Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Mười Một - Kim Cang Tạng Quyến Thuộc Pháp ấn Chú - Tập Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN MƯỜI MỘT

KIM CANG TẠNG

QUYẾN THUỘC PHÁP ẤN CHÚ  

TẬP BA  

Kim Cang Tùy Tâm Đại Pháp Thân Ấn Chú thứ bốn mươi bảy. Đan thứ hai mươi chín.

Trước tiên, đem tay phải nắm phía sau khuỷu cánh tay trái.

Lại dùng tay trái nắm phía sau khuỷu cánh tay phải xong, đứng dậy nâng Ấn lên an trên đầu, đừng dính vào cái đầu, kèm bàn chân ngang vằng đầu ngón Thân Chú là:

Na mô la đát na đá la dạ gia na mô thất chiên trà bạt chiết la ba nõa duệ ma ha dược xoa tê na ba đá duệ đá điệt tha chỉ đá la chỉ đá la ca bỉ la băng già la hốt lô bả sa bà lê nõa hốt lô phác nõa, a già xa sa ha đá điệt tha sa la đa la tỉ lợi tỉ lợi tố lỗ tố lỗ ha la ha la hề lợi hề lợi hổ lỗ hổ lỗ bả la bả la bỉ lý bỉ lý bố lỗ bố lỗ ma la ma la mật lý mật lý mỗ lỗ mỗ lỗ giả la giả la chỉ lý chỉ lý chủ lỗ chủ lỗ dã la dã la dật lý dật lý dũ lỗ dũ lỗ già la già la kì lý kì lý cồ lỗ cồ lỗ ca la ca la chỉ lý chỉ lý củ lỗ củ lỗ đá la đá la để lý để lý đổ lỗ đổ lỗ la cồ la cồ ha na ha na đà ha đà ha bả giả bả giả cật liễu hư nõa, cật liễu hư nõa đá ma đá ma sân đà sân đà ma tha ma tha tần đà tần đà chế yếm bà, chế yếm bà bàn xà bàn xà bàn đà bàn đà ma lợi đà, ma lợi đà bả la ma lợi đà, bả la ma lợi đà lao đà la, lao đà la ha na ha na tát bà bỉ tri na tì na dược ca hồng bà thí ca lỗ mê tát bà tất đát lý bổ lỗ sa đá la ca đà lợi ca na hồng hổ lỗ hổ lỗ tỉ đà thất chiên trà bà xà la đạt la bạt xà la ba nõa duệ la thận nhã ba dạ để sa ha.

Pháp Ấn Đại Chú này hay hàng phục tất cả: Hoặc Trời, hoặc Rồng, hoặc các ngoại đạo, hoặc Thần, hoặc Quỷ, hoặc Dươc Xoa, hoặc La Sát, hoặc Càn Thát Bà, Cưu Bàn Trà… mọi loại tạp loạn gây điều chẳng tốt lành cùng với người gây bệnh hoạn, quỷ thần gây chướng nạn… nghe tiếng của Chú này thảy đều choáng váng té xuống đất mà chết, tuy có sống lại thì chạy xa đến cảnh khác, chẳng dám xâm bạo, làm các lưu nạn.

Tất cả pháp, người khởi tâm làm thì đứng, đều thành biện, khi tụng Chú thời cần phải làm Đại Thân Ấn phía sau, nên dùng sắc giận dữ làm điều này ắt hay tồi phục tất cả, rất có ling nghiệm.

Nếu người muốn được thọ trì Chú này, cần phải đến trước tháp Xá Lợi, dùng hương hoa tốt cúng dường Kim Cang. Khi Nhật Nguyệt Thực thời nên tụng Chú này, cho đến khi Mặt Trời, Mặt Trăng sanh trở lại thì mới có thể ngưng nghỉ thì Pháp ấy liền thành, tất cả điều mong cầu mau được vừa ý.

Nếu muốn làm pháp, đốt An Tất Hương, mọi loại hoa màu nhiệm, thức ăn uống cúng dường, trang nghiêm Đàn Pháp như bên dưới nói.

Kim Cang Tùy Tâm Liệu Nhất Thiết Nan Phục Quỷ Bệnh Đại Pháp Thân Ấn thứ bốn mươi tám. Tụng Đại Chú lúc trước.

Trước tiên, hai tay đều co bốn ngón tay từ ngón trỏ trở xuống, nắm quyền nhập vào trong lòng bàn tay, dựng hai ngón cái xong, đứng dậy, nâng Thủ Ấn bên phải, cố gắng hướng lên trên đầu, dùng thế hướng xuống bên dưới đánh tất cả quỷ. Đem cánh tay trái che ngay trên trái tim, đừng chạm trái tim, lại gắng duỗi thẳng bàn chân phải đứng nghiêng, đem chân phải co đầu gối, hướng thân về bên phải, hướng mặt nhìn về bên trái rồi trợn hai con mắt.

Một Pháp ấn này. Nếu làm hàng phục, trừ tất cả Đại Ma, La Sát, quỷ thần phi hành trong Trời với loài trụ ở bốn phương trên dưới… làm một pháp này thì tất cả đều diệt, không thể thành biện làm việc chướng ngại. Nơi trị bệnh dùng làm pháp này thời tiếng Chú chẳng dứt, lại khởi sắc giận dữ thì tất cả có nghiệm.

Kim Cang Đại Sân kết giới Pháp Thân Ấn thứ bốn mươi chín. Đan thứ ba mươi mốt, tụng Đại Chú lúc trước.

Trước tiên, hai tay đem ba ngón tay từ ngón giữa trở xuống, hướng ra ngoài cài chéo nhau, khiến ngón tay nắm dính lưng bàn tay, dựng hai ngón trỏ, co hai ngón cái, cố gắng đừng dính vào ngón trỏ xong, đứng dậy nâng Ấn hướng lên trên bắp tay phải, rồi ngiêng bàn chân phải, co đầu gối phải, hướng thân về bên phải làm mặt rất giận dữ.

Đại Pháp Thân Ấn này tên là Đại Sân Pháp. Nếu Đàn kết giới, dùng hộ nơi chốn này thì tất cả các nhóm chúng quỷ thần, Thiên Ma thảy đều té xuống đất, đều sẽ chạy tan, đi ra bên ngoài cảnh giới.

Kim Cang Tùy Tâm Đại Sân Pháp Thân Ấn thứ năm mươi. Đan thứ ba mươi hai, tụng Đại Chú lúc trước.

Trước tiên, hai tay đem ba ngón tay từ ngón giữa trở xuống, hướng ra ngoài cài chéo nhau, khiến ngón tay nắm dính lưng bàn tay. Lại hướng hai ngón trỏ vào bên trong cài chéo nhau, bên phải đè bên trái, kèm hai ngón cái phụ trên hai ngón trỏ xong. Đứng dậy nâng Ấn ngay trên bắp tay phải, nghiêng chân trái, co đầu gối phải, hướng thân về bên phải, hướng mặt về bên trái nhìn, mắt giận dữ.

Đại Pháp Thân Ấn này đều hay tồi phục nhóm nạn của tất cả ma ác, quỷ thần… cũng dùng trị bệnh. Nếu dùng pháp này hàng phục thì tất cả quỷ thần, Thiên Ma đều tự bị cột trói, đều đứng yên tự chết, thân tan thành bụi.

Ba Pháp Ấn này đều cùng đồng tụng Đại Chú lúc trước, dùng thông cho tất cả dụng, mọi loại việc pháp thảy đều có nghiệm.

Kim Cang Tạng Mật Hiệu Pháp Ấn Chú thứ năm mươi mốt. Đan thứ ba mươi ba.

Để tay phải chống eo lưng, hướng bốn ngón tay về phía trước, hướng ngón cái về phía sau. Co khuỷu tay trái ngay trên bắp tay trái xong. Co ngón ngữa, ngón vô danh ở trong lòng bàn tay, lãi dựng ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa hướng đầu ngón tay về bên trái, ngoái liếc nhìn ngó. Liền phát ra một tiếng dạng như búng lưỡi ở ngay bên trong gò má phát ra một tiếng. Liền rộng bước đi theo bên phải nhiễu quanh Đàn, bên ngoài tụng Chú Văn.

Chú là:

Thất lý trí, bạt chiết la báng ni, bà la đà ma ha tì tri gia la xà ba la điện đa la ma ha chiến trà tỳ tri gia la xà ế hề ế hề bà già bạn thí già lam.

Pháp Ấn Tán Chú này. Nếu khi lảm tất cả Đàn Pháp thì nên làm pháp này, Mật Hiệu tất cả Kim Cang. Pháp ấy mỗi lần nên ba hồi phát ra tiếng, ba lần rộng bước, nhiễu quanh Đàn tụng tán thì cảm được tất cả Kim Cang ở mười phương, một thời đi đến trợ thành Pháp ấy, mọi loại làm đều sẽ có nghiệm.

Kim Cang Tùy Tâm Đại Ác Đô Thân Ấn thứ năm mươi hai. Đan thứ ba mươi bốn.

Đem ngón út phải từ phía sau nhập vào khoảng giữa ngón út, ngón vô danh trái. Dựng thẳng ngón vô danh phải ngay trong lòng bàn tay ló ra ở khoảng giữa ngón giữa, ngón vô danh của tay trái, lại nắm bắt hai ngón cái ấy kèm nhau đè bên cạnh ngón giữa.

Ấn này hàng phục tất cả hết thảy các hàng quỷ thần của tám Bộ đều bị cột trói. Các Đại Ác Quỷ của tám Bộ đều nhiếp một ngàn sáu trăm các Kim Cang Ấn.

Đô Thân Ấn thứ năm mươi ba. Đan thứ ba mươi năm.

Tay phải đem ngón vô danh nhập vào lưng ngón vô danh của tay trái, ngay bên dưới ngón giữa, ngón út phải. Bày cổ tay trái. Đem ngón trỏ phải trụ ở đầu ngón út trái. Đem ngón giữa phải cùng với ngón trỏ trái móc nhau. Đem ngón út phải cùng với ngón trỏ trái móc nhau. Đưa ngón cái trái vào khoảng giữa ngón út, ngón vô danh phải.

Đem ngón cái phải đè dưới lưng lóng thứ hai của ngón trỏ trái.

Ấn này cột trói chung tất cả các Quỷ, lại nhiếp sáu trăm các nhóm Tiểu Ấn.

Thân Ấn thứ năm mươi bốn. Đan thứ ba mươi sáu.

Đem ngón giữa phải nhập vào lưng ngón vô danh trái, ló nằm ngang bày cổ tay trái. Đem ngón trỏ phải trụ ở ngón út trái, ngón cái phải trụ ở ngón trỏ trái. Đem ngón vô danh, ngón út của tay phải hướng vào trong lòng bàn tay trái, với ló ngón cái trái ra, hướng ra bên ngoài lòng bàn tay ló ra.

Ấn này nhiếp chung tám trăm Tiểu Ấn. Ấn này cũng dùng cột trói tất cả Quỷ.

Lại Thỉnh Triệu Tùy Tâm Ấn thứ năm mươi năm. Đan thứ ba mươi bảy.

Đem lòng bàn tay phải đè lưng bàn tay trái, hướng xuống dưới cài chéo nhau, đưa năm ngón tay trái qua lại.

Bổng Ấn thứ năm mươi sáu. Đan thứ ba mươi tám.

Cài ngược hai ngón út ở trong lòng bàn tay. Ngón vô danh, ngón út cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Hợp cổ tay, kèm hai ngón cái đè trên hai ngón trỏ Tróc Chú Ấn thứ năm mươi bảy. Đan thứ ba mươi chín tay phải đem bốn ngón nắm quyền, để ngón cái đè bên trên. Tay trái cũng thế.

Tay phải cầm cái giáo trợ, tay trái chộp bắt nơi đau nhức sáu Ấn từ Đại Ác Đô Thân Ấn trở xuống cùng với Đại Tùy: Đại Nghiệp năm thứ tám, tháng mười hai, ngày tám. Tam Tạng Đàm Ma Ngật Đa ở Lạc Dương, vườn Thượng Lâm dịch cái khác của Ấn Văn, cái đồng nhau của Ấn Kim Cang Tạng Thọ Đàn Pháp.

Nếu có Sa Môn, hoặc Bà La Môn, nhóm thiện nam tử… chuyên tâm yêu thích công đức Thần Chú trong Pháp Tạng bí mật của ta thời có thể vào ngày mười ba tháng mười, hoặc ngày mười năm tháng Lạp.

Tháng mười hai: Ở nơi thanh tịnh, hoặc ở đất trống, hoặc ngay trong Thất… nên tu sửa đất ấy sạch sẽ như pháp của Phật Bồ Tát đã nói bên trên, một loại không có khác. Trang nghiêm Đạo Tràng, treo các phan, lọng, mọi loại vật báu, vật trang nghiêm, bày biện đủ mọi loại hoa hương.

Ở trong Đạo Tràng làm pháp Đàn năm màu rộng bốn khuỷu tay. Bốn góc, bốn cửa của Đàn ấy đều để một lọ nước sạch mới. Chính giữa Đàn ấy làm tòa hoa sen, chính giữa Đàn ấy cũng để một lọ nước, bên lò lửa ấy cũng để một lọ nước, năm cái lọ ấy đều chứa đầy nước sạch kèm để năm loại lúa đầu, ở miệng lọ ấy đều dùng lá Bách, cành Lê cắm vào, lại dùng ba xích 1m lụa sống cột buộc bên trên.

Nghênh thỉnh tượng Kim Cang an phía sau lọ nước ở chính giữa. Nếu không có tượng vẽ thì làm Ấn Pháp thỉnh Kim Can an trí cũng được mà không có lỗi. Theo thứ tự an trí bốn mươi chín ngọn đèn, năm mươi mâm chứa đầy mọi loại thức ăn.

Lại dùng ba loại Huân Lục Hương, Trầm Thủy Hương, An Tất Hương đâm giã hòa chung với nhau làm thành viên, lớn như quả táo nhỏ, gồm một ngàn không trăm lẻ tám viên với thiêu đốt nhóm vật: Mè, gạo tẻ, bơ, mật, sữa, lạc…

Phía Nam ở cửa Tây của Đàn ấy để lò lửa, đào đất làm cái lò ấy, bốn mặt đều rộng một khuỷu tay, sâu một khuỷu tay. Trong lò lửa ấy vẽ làm hoa sen. Mọi loại bày biện xong, dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, vào trong Đạo Tràng, làm Ấn hộ Thân, kết giới xong rồi, làm Ấn triểu thỉnh Kim Cang Bồ Tán an trí ngồi xong.

Trước tiên, làm hoa hương, việc pháp cúng dường. Tiếp theo, làm các Pháp Ấn Chú cúng dường. Tiếp theo, thiêu đốt mẻ, gạo tẻ, bơ, mật hòa chung với nhau cúng dường, mội mỗi như Pháp bên trên. Sau đó, lấy viên hương lúc trước, dùng Đại Tâm Chú, mỗi một viên đều Chú riêng bảy biến xong, ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy thiêu đốt hết một ngàn không trăm lẻ tám viên. Ngay lúcc đó thời trên tượng Kim Cang hiện ra thân Kim.

Cang Tạng Vương Bồ Tát hỏi hành giả rằng: Ngươi muốn pháp nào?

Lúc đó, hành giả liền bưng lư hương, tùy theo ý báo đáp Thời Kim Cang Tạng Vương mãn nguyện ấy xong, đột nhiên chẳng hiện. Ngay lúc đó hành giả liền được nghiệm ấy.

Cúng dường xong rồi, theo thứ tự lấy lọ nước trong Đàn ấy đi ra bên ngoài Đạo Tràng, lên trên Thủy Đàn thứ tự rưới rót lên đảnh đầu của người thọ pháp ấy, đều quán đảnh xong, mặc áo sạch mới, dẫn vào Đạo Tràng đảnh lễ Phật xong, cùng làm Hộ Thân, mỗi mỗi như pháp bên trên, phát khiển Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát, lau quét trừ bỏ nơi chốn, đem thức ăn còn lại rải thí cho tất cả chúng sanh.

Bấy giờ, Đức Phật bảo chúng Bồ Tát Ma Ha Tát của hàng Kim Cang Tạng rằng: Nay quyến thuộc của các ngươi, hiến các Chú, Pháp Tạng bí mật hiếm có thâm sâu vi diệu, được có việc lợi ích như vậy. Ta cũng từ xưa đến nay từng học pháp này đều được thành tựu.

Các ngươi cũng nên giữ vững phạm hạnh thường không có chuyển lùi, được vô sanh pháp nhẫn, quy Phật Pháp Tăng. Thường đi qua sáu đường mà làm hộ niệm, khuyên phát bồ đề, không từ lao nhọc. Do sức thệ nguyện của các ngươi, cho nên chúng ta tán thành, tất cả vui vẻ.

Thời các đại chúng nghe Đức Phật ấn khả, đều rất vui vẻ, làm lễ rồi lui ra.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần