Phật Thuyết Kinh Vô Cực Bảo Tam Muội - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH VÔ CỰC BẢO TAM MUỘI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẦN BA
19. Không dùng tam muội, nhưng có chỗ phát sinh sở nguyện. Đó là báu.
20. Tam muội không vì tất cả các pháp tác chứng. Đó là báu.
21. Muốn nhập vào đạo vô sinh, không có người độ. Đó là báu.
22. Muốn nhập vào vô sinh. Đó là báu.
23. Muốn nhập vào chỗ không lay động. Đó là báu.
24. Muốn nhập vào tất cả vô ngã, không lìa vô ngã. Đó là báu.
25. Muốn biết sinh tử ban đầu đều là không tướng. Đó là báu.
26. Muốn biết rõ tam muội ban đầu là không tướng. Đó là báu.
27. Muốn nhập vào tướng biết nó ban đầu là không tướng. Đó là báu.
28. Muốn nhập dục, ý hay dục. Đó là báu.
29. Muốn nhập vào không, nhớ nghĩ, không có nhớ nghĩ. Đó là báu.
30. Muốn nhập vào môn Đà La Ni, chỗ tổng nhiếp tất cả. Đó là báu.
31. Muốn nhập vào chỗ làm ác nhưng muốn không làm ác. Đó là báu.
32. Muốn nhập vào phương tiện khéo léo lấy ý làm pháp khí. Đó là báu.
33. Muốn tương ưng cùng vạn sự, không muốn nghịch nhau.
Đó là ba mươi ba điều báu.
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Này Văn Thù Sư Lợi! Ví như muốn vào thành, trước hết phải đi từ cửa vào. Người muốn biết nhân duyên, không nên tranh cãi, muốn biết sự tranh cãi, không gì bằng tự giữ mình.
Người muốn biết không nói năng không dục, không bằng sống thực tại. Người không muốn động, chớ được chuyển động. Người muốn không hy vọng thì không nên tưởng. Người không muốn sắc thì nên trụ ngay thẳng. Người không muốn có khác thì nên tự giữ vắng lặng.
Người hay tự giữ mình, thì không thể xưng nói. Người không tự cao, tự hạ thì đầy đủ những sự tiện lợi, muốn làm điều gì cũng không mất. Được đạo cũng lại như vậy, không có nghi ngờ. Người không có nghi ngờ biết vốn là không. Người biết vốn là không không chỗ mất, ba đời bình đẳng, không có sợ hãi. Người ba đời không tăng giảm, không trụ sắc, đã không trụ sắc là không trụ các pháp.
Người mắt thấy sắc chỉ là nhãn, chính con ngươi trụ, không phải là sắc. Tai nghe tiếng, tiếng không chỗ trụ. Mũi ngửi hương, hương cũng không chỗ trụ. Miệng biết vị, vị cũng không chỗ trụ. Ý cũng không biết thức, thức cũng không biết ý.
Ý không chỗ trụ, như hạnh vốn không có tưởng, tuệ hạnh chắc chắn, chắc chắn như vậy, không có ngã. Ngã này thấy được các pháp, chỉ thấy vô ngã. Tuệ không biết sở hữu, sở hữu cũng không biết tuệ. Tuệ không biết tập, tập không biết tuệ. Tâm Bồ Tát không lìa tâm.
Bồ Tát Đàm Ma bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đạo không hợp cùng với tưởng, vì có hợp là không.
Đức Phật nói: Này Đàm Ma! Các pháp không lấy tưởng làm chứng, chỉ dùng tiếng vang làm pháp. Ví như người thổi sáo, tiếng vi vu nhẹ nhàng khoái thích, hợp với tiếng ca. Các tam muội cũng lại như vậy. Các hóa cũng lại như vậy. Niệm cũng như vậy. Giác cũng như vậy. Sinh tử, vô danh, lìa vô danh. Niệm hóa giác cũng như vậy.
Các danh không xứ sở, ngã không tưởng đến, tưởng vô tác là lìa và không lìa. Tác vô tác dùng làm tác tưởng, tưởng hành vắng lặng đều không sở hữu. Các pháp chẳng dục, tất cả đều như vậy.
Bồ Tát Bảo Lai bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các vắng lặng không khởi, muốn cắt đứt đại nghi đều phải trở về chỗ cũ?
Đức Phật bảo: Này Bảo Lai! Các pháp xứ, không có xứ, hóa cũng không xứ, niệm cũng không xứ.
Bồ Tát Bảo Lai lại thưa hỏi: Bạch Thế Tôn! Sinh sinh xứ có sinh xứ không?
Hóa hóa xứ có hóa hóa không?
Niệm niệm xứ có niệm niệm không?
Giác giác xứ có giác giác không?
Đức Phật nói: Này Bảo Lai! Sinh sinh lại sinh Niết Bàn sinh. Đây là hợp với ý của Như Lai. Sinh sinh lại sinh, không sinh Niết Bàn sinh. Đó là không hợp với ý của Như Lai. Hóa hóa lại hóa Niết Bàn hóa. Đó là hợp với ý của Như Lai. Hóa hóa lại hóa, không hóa Niết Bàn hóa. Đó là không hợp với ý của Như Lai.
Niệm niệm lại niệm Niết Bàn niệm. Đó là hợp với ý của Như Lai. Niệm niệm lại niệm, không niệm Niết Bàn niệm. Đó là không hợp với ý của Như Lai. Giác giác lại giác Niết Bàn giác. Đó là hợp với ý của Như Lai. Giác giác lại giác, không giác Niết Bàn giác. Đó là không hợp với ý của Như Lai.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói kệ tụng:
Pháp pháp không có sinh
Hợp làm một thanh tịnh
Sinh sinh không lại sinh
Niết Bàn đều như vậy.
Hóa vốn từ là không
Hóa hóa không giải thoát
Hóa bằng với Niết Bàn
Vắng lặng không xứ sở.
Niệm vốn là không thức
Niệm phát ra từ không
Niết Bàn bằng với niệm
Niệm vững chắc như vậy.
Giác giác hạnh bình đẳng
Giác ngộ không chỗ đến
Giác ngộ không thường trụ
Đó chính là Như Lai.
Hóa xứ không có xứ
Giác ngộ không chỗ đến
Nếu hóa không xứ sở
Các pháp đều như vậy.
Sinh xứ vốn là không
Không sinh là xứ ấy
Hóa xứ vô danh xứ
Tất cả là tam muội.
Niệm xứ có niệm không
Từ không đến xứ ấy
Không phải vốn không thật
Tuệ ấy đã như vậy.
Hạnh giác không tương liên
Giác không lìa xứ ấy
Hạnh từ giác thấy nghĩa
Lìa giác không có thoát.
Không dứt pháp sở sinh
Sở tại thường như vậy
Trong ba ngàn Trời, Trăng
Chiếu sáng không gì hơn.
Pháp chẳng phải tư tưởng
Những gì cần thực hành
Với dục không khởi nhơ
Chẳng không cũng chẳng tưởng.
Ý Như Lai luôn sáng
Cũng không xứ, pháp, danh
Giải thoát chẳng luôn trụ
Tất cả như bản xứ.
Hoa hương tự nhiên đến
Phát xuất không xứ sở
Đã thanh tịnh không xứ
Sở hữu đều như vậy.
Cây khô lâu sống lại
Đều từ ý phát khởi
Đều thấy ánh sáng lớn
Ánh sáng không gì bằng.
Âm nhạc trên hư không
Ngày đêm thấy ánh sáng
Lúc đó trong đại hội
Đều phát ý Bồ Tát.
Nhân dân rất vui mừng
Đều được nghe Kinh này
Chấn động ba ngàn cõi
Được thọ thân bất động.
Vì thấy pháp vắng lặng
Không danh là ứng ấy
Huống gì chỗ thế gian
Tất cả đều như vậy.
Thanh tịnh không vì định
Si, tuệ vốn không thế
Tịnh, si hợp bằng nhau
Tuệ vốn không giải thoát.
Tam muội không chỗ khởi
Tất cả đều như vậy
Bồ Tát trụ đạo địa
Sinh đều từ nơi ý.
Năm việc không thể thân
Khiến đọa trong ba đường
Xa lìa hạnh như vậy
Thành Phật, đạt mười phương.
Trăm ngày được pháp vị
Phụng hành tam muội này
Đều từ các cõi đến
Bay lại chỗ của Phật.
Các trời và Quốc Vương
Đều được thấy thân Phật
Ý chí rất vui vẻ
Thân thể được nhẹ nhàng.
Không nên dùng sắc tướng
Quán pháp có Tam Tôn
Kinh Bát Nhã Tỷ La
Xứ sở không ba ngàn.
Như Lai vốn phát ý
Nguyện không lìa mười phương
Thường làm vườn đại pháp
Xứ sở không ba ngàn.
Người ở trong ba cõi
Cho đến Trời Đao Lợi
Đều Phật Hà Đà Na
Hiệu là Thiên Trung Thiên.
Phát ý đến nước ấy
Chốc lát lại trở về
Bồ Tát Ma Đề Na
Bay trở lại vườn Trúc.
Xá Lợi Phất hỏi Bồ Tát Bảo Lai: Bồ Tát đến cõi này, bản nguyện thế nào?
Quốc Độ vô cực thế nào?
Bồ Tát Bảo Lai hỏi lại: Theo ông nghĩ, Quốc Độ vô cực thì như thế nào?
Xá Lợi Phất nói: Quốc Độ vô cực chỉ toàn là Bồ Tát không có La Hán và những hạng người khác. Tất cả những gì có được đều là bảy báu.
Bảo Lai nói: Ta phát nguyện đến đây không mong được độ. Những gì có được của Quốc Độ vô cực cũng không nguyện, pháp không khởi xứ, thì làm gì có tư tưởng. Tất cả cõi nước người có phát khởi ý nguyện, nay lại được thấy tưởng nguyện vô cực.
Xá Lợi Phất nói: Lúc Nhân Giả đến đây, mang theo hoa đẹp, ngọc lạ quý báu, chẳng lẻ không tưởng đó ư?
Bảo Lai đáp: Hoa ấy không hình, chỉ để làm chủ, nhưng khi nó ở vườn Trúc này, thì dùng pháp trao truyền.
Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Người thấy Tượng Phật, liền đảnh lễ Phật đạo, oai thần đâu phải tại tượng. Tuy không tại tượng nhưng cũng không lìa tượng, chỉ vì tưởng, nên gọi là có oai thần, xem xét kỹ thì không có gì. Nguyện là ví như trên Cõi Trời Đao Lợi, có hoa tên là Câu kỳ, các trời không ai là không ham thích. Bồ Tát dùng pháp làm thống lãnh tất cả đạo nhãn, đạo vốn là cái mình có, chỉ dùng ý làm pháp khí.
Xá Lợi Phất nói: Chỉ có ý làm chủ ư?
Bảo Lai nói: Ý cùng hợp với các pháp, các pháp hợp với ý. Đạo là không chủ, do không khởi làm chủ, cho nên làm pháp khí.
Này Xá Lợi Phất! Ông thấy hóa chưa?
Xá Lợi Phất đáp: Thấy rồi.
Bảo Lai hỏi: Hóa đạo tại đâu?
Từ đâu mà đến và đi về đâu?
Xá Lợi Phất đáp: Hóa không có xứ sở.
Bảo Lai nói: Sao biết là hóa?
Xá Lợi Phất đáp: Chỉ thấy hóa lúc thành tựu, chứ không thấy gốc ngọn, cho nên gọi là hóa.
Bảo Lai nói: Thế nên nói không chỗ có.
Xá Lợi Phất hỏi: Người thấy là thấy sai lầm, còn người không thấy, vậy thấy những gì?
Bảo Lai đáp: Các tưởng như hóa đó là thấy. Pháp chưa khởi như hóa, pháp vị lai vô danh gọi là thấy. Không tạo pháp, chưa làm ra pháp, đó là thấy. Không có tạo hóa, chỉ khởi tưởng vô danh, đó là thấy. Chỉ có Như Lai tác không tạo tác, đó là thấy.
Xá Lợi Phất nói: Ở trong cái thấy này có qua lại không?
Bảo Lai đáp: Không có qua lại nên mới gọi là thấy. Nếu có qua lại, thì không phải là thấy. Đó là cái thấy điên đảo.
Xá Lợi Phất hỏi Bảo Lai: Có đoạn luân môn không?
Bảo Lai đáp: Người có Nhất thiết trí đã thấy môn vô hình. Đó là đã đoạn luân môn, không thể đến giải thoát. Người không giải thoát, có thể đến với không. Ví như hư không, không có chỗ nào là không nhập vào.
Vì sao?
Vì không có sử dụng. Thế nên không có chỗ nào là không nhập dụng. Do thoát đối với gốc, cho nên luân ấy không chuyển.
Bồ Tát Đàm Ma nói với Bảo Lai: Tôi muốn các vị mới học đều đạt được pháp này.
Bảo Lai nói: Người muốn đạt được định không, thì nên thực hành chín pháp:
1. Nên định để khiến người trong mười phương, đều làm Bồ Tát.
2. Thấy các ác ý, khiến tâm không khởi. Đó là định.
3. Thấy năm nẻo khổ nhọc, đều muốn độ thoát. Đó là định.
4. Đối với ngu si, hẹp hòi, không khởi lên tôi, ta. Đó là định.
5. Thấy những sự tối tăm đều muốn làm cho được sáng. Đó là định.
6. Công đức làm ra, đều khiến không mất. Đó là định.
7. Thấy tất cả mọi người trong mười phương đều bình đẳng. Đó là định.
8. Quán các ý có thể phát sinh trong quá khứ, vị lai chớ lại tác thức. Đó là định.
9. Khiến cho tất cả mọi người, trong các Cõi Phật, có ý chí đều như Bồ Tát, không động chuyển, từ đó mau chóng được tam muội. Đó là định.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Trường Thắng
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Làm Vua
Mười Hai đại Nguyện Của đức Quán Thế âm Bồ Tát
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Tám Mươi Mốt - Kinh Gấu Cắn, Bắn Tiên
Phật Thuyết Kinh Vô Cực Bảo Tam Muội - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Bốn Mươi Ba - Phẩm Biện Sự - Phần Một