Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Mười Một - Kim Cang Tạng Quyến Thuộc Pháp ấn Chú - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN MƯỜI MỘT

KIM CANG TẠNG

QUYẾN THUỘC PHÁP ẤN CHÚ  

TẬP MỘT  

Đan không có thứ hai.

Kim Cang Ma Ma Kê Pháp Ấn Chú thứ mười chín. Gọi là Kim Cang Mẫu. Đan thứ nhất.

Đem hai ngón vô danh, ngón út đều bên phải đè bên trái, co ngay trong lòng bàn tay, Kèm dựng thẳng hai ngón út trụ đầu nhau, kèm dựng hai ngón cái bằng nhau, đừng dính với ngón trỏ. Đưa ngón cái qua lại.

Chú là:

Úm cô lan đát lý bàn đà bàn đà sa ha.

Pháp Ấn Chú này tên là Kim Cang Mẫu Pháp. Nếu làm pháp Kim Cang, cho đến muốn làm pháp Kim Cang của hàng Quân Trà Lợi. Trước tiên thỉnh Mẫu an trí, cúng cường liền được tất cả Kim Cang vui vẻ, hành pháp có nghiệm.

Ma Ma Kê Pháp Tràng Ấn thứ hai mươi. Đan thứ hai, chẳng thấy Chú.

Hai tay đem ba ngón từ ngón giữa trở xuống, co ngay trong lòng bàn tay, dựng ngón trỏ trái hơi co lại, dựng lóng lớn của ngón trỏ phải sao cho đầu ngón lìa ngón cái khoảng hai Phân 2/3cm, kèm dựng hai ngón cái.

Ma Ma Kê Kích Ấn thứ hai mươi mốt. Đan thứ ba, chẳng thấy Chú.

Hai tay đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón út cài ngược nhau tại lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, co dựng hai ngón vô danh trụ đầu nhau, hướng hai ngón cái ra bên ngoài cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Hợp cổ tay.

Kim Cang Mẫu Sắt Đê Pháp Ấn Chú thứ hai mươi hai. Đan thứ bốn cũng gọi là Kim Cang Nhi Pháp, cũng gọi là Sứ Giả Pháp, cũng gọi là Ma Đế Na Pháp. Hai tay chung lưng, đem cổ tay phải đè cổ tay trái.

Đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh đều đè ngón cái làm Quyền, hai tay đều dồng với nhau, hai ngón út đều quấn thắt ngược nhau Chú là:

Na mô la đát na đá la dạ gia na mô thất chiên trà bạt chiết la ba nõa duệ ma ha dược xoa tê na ba đá duệ ma đê bạt chiết lợi bạt chiết lợi ni bạt chiết la lê tam ma la tam ma viêm tì ly tì ly chi ly chi ly chủ lỗ chủ lỗ gia tra gia tra na mô tô đô đê ma ha xã địa, a mục kiếm mê yết võng câu lô ha na ha na đà ha đà ha bát giả bát giả bạt chiết la đà lợi bạt chiết lý ni hổ lỗ hổ lỗ tất đà thất chiên trà bạt chiết la bàng ni la đát nhược ba dạ đề sa ha.

Pháp Ấn Chú này tên là Kim Cang Nhi Pháp.

Nếu có người hay ngày ngày tụng Chú này mãn mười vạn biến. Nên ở Đạo Tràng làm Thủy Đàn bốn khuỷu tay, Đàn ấy không có cửa. Ở chính giữa Đàn làm một tòa hoa an Mẫu Sắt Đê Kim Cang.

Muṣṭī vajra, để năm lọ nước: Bốn góc đều để một lọ, chính giữa một lọ. Trong miệng lọ ấy đều dùng lá Bách, cành Lê cắm vào, dùng ba xích 1m lụa sống buộc thắt lá Bách ấy. Chỉ đốt An Tất Hương, thắp mười chén đèn, mọi loại thức ăn uống để đầy mười mâm.

Bên ngoài mặt Tây của Đàn, như gần bên phía Nam an một lò lửa, mè, hoa lúa gạo hòa chung với nhau rồi thiêu đốt cúng dường. Thỉnh Mẫu Sắt Đê. Muṣṭī an trí ngồi xong, Chú Sư dùng tay nắm nhóm vật mè… tụng Chú một biến thì một lần ném vào lửa, như vậy đủ số một ngàn không trăm lẻ tám biến liền được linh nghiệm. Tất cả bệnh quỷ cũng đều trừ khỏi.

Như chẳng khỏi bệnh thì ba ngày làm pháp, đêm của ngày thứ ba cột buộc ba bó cỏ, trong bó cỏ ấy cắm nhiều nhựa Thông, cùng làm Đại Pháp, mọi loại Pháp xong. Đưa người bệnh ấy đến nơi rộng rãi, ngồi hướng mặt về phương Tây.

Chú Sư cầm cỏ để lấy lửa, gấp rút tụng Chú, tiếng Chú chẳng dứt, cầm lửa nhiễu quanh người bệnh ba vòng, khiến người bệnh ngẩng đầu lên nhìn Chú Sư.

Chú Sư dùng hai tay cầm lửa, mặt làm sắc giận dữ, chí tâm tụng Chú, dùng lửa cỏ quơ trên đầu người bệnh hun xông qua, sau đó lại tiếp tục cầm lửa đưa cho Chú Sư, Chú Sư cầm lấy y theo lúc trước nhiễu quanh, hun xông… hết ba loại cỏ xong thì bệnh ngay lúc đó, quyết định liền khỏi, cũng làm Hộ Thân.

Nếu là bệnh quỷ thần thì không có gì chẳng khỏi. Như chẳng khỏi tức là nghiệp báo vậy.

Kim Cang Thương Ca La Đại Tâm Pháp Ấn Chú thứ hai mươi ba. Đan thứ năm. Đây là Kim Cang Tạng Đại Nữ Pháp, Ấn có mười, Chú có bốn.

Hai tay đem ba ngón tay từ ngón giữa trở xuống, cài ngược nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái. Kèm dựng hai ngón cái phụ dính trên ngón giữa phải. Kèm co lóng giữa của hai ngón trỏ, đầu ngón cách nhau khoảng một phân 1/3cm chẳng chạm nhau, lại cách ngón cái khoảng một phân 1/3cm chẳng dính ngón trỏ.

Hợp cổ tay, đưa ngón cái qua lại Chú là:

Na mô la đát na đá la dạ gia na mô thất chiên trà bạt chiết la ba nõa duệ ma ha dược xoa tê na ba đá duệ na mô bạt chiết la thương ca la gia bạt chiết la ba ni tả ma đát lê đát tả, na vô tất cật lê đoả nhất đàm a tỳ xá nam bả la bạc xoa mị duệ na tì cần xoa a tì thất lý để bả la kì bà hề lý bạt chiết lê tỉ lý bạt chiết lê a na dạ bạt chiết lê tất bố tra gia bạt chiết lê na la xoa la xoa ma ma.

Tên của mình… a mô ca tả: Tên của người khác… tỉ điện đổ mạn đá la bả đà sa ha.

Pháp Ấn Chú này tên là Kim Cang Tạng Đại Nữ Tâm Pháp.

Nếu có người hay thọ trì. Có thể ở trước mặt Phật, ngày ngày đốt hương cúng dường, tụng Chú mãn mười vạn biến ẽ được mọi loại lợi ích, cũng hay trừ diệt tất cả các bệnh, thảy đều có nghiệm.

Lại Thương Ca La Tâm Pháp Chú thứ hai mươi bốn.

Đan thứ sáu, dùng Ấn lúc trước Chú là:

Úm bạt chiết la bạt chiết lợi nễ bà già bà để bả chiết la thương ca lễ hề bàn đà bàn đà tăng già trá gia bạt đa la la đế sa ha.

Một Pháp Chú này. Nếu người muốn làm pháp Thương Ca La Śaṃkhara với chữa bệnh, ngày ngày cúng dường, đốt An Tất Hương cũng để bánh, quả, mọi loại đầy mâm, đến đêm thắp đèn, ở trong Đạo Tràng liền làm thân ấn, cần phải chí tâm tụng Chú này mãn một trăm vạn biến thì Pháp ấy liền thành.

Về sau khi muốn dùng thì cử tâm làm Ấn, tụng Chú liền đến. Nếu chẳng khiến đi thì cuối cùng chẳng lìa đi. Nếu muốn Phát Khiển, nên tụng Chú này phát khiển, liền biết rất rất có nghiệm.

Thương Ca La Tiểu Tâm Pháp Ấn Chú thứ hai mươi năm. Đan thứ bảy.

Ngửa tay phải, co kín bốn ngón tay dính nhau, để ngón cái gần ngón trỏ, phụ nhau như chứa đầy nước chẳng chảy rỉ.

Chú là:

Úm chiết bạt la, thương ca lý ha na ha na bàn đà bàn đà cậtliễu hư nõa, cật liễu hư nõa hồng phán phán sa ha.

OṂ JVALA ŚAṂKHARE HANA HANA, BANDHA BANDHA, GṚHṆA GṚHṆA, HŪṂ PHAṬ PHAṬ SVĀHĀ.

Pháp Ấn Chú này. Nếu người bị bệnh quỷ, chẳng biết nơi đau ngứa tốt xấu. Dùng Ấn chứa đầy nước, tụng Chú bảy biến xong, rải đánh trên mặt với trái tim của người bệnh, chỉ nơi có đau nhức đều được trừ khỏi, người ấy liền được sống lại, tức bình phục như cũ, rất rất có nghiệm.

Thương Ca La Pháp Thân Ấn thứ hai mươi sáu. Đan thứ tám, tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước.

Hai tay cài ngược ngón giữa, ngón vô danh, ngón út… bên phải đè bên trái ngay trong lòng bàn tay. Kèm dựng hai ngón cái, lại co lóng giữa của hai ngón trỏ trụ đầu nhau đem đè đầu hai ngón cái, hợp cổ tay, đưa ngón cái qua lại.

Một Pháp Ấn này. Nếu người muốn làm pháp Thương Ca La, trước tiên làm Ấn này, tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước, dùng Ấn hộ thân, sau đó mới làm pháp khác thì không có sợ hãi, cũng được các nghiệm.

Thương Ca La Đầu Pháp Ấn thứ hai mươi bảy. Đan thứ chín. Từ đây dùng năm Ấn sau, đều tụng Đại Tâm Chú. Nếu Làm Đàn thời tụng Đại Chú sau, có nghiệm.

Dựa theo thân ấn lúc trước, bên trên chỉ sửa đầu hai ngón trỏ, bên phải đè bên trái, cạnh ngón tay dính trên ngón cái trái. Hợp cổ tay.

Một pháp ấn này. Nếu có người bệnh đau nhức đầu, làm pháp Ấn này ấn lên chỗ đau nhức ấy, luôn luôn tụng Chú, sau đó dùng cành Liễu đánh thì bệnh liền khỏi.

Thương Ca La Tỏa Pháp Ấn thứ hai mươi tám. Đan thứ mười.

Dựa theo thân ấn lúc trước, bên trên chỉ sửa: Đều co hai ngón trỏ, lưng móng tay dính nhau, tức dính nơi lưng hai ngón cái. Hợp cổ tay.

Một pháp ấn này. Nếu có người bị quỷ thần bám dính, làm pháp ấn này, tụng Chú, khóa cột tất cả quỷ thần thì bệnh ấy liền khỏi.

Thương Ca La Liệu Bệnh Pháp Ấn thứ hai mươi chín. Đan thứ mười một.

Dựa theo thân ấn lúc trước, bên trên chỉ sửa: Đều co hai ngón trỏ, lưng móng tay dính nhau. Lại kèm hai ngón cái đè ở trên cạnh hai ngón trỏ. Hợp cổ tay.

Một pháp ấn này. Nếu có người bị tất cả bệnh quỷ, liền làm Ấn này, tụng Chú chữa trị thì bệnh ấy liền khỏi.

Thương Ca La Phược Nhất Thiết quỷ Pháp Ấn thứ ba mươi. Đan thứ mười hai.

Dựa theo thân ấn lúc trước, bên trên chỉ sửa: Duỗi hai ngón giữa dính đầu nhau, kèm dựng hai ngón cái, đều co lóng giữa của hai trỏ trụ đầu nhau rồi đem đè trên đầu ngón cái. Hợp cổ tay.

Một pháp ấn này. Nếu có người bị đau tim, bụng… dùng pháp ấn này chí tâm cột buộc niệm, ấn vào chỗ đau nhức ấy, nhất tâm tụng Chú thì tất cả quỷ thần đều chết, bệnh được khỏi.

Thương Ca La Đại kết giới Pháp Ấn thứ ba mươi mốt. Đan thứ mười ba.

Dựa theo thân ấn lúc trước, bên trên chỉ sửa: Mở ngón trỏ, hơi co dựng như hình sừng bò.

Một pháp ấn này. Nếu làm Đàn cúng dường, chữa bệnh thì tay kết Ấn này, từ cửa Tây của Đàn lùi lại mà đi, liền dùng Ấn này ôm đầu gối trái, một bước nhiễu quanh Đàn, đến một góc tức xoay chuyển một vòng, bốn góc cũng như thế.

Tiếp theo, vào chính giữa Đàn, đem ngón trỏ trụ nhau làm Ấn ấn chính giữa Đàn, tụng Tiểu Tâm Chú bảy biến xong, sau đó làm pháp Quân Trà Lợi thì tất cả không có sợ hãi.

Thương Ca La Quyến Sách Pháp Ấn thứ ba mươi hai. Đan thứ mười bốn, tụng Tiểu Tâm Chú lúc trước.

Dựa theo kết giới Ấn lúc trước, bên trên chỉ sửa: Đều co hai ngón trỏ, đầu ngón đều nhập vào đáy gốc bên trong của ngón cái. Hợp cổ tay.

Kim Cang Thương Ca La Đại Chú thứ ba mươi ba.

Đan thứ mười năm Chú là:

Na mô la đát na đá la dạ gia na mô thất chiên trà bạt chiết la ba nõa duệ ma ha dược xoa tê na ba đá duệ na mô bạt chiết la thương ca la gia trì phán đa đá gia ma ha bà la gia tỳ địa gia la xà gia bà la thiệp bà lý đa ma ha ca lợi duệ tán đàn na đà ma ca lộ ma duệ nan địa kê thấp bà la thương câu tra yết lạt na bỉ lợi gia duệ tì lăng kì lợi trí ma nôtri nhã đá duệ đề bà na già dược xoa Càn thát bà a tố la già lộ la Khẩn na la ma hưu la già lê sư già na bố tự đa duệ a tỉ, mẫu đa la bạt chiết la, bà la thủ, ba xa hà tra báng già điệt lợi thủ la xa cát đê khư át già ba xa bà la du ha tất đa duệ bà diễn na già duệ điệt lý nễ đá la duệ già đốt ba đa la duệ già đốt đặng sắttra tra tra duệ ô lỗ đà kê sư duệ bà la thiệp bà lý đa nễ đa la duệ thi bà sa na bà tư nễ duệ ca bà la ha tất đà duệ bộ đa, bế lệ đa trà chỉ ni, tì lê dạ duệ dạ ma bà kì nễ duệ già ca na tạc lê nễ duệ kỳ la vu tha trì ca duệ la lô trì la bà sa nô lập đa già đát lợi duệ na la na lợi ba thủ ma ê xa bà sa tất si mạt sá chước ca lợi nõa ca bà la ha tất đà duệ tư dăng già tỳ gia yết địa bỉ ca ma lợi tạ lỗ lỗ ca bà hưu tì bỉ đà yết lợi đa bộ đa ba la ha tất đa tra ha bà na đà duệ ma đạt lợi già na bố tự đa duệ na ma tất đê ế hề ế hề bà già bà đế bạt chiết la báng nễ ma đê na bạt chiết la tả na ma đê na bạt chiết la thiết nễ ma đê na bạt chiết la ương câu thí ma đê na bạt chiết la báng ni ma đê na bạt chiết la thương ca la gia, tì tri gia ma đê na bạt chiết la thương ca la, tì tri gia la xà ma đê na đăng thí ma la tam ma diệm bà già bà đế tát đa đà cát lợi đảm bội sa lượng đát tha già đa Sa Di bối đề bà na già dược xoa Càn thát bà a tố la già lộ la Khẩn na la ma hưu la già tất đà tì tri gia đà la tam ma bà duệ đảm tam ma la hề đê na tát đê na đê na tam ma duệ na hề bà già bà đế già la xa già la xa già la xa yết tra yết tra yết tra ma tra ma tra ma tra phán phán phán bạt chiết la thương ca la gia sa ha tố bạt chiết la thương ca la gia sa ha ca lợi duệ sa ha ma ha ca lợi duệ sa ha ca lợi ca lợi ma ha ca lợi duệ sa ha ma lợi duệ sa ha ma ha ma lợi duệ sa ha ma lợi ma lợi ma ha ma lợi duệ sa ha ế hề ế hề bà già bà đế bạt chiết la thương ca lễ thí ca lam y đàm mị yết võng câu lỗ bạt chiết la thương ca la a tri nhã ba dạ để sa ha.

Đại Pháp Chú này, dùng năm Ấn lúc trước làm pháp thọ trì, liền được thành biện.

Nếu các Hành Giả trì giới, hay phát từ bi thương xót tất cả, rộng làm cứu giúp, có thể lập Đạo Tràng, ngày ngày tắm gội, mặc áo sạch mới, đối trước Phật Bồ Tát, bày thệ nguyện: Nguyện con cứu độ tất cả chúng sanh với hay nhổ trừ khổ não của thân mình.

Khải bạch xong, lại đốt An Tất Hương với để, hoa, nước, bánh, quả, đèn dầu, mọi loại cúng dường… dùng tâm chí thành, bảy ngày bảy đêm tụng Đại Chú này cùng với mỗi một thời làm năm Ấn lúc trước, luôn luôn sám hối.

Ngày đủ xong, về sau liền ghi biến số, số cần thiết là đầy đủ mười vạn biến, bấm xau chuỗi để ghi nhớ. Biến số đủ xong, sau đó chọn ngày làm Đàn thọ nhận Pháp. Thọ Pháp Đàn. Cúng dường làm pháp xong, về sau liền được mọi loại có nghiệm.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần