnh Xá. Nếu khi mưa dầm thời lấy hoa đẫ nâng lúc trước, Chú vào hoa một biến thì ném vào trong lửa một lần. Như vậy, số đủ một ngàn không trăm lẻ tám biến, hoặc một vạn biến thì mưa ấy liền ngưng. Hòa với hạt cải trắng làm pháp.

Lại có làm pháp. Lấy một cái bình sành mới chứa được hai Thăng. Trên cái bình vẽ một vị Tu Bồ Đề. Subhūti với hình tượng Xuất Gia, đầu đội mão hoa, làm mặt vị Thần sân nộ, trợn mắt rất giận dữ. Đem cái bình vẽ này đi ra để nơi đất lộ thiên. Như pháp hạt cải trắng đã nói lúc trước thì mưa ấy liền ngưng.

Lại có làm pháp. Ở đất lộ thiên bên dưới cái nhà… hòa hương, phân bò làm một Thủy Đàn dài rộng khoảng bốn khuỷu tay. Ở trong Đàn ấy, lấy phân bò hòa với bùn làm một hình Rồng, đuôi đầu của Rồng hướng về phương Tây. Chú vào hạt cải trắng đánh lên con Rồng bùn ấy, một lần Chú thì một lần đánh, một trăm lẻ tám biến. Dùng cây cọc Tử Đàn đóng trên cổ Rồng thì mưa ấy liền ngưng.

Như bên trên, mỗi mỗi khi làm pháp thời trước tiên làm Bạch Quang Minh Ấn Chú hai mươi mốt biến, hướng Thủ Ấn về bên phải để trước bắp tay, đứng nâng nhấc bàn chân trái, hướng mặt về bên trái làm dun g mạo rất giận, cao giọng quát mắng.

Lại chuyển Kim Cang hướng về bốn phương nghĩ định, đánh tất cả gió mưa… tùy theo đánh đều ngưng Nhạ Na Chước Ca La Ấn thứ mười bảy Jñāna cakrā: Đường nói là Trí Luân.

Trước tiên, dựng hai ngón giữa, đầu ngón cùng trụ nhau. Co hai ngón vô danh đều bật ở lưng lóng giữa của ngón giữa, đầu ngón cách nhau một Thốn hai Phân 11/30dm. Đem hai ngón trỏ đều vịn lưng lóng trên của ngón vô danh, đầu ngón cách móng ngón giữa ba phân 1/10dm.

Co hai ngón út ngay trong lòng bàn tay, đem hai ngón cái đều vịn bên trong lóng trên của ngón giữa, hợp cổ tay Đà La Ni là:

Úm kết tri già đà hồng phán.

Ấn Đà La Ni này. Nếu khi nói pháp thời chuẩn bị, trước tiên lễ bái tất cả Tam Bảo, thỉnh gia bị xong, tác Ấn, chí Tâm tụng Đà La Ni một trăm lẻ tám biến, hoặc một ngàn không trăm lẻ tám biến. Sau đó nói pháp liền được niềm vui không có sợ hãi, nói không có ngăn ngại.

Nếu người có Tâm ác luận nghị thì kẻ gây khó khăn tự nhiên chịu khuất phục.

Lại dùng Ấn này ấn vào Luân Tòa của Phật, Chú một trăm lẻ tám biến. Sau đó thỉnh Phật an trí trên tòa thì tất cả quân Ma không có ai chẳng quy phục. Trong Đại Đàn Hội đều dùng Ấn này.

Nhược Nô Sắt Nễ Sa Ấn Chú thứ mười tám Jñānoṣṇīṣa: Đường nói là Trí Đảnh.

Dựa theo lúc trước, chỉ sửa đầu của hai ngón trỏ đều vọn trên móng ngón giữa, đầu ngón đều càng ngang bằng với đầu ngón giữa Đà La Ni là:

Úm ma ma, ma ma hồng, nễ.

Ấn Đà La Ni này, người hay tụng trì được Trí tối thượng, đời đời chẳng mất.

Ca Lê Sa Xá Ni Ấn Chú thứ mười chín.

Kleśani: Đường nói là diệt tội.

Dựa theo lúc trước, chỉ sửa hai ngón trỏ đều dùng cạnh ngón nắm cạnh lóng trên của ngón giữa, đầu ngón lìa một Thốn 1/3dm, lìa đầu hai ngón cái bốn phân 2/15dm Đà La Ni là:

Úm ca lê xá ni, xà.

Ấn Đà La Ni này. Nếu thiện nam tử. Kula putra, thiện nữ nhân.

Kulaputrī chí tâm làm Ấn tụng Đà La Ni, tùy tụng một biến thì trăm ngàn vạn ức câu na trí na do tha hằng hà sa kiếp: Tội bốn nặng, năm nghịch, nhất xiển đề, tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Nếu hay một đời, ngày ngày thường tụng ngàn biến, vạn biến thì hay khiến cho tất cả tội chướng cuối Hành Giả từ vô thủy đến nay thảy đều tiêu diệt. A Bạt La Chất Đa Ấn Chú thứ hai mươi.

Aparājita: Đường nói là vô năng thắng vậy dựa theo lúc trước, chỉ sửa hai đầu ngón trỏ cách đầu ngón cái ba phân 1/10dm Đà La Ni là:

Úm a bạt la chất đề hồng, phất.

OṂ APARĀJITE HŪṂ PHAṬ.

Ấn Đà La Ni này. Nếu thiện nam nữ tụng trì thì: Vua, giặc, quỷ, thần, tất cả hiểm nạn chẳng thể gây hại.

Nếu người muốn thọ trì bốn pháp bên trên. Ở nơi nhàn tĩnh nên làm Thủy Đàn dài rộng bốn khuỷu tay, mọi loại trang nghiêm. Ở trong Đạo Tràng an trí tượng Phật, hoặc Xá Lợi Phật, mọi loại cúng dường.

Ở trước Tượng, quỳ gối chí Tâm tụng Chú, mãn một ngàn không trăm lẻ tám biến, hoặc mãn vạn biến. Ngày ngày như vậy, mãn mười vạn biến cho đến một trăm vạn biến thì quả nguyện chẳng hư hoại.

Thích Ca Mâu Ni Phật Sám Hối Pháp Ấn Chú thứ hai mươi mốt.

Hai tay: Đem nhóm ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út cùng hướng xuống dưới cài chéo nhau. Dựng hai ngón giữa, đầu ngón trụ nhau. Hai ngón cái cùng móc nhau, bên phải đè bên trái. Đem hai đầu hai ngón cái phụ bên cạnh ngón trỏ phải.

Chú là:

Na mô tát bà thật nhược da Úm tam bà tất để kê sa ha.

Ấn Chú của pháp này hay trừ tất cả tội chướng của ba nghiệp, diệt nhóm tội: Bốn nặng, năm nghịch, thảy điều trừ diệt Phật Đảnh Đao Ấn Chú thứ hai mươi hai. Hai tay đem tám ngón cài chéo nhau bên trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái.

Dựng thẳng hai ngón giữa cùng trụ nhau, hợp cổ tay Chú là:

Úm khát già, la mạt nõa bát la mạt đà na, tư đảo đà da sa ha.

Các Tỳ Kheo nếu làm Ấn này, tụng Đại Chú lúc trước. Nếu trên thân người vướng bệnh quỷ thần thì dùng Ấn đánh vào đầu, ngực, lưng… tùy theo nơi bệnh ấy dùng Ấn đâm đè. Lại Chú vào hạt cải trắng đáng vào đầu, mặt, tim, nhực của người bệnh.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần