Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Mười Một - Kim Cang Tạng Quyến Thuộc Pháp ấn Chú - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN MƯỜI MỘT

KIM CANG TẠNG

QUYẾN THUỘC PHÁP ẤN CHÚ  

TẬP HAI  

Thương Ca La Thọ Đàn Pháp.

Nếu người muốn được Bạt Chiết La Thương Ca La. Vajra śaṃkhara nghiệm. Trước tiên, ngày ngày làm mọi loại cúng dường, đốt An Tất Hương, thỉnh Thương Ca La an trí ngồi xong, nên tụng Tâm Chú mãn mười vạn biến, phát nguyện cứu giúp tất cả chúng sanh, sau đó tìm nơi chốn thanh tịnh, dựng lập Đạo Tràng, mỗi mỗi như pháp bên trên.

Pháp ấy nên chọn ngày mười năm của tháng, dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, ở chỗ của Đạo Tràng treo phan, lọng với cúng dường đủ nhóm vật hoa, hương… bày biện xong rồi, ở trong Đạo Tràng ấy làm cái Đàn bốn khuỷu tay, dùng ba màu trắng, đỏ, đen làm.

Chính giữa Đàn an tượng Thương Ca La. Nếu không có Tượng thì làm Ấn thỉnh gọi Thương Ca La ngồi trên tòa hoa sen để an trí cũng được, hoặc vẽ trên đất cũng được.

Phương Đông vẽ làm hình Bạt Chiết La. Chày Kim Cang. Phương Bắc vẽ bày hình Liên Tỏa xích khóa.

Phương Nam vẽ làm hình Khả Tra Báng Già Ấn, hình của Ấn ấy vẽ làm hình mặt người, trên đầu mặt ấy vẽ làm hình Bạt Chiết La đứng trên đầu, đừng làm hình có thân thay thế, thân ấy vẽ làm hình cây gậy như cán cây Tích Trượng.

Trên đầu mặt ấy vẽ làm tóc trên đầu bung rũ xuống bên dưới, tai phải vẽ làm vòng xuyến vàng ròng có hình như trên mặt Hỏa Thiên Thần đeo vòng xuyến vàng trên Đàn Pháp, tựa như cái trống đeo ở eo lưng nhỏ bé. Phương Tây an tòa ngồi của Chú Sư.

Ở trên Đàn ấy an tám mâm thức ăn cùng chứa đầy mọi loại thức ăn uống thượng vị, mười hai chén đèn, chín lọ nước với mỗi lọ nước ấy đều đựng đầy nước sạch, dùng lá Bách xanh, cành Lê, lá Trúc cắm vào miệng lọ, đều dùng ba xích 1m lụa sống cột buộc. Chính giữa Đàn để một lọ nước, bốn góc bốn cửa đều để một lọ.

Phía Nam ở cửa Tây của Đàn an một lò lửa, dùng củi cây Phả Câu. Lấy Lưỡng Tam Thục. Đường nói là cây cốc, mè, gạo tẻ, bơ, mật hòa với nhau… dùng Tâm Chú lúc trước một trăm lẻ tám biến, cũng dùng Chú này chú vào An Tất Hương một trăm lẻ tám biến, nghĩ thiêu đốt cúng dường.

Mọi loại làm xong, ngày mười năm của tháng, Chú Sư lại dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, vào trong Đạo Tràng làm Ấn hộ thân, kết giới xong, đốt hương phát nguyện. Việc pháp xong rồi, làm Ấn tụng Chú thỉnh Thương Ca La Kim Cang an trí.

Lại thỉnh Thương Ca La ngồi trong lò lửa, Tâm Chú Sư tưởng ở trong lò lửa có hoa sen lớn và Thương Ca La ngồi trên hoa sen này.

Làm tưởng này xong, lấy nhóm mè, gạo tẻ, bơ, mật đã Chú lúc trước… ở trong lò lửa nhóm củi Phả Câu. Lấy chút ít nhóm mè, gạo tẻ, bơ, mật đã hòa chung lúc trước, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, như vậy thiêu đốt Chú một trăm lẻ tám biến.

Lại Chú vào An Tất Hương, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, đủ một trăm lẻ tám biến. Như vậy nhóm vật hương, hoa, nước hương, mọi loại thức ăn uống cúng dường đã xong.

Phía Tây của Đạo Tràng, ở đất cách Đàn khoảng ba, bốn bước làm một Thủy Đàn.

Trên Đàn ấy để một cái giường, khiến người thọ pháp ngồi trên cái giường, liền nâng lọ nước rưới rót trên đảnh đầu người ấy, khiến người thọ pháp: Tâm, miệng phát nguyện: Nguyện cho đệ tử. Tên là… của con sẽ thực hành Pháp Thương Ca La Kim Cang cứu giúp tất cả loại chúng sanh. Nguyện các Kim Cang đều ban cho đệ tử. Tên là… mọi loại tín nghiệm.

phát nguyện này xong, liền cùng hộ thân, mặc áo sạch mới, dẫn vào Đạo Tràng lễ Phật ba lần xong, lại cho hộ Thân, làm Ấn, tụng Chú, phát khiển xong rồi, từ đây về sau, mọi loại dụng đều được hiệu nghiệm.

Nếu muốn chữa bệnh, giống như lửa mạnh thiêu đốt cỏ khô, như nước nóng rưới vào tuyết, có sức mạnh như vậy.

Chú Sư nếu muốn trị bệnh. Ở bên người bệnh làm Thủy Đàn hai khuỷu tay, Chú vào hạt cải trắng rải ở mười phương, kết giới. Chính giữa Đàn để một mâm bánh, thức ăn, để một bát cơm, một bát nước sạch.

Người bệnh trụ ở bên cửa Tây của Đàn, ngồi hướng mặt về phương Đông. Chú Sư dùng tay nắm hạt cải trắng, Chú vào hai mươi mốt biến xong, dùng đánh trên đầu người bệnh, say đó dùng lửa thiêu đốt hạt cải trắng kèm Chú hai mươi mốt biến, lại tụng Đại Chú dùng cành Liễu đánh vào người bệnh thì bệnh ấy liền khỏi.

Nếu một ngày chẳng khỏi thì ba ngày làm pháp quyết định liền khỏi. Từ đây trở xuống là Pháp Ương Câu Thi.

Kim Cang Ương Câu Thi Pháp Thân Ấn Chú thứ ba mươi bốn. Đan thứ mười sáu, tên là Kim Cang Tạng Tiểu Nữ Pháp có bảy Ấn, chỉ có hai Chú.

Cài ngược hai ngón vô danh, hai ngón út ở trong lòng bàn tay, dựng hai ngón giữa trụ đầu nhau, đem hai ngón trỏ bật ngay bên dưới lóng thứ ba ở phía sau của lưng hai ngón giữa, trụ đầu nhau, kèm hai ngón cái đều phụ trên ngón giữa, hợp cổ tay, đưa ngón cái qua lại.

Chú là:

Na mô la đát na đá la dạ gia na mô thất chiên trà bạt chiết la ba nõa duệ ma ha dược xoa tê na ba đá duệ úm bạt chiết la ương câu thí a ca trà tì ca trà a ca lê sa gia bạt chiết la ương câu thí na sa ha.

Một Pháp Ấn Chú này tên là Kim Cang Vương Tiểu Nữ Pháp Thân Ấn Chú.

Nếu người muốn làm việc Pháp Ương Câu Thi cúng dường. Trước tiên dùng Ấn này, tụng Chú hộ thân với kết giới xong. Lại làm Ấn này, liền tụng Chú này thỉnh Ương Câu Thi ngồi, mọi loại cúng dường liền được tất cả Kim Cang vui vẻ.

Ương Câu Thi Khẩu Pháp Ấn thứ ba mươi năm. Đan thứ mười bảy, tụng Đại Chú phía sau.

Hai tay kèm dựng thẳng hai ngón út bên trong, để ngón vô danh phải bật ngay lưng ngón vô danh với ngón giữa trái, liền hướng đầu ngón nhập vào khoảng giữa của ngón trỏ, ngón giữa.

Lại đem ngón vô danh trái từ khoảng giữa của ngón giữa, ngón vô danh ló ra, liền nhập vào khoảng giữa của ngón trỏ, ngón giữa. Dựng thẳng hai ngón giữa trụ đầu nhau, đều co hai ngón trỏ móc đầu ngón vô danh, kèm hai ngón cái dựng thẳng, trụ đầu nhau cách hai ngón út khoảng nửa thốn 1/6dm.

Một pháp ấn này chế phục tất cả quỷ thần nói năng vọng thuyết, lừa dối… làm Ấn này xong, tụng Đại Chú phía sau,. Thì quỷ thần lại chẳng dám nói, bệnh Thần liền hết.

Ương Câu Thi Nha Pháp Ấn thứ ba mươi sáu. Đan thứ mười tám, cũng gọi là Cấp Phược Quỷ Ấn.

Kèm dựng hai ngón út dính đầu nhau, cài ngược hai ngón vô danh ở trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, hướng đầu ngón về Hổ Khẩu ló ra, kèm dựng hai ngón giữa dính đầu nhau, đều bật hai ngón trỏ ngay trên lưng ngón giữa, đầu ngón vịn ngay lóng thứ ba ngay trên ngón giữa, kèm dựng hai ngón cái. Hợp cổ tay.

Một Pháp Ấn này. Có người bị bệnh, hết thảy bị đau nhức thì nên làm Ấn này, tụng Đại Chú phía sau, dùng ấn lên chỗ bị đau nhức thì bệnh ấn liền khỏi.

Ương Câu Thi Câu Pháp Ấn thứ ba mươi bảy. Đan thứ mười chín, tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước.

Hai tay co hai ngón cái ngay trong lòng bàn tay, đem ngón cái đè trên móng ngón ấy, duỗi thẳng hai ngón giữa, hơi co ngón trỏ phụ trên cạnh ngón giữa, nâng cánh tay lên ngay khoảng giữa của mắt với tai, để đầu ngón nằm ngang hướng về phía trước, đừng dính vào khuôn mặt.

Một pháp ấn này. Nếu có quỷ thần khó điều phục, chẳng nhận sự truy tìm hô gọi. Nên đứng trên đất làm Ấn, tụng Tâm Chú lúc trước bảy biến truy tìm hô gọi thời ứng theo tiếng mà đến, đến xong nhận làm pháp riêng, nói bảo hàng phục. Việc xong rồi, sau đó Phát Khiển. Người làm pháp đều nên hiểu điều này. Pháp Ấn Chú ấy ở nơi đại yếu của bậc thầy.

Ương Câu Thi Câu Pháp Ấn thứ ba mươi bảy. Đan thứ mười chín, tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước.

Hai tay cùng dính lưng lòng bàn tay, đem hai ngón vô danh giao chéo nhau, duỗi ra như sợi dây thừng, hai ngón giữa cũng vậy, đều co hai ngón út như móc câu, lại đều co hai ngón cái, lại co hai ngón trỏ đều móc trên hai ngón cái, dạng như hình móc câu.

Một pháp ấn này. Nếu có quỷ thần sang tâm trái nghịch, chẳng thuận theo Phật.

Pháp. Trước nên, nên dùng Câu Ấn lúc trước hô gọi đến, đến xong liền nên làm Ấn.

Pháp này thì chẳng dám hung hăng. Pháp này rất hiệu nghiệm.

Ương Câu Thi Khẩu Ấn thứ ba mươi chín. Đan thứ hai mươi mốt, Cũng gọi là Giải Phóng Ấn.

Kèm hai ngón cái bên trong, dựng thẳng ngón vô danh phải bật trên lưng ngón vô danh, ngón giữa trái, hướng nhập vào khoảng giữa của ngón trỏ, ngón giữa rồi ló ra, liền nhập vào khoảng giữa của ngón trỏ, ngón giữa.

Dụng thẳng hai ngón giữa trụ đầu nhau, đều co hai ngón trỏ móc đầu ngón vô danh, kèm hai ngón cái dựng thẳng trụ đầu nhau cùng cách ngón cái khoảng nửa thốn 1/6dm Ấn này cùng với Bất Không Quyến Sách Khẩu Ấn lúc trước không có khác.

Một Pháp Ấn này. Muốn giải thoát Quỷ đã bị cột trói lức trước ấy, dùng Tâm Chú lúc trước mà buông tha.

Ương Câu Thi Liệu Bệnh Pháp Ấn Đại Chú thứ bốn mươi. Đan thứ hai mươi hai, Cũng gọi là Phược Quỷ Ấn, tụng Đại Chú phía sau.

Dựa theo Thân Ấn lúc trước, bên trên chỉ sửa hai ngón trỏ đều để dính vạch phía trước lóng thứ hai của ngón giữa, lại đều co hai đầu ngón cái vào trong lòng bàn tay. Hợp cổ tay.

Một Pháp Ấn này. Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ thần với muốn chữa trị tất cả bệnh thì nên làm Ấn này ấn vào chỗ bị bệnh, tụng Đại Chú phía sau bảy biến, liền khỏi bệnh.

Ương Câu Thi Đại Chú.

Chú là:

Na mô la đát na đá la dạ gia na mô thất chiên trà bạt chiết la ba nõa duệ ma ha dược xoa tê na ba đá duệ úm bạt chiết la ương câu thí ca bỉ la kê thí đá trí đá trí già trí già trí thô trí mẫu trí nễ ca lô ca tri ma lô ca tri vũ tri bạt chiết lợi ma ha tì trụ lỗ lệ đậu cưu đậu cưu tố vũ tố vũ tố lỗ tố lỗ sa la sa la tì sa la tì sa la ô hồng ô hồng ô hồng ô hồng phán phán phán phán uất trụ hô trì đê ha la ha la.

Bằng già lệ già trí tì già trí sa bà la tì địch lệ tát bà địa bà na già ba la ha la na ma dạ tam ma địa lê địa đà dực kế trì tố lang kếdã câu lang kế trì bạt chiết la hồ nê bạt chiết la trì lợi đà sa la, ba la ha la nhã la đát na đá la dạ địa yết la ma trí lợi phu đê bạt chiết la đà la tỳ thấp bà sa nễ a bạt la trí ha đá bạt la ma la đà nễ bạt chiết la ương câu thí a đát nhã ba dạ để sa ha.

Đại Pháp Chú này có sự gìn giữ cứng cỏi khác thường, chẳng thể tụng vội vàng, chữa bệnh hiệu nghiệm.

Nếu có người hay thọ trì, cần phải Tịnh Thân hộ trì giới hạnh, không được nhiễm dính, lìa hẳn trần tục với các ô uế, tất cả suy nghĩ tạp nhạp.

Nếu người hay hộ trì như vậy, nên ở ngày ngày dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, vào trong Đạo Tràng, đốt An Tất Hương với mọi loại vật, thức ăn uống cúng dường, kết giới, hộ thân. Bảy ngày bảy đêm tụng Chú này mãn mười vạn biến xong, sau đó lại vào Kim Cang Thọ Pháp Đàn. Về sau, khi dùng pháp chữa bệnh thời nên lập Thủy Đàn, đốt An Tất Hương, thức ăn uống nhiều ít để cúng dường xong, làm Ấn tụng Chú chữa bệnh liền khỏi.

Nếu Chú Sứ hướng bên người bị bệnh Quỷ, ngay lúc đến thời Quỷ tránh đi. Chú Sư liền đứng trên đất, làm Ương Câu Thi Thân Ấn lúc trước, hô gọi quỷ thần ấy đến gần để trị thì bệnh ấy liền khỏi

Kim Cang Tạng Tùy Tâm Pháp Ấn Chú Ấn có mười một, Chú có bốn.

Kim Cang Tùy Tâm Thân Pháp Ấn Chú thứ bốn mươi mốt. Đan thứ hai mươi ba.

Dựng bàn tay phải, đem ba ngón từ ngón giữa trở xuống dựng thẳng kèm dính nhau, co lóng trên của ngón trỏ phụ dính lóng trên của ngón giữa, lại co ngón cái đè vạch lóng bên dưới của ngón giữa. Đưa ngón trỏ qua lại.

Chú là:

Úm chỉ lợi chỉ lợi bạt chiết la ma la gia kê lợi hệ la gia sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu muốn làm Đại Pháp thỉnh Tùy Tâm Kim cang. Trước tiên làm Ấn này kèm tụng Chú này, thỉnh ngồi cúng dường, liền được tất cả Kim Cang vui vẻ. Sau này dùng các Pháp thảy đều có nghiệm.

Kim Cang Tùy Tâm Trịch Quỷ Pháp Ấn thứ bốn mươi hai. Đan thứ hai mươi bốn, tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước.

Tay trái đem ngón vô danh với ngón cái vịn nhau, hướng lên trên ném bàn tay, liền thành Trịch Ấn.

Kim Cang Tùy Tâm Luân Pháp Ấn thứ bốn mươi ba. Đan thứ hai mươi năm, tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước.

Tay phải để lòng bàn tay bằng phẳng, hướng xuống dưới chà xát trên đầu người bệnh, liền thành Luân ấn.

Kim Cang Tùy Tâm Sóc Pháp Ấn thứ bốn mươi hai. Đan thứ hai mươi sáu, tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước.

Tay phải dựng thẳng ngón út, co ba ngón còn lại hướng về lòng bàn tay, đem ngón cái đè lên trên.

Kim Cang Tùy Tâm Hàng Ma Pháp Ấn thứ bốn mươi năm. Đan thứ hai mươi bảy, tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước.

Đem bàn tay phải đè lưng bàn tay trái, hướng ngón cái phải về bên dưới ngón út trái, hướng ngón cái trái về trên ngón út phải, trên dưới đều cài chéo nhau bốn pháp ấn này đều tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước, ắt hay hàng phục tất cả các ma, tất cả nhóm quỷ thần rất độc ác, cũng hay đập nát trăm ngàn vạn ức Đã Xoa, La Sát với quỷ hành bệnh kèm các ngoại đạo, nhóm Lao Độ Xoa thảy đều lui tan. Nếu người có bệnh, dùng Ấn làm pháp, tụng Chú ân vào người bệnh, liền sẽ trừ khỏi.

Kim Cang Tùy Tâm Phược Quỷ Pháp Ấn Chú thứ bốn mươi sáu. Đan thứ hai mươi tám.

Hai tay đem hai ngón phía sau. Ngón vô danh, ngón út hướng vào bên trong cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Dựng hai ngón giữa trụ đầu nhau, đem hai ngón trỏ bật ngay lưng ngón giữa, đầu ngón cùng che nhau, đem hai ngón cái phụ dính vạch lóng bên dưới của hai ngón giữa.

Chú là:

Úm bạt chiết la đãn địa đà la ni xa dạ đa thấp bế để hô lô hô lô mạn đát la bả đà sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu người có bệnh, nên dùng Ấn này, tụng Chú cột trói quỷ xong. Tiếp theo, lại Chú vào hạt cải trắng, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, như vậy thiêu đốt đủ một trăm lẻ tám biến thì tất cả quỷ thần thảy đều lui tan, không dám trụ lại, bệnh liền trừ khỏi.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần