Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Tám - Thập Nhất Diện Quán Thế âm Thần Chú Kinh - Tập Mười Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN TÁM

THẬP NHẤT DIỆN

QUÁN THẾ ÂM THẦN CHÚ KINH  

TẬP MƯỜI BA  

Ngón cái đều trụ đầu nhau Chú là:

Úm thị nha nhĩ.

Tụng mười bốn biến.

Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát Giải Cấm Đao Pháp Ấn Chú thứ chín: Duỗi hai tay, tay trái ở bên ngoài, tay phải ở bên trong. Đem tay trái nâng lưng tay phải, dựng hai ngón cái.

Chú là:

Úm a sa mang nghĩa nễ sa ha.

Mã Đầu Liệu Bệnh Pháp Ấn Chú thứ mười: Hai tay cài ngược hai ngón phía sau. Ngón út, ngón vô danh trong lòng bàn tay, dựng hai ngón giữa trụ đầu nhau, kèm co hai ngón cái ngay phía trước, đều co hai ngón trỏ nắm gốc móng của hai ngón cái, lưng móng ngón trỏ dính nhau.

Chú là:

Úm cốt lỗ lô cưu lô đà na ô hồng phán sa ha.

Pháp Ấn Chú này nên dùng chữa trị tất cả các bệnh, với nơi khổ não của hàng quỷ thần thảy đều chữa trị, bệnh ấy liền khỏi Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Chú thứ mười một.

Chú là:

Na mô la đá na, đát la dạ da na mô a lê da bà lô chỉ đế nhiếp phiệt la gia bồ đề tát đỏa gia ma ha tát đỏa gia ma ha ca lô ni ca gia na ma tát bà tát đỏa tỳ gia sa na già để nhĩ na ma tát bà tát đỏa tỳ gia bà na bác ha lợi nê na ma tát bà tát đỏa bà du đá la na gia na mô tát bà tát đỏa bà gia bạt la xa ma na, ca la gia na ma tát bà tát đỏa tỳ gia địa, chỉ chỉ tha na, ca la gia na ma tát bà tát đỏa bàn đà na, sí đà na, ca la gia na mô tát bà tát đỏa độc khư, ba la mộc xoa nõa, ca la gia na mô tát bà tì tri án đà ca la, tỳ đà ma na, ca la gia na ma tát bà tì tri gia trì yết đà, mô uất đá duệ ma ha ca lô ni ca gia na mô tát bà tì tri gia la xà bạt la bỉ đá duệ ma ha du thị nhiếp phiệt la gia đá tả, na ma tất đề lợi đoả y đam, a lợi gia bà lô chỉ đế nhiếp phiệt la, mỗ khô tri cát nam Lê sư, tì tri gia đà la đệ bà, na già, dược xoa, la sát sa.

chiên đá la trí tri gia yết la ha, na xoa đá la thích yết la, bạt ha ma lộ ca bà la, tỳ sắt nữu ma ê nhiếp phiệt la, na la dã na thủy bà, tấtkiện đà, câu tỳ la tố lợi đá la, na đá lý già na, địa già na ma tất yết lý đam hà gia yết lý phạn, na ma, lê đá yếm ma bạt đái sam nhĩ tát bà yết ma, át tha sa đà đán a sa hề diêm tát bà bồ đà nan tì sA Nan xà.

nê ca đá đán tát bà đột sắt tra, na già nan, đàm ma kiếm Đá điệt tha úm đà lỗ la, đà lỗ la tì lỗ la, bỉ lỗ la tát bà bỉ sa già đá ca tát bà bộ đà tì đạt la bả ca thi bà lý đà tì tất phổ lăng già đá ha bà kê tát la điếm bà bạt la phiệt lợi đà tỳ già bạt chiết la củ la nật ca đá già xà lý đà bà tô đà đá la ni thi bà tất đà ha tất đà ma lô đô khư sáp đà đà la nhẫn đà la bạt la phạt lợi đà bộ đà ca na tam mộ ha tì sô bà ca la bát la bỉ tri gia tam bạc xoa na ca la gia bát la xa án trí ca la bộ tri gia, bộ tri gia bà già bạn, hà gia yết bà khư đà khư đà bạt la mạn đà la án la xoa la xoa đá ma mạn đá la án tử địa mê a bỉ xá, a bỉ xá bát la bỉ xá, bát la bỉ xá ma ma tả.

Tự xưng tên… thí cật ẩn đạt lê xá gia lỗ phạm a bỉ xá, a bỉ xá thi bà la tỳ xá già dược xoa, la sát sa, ca nõa tát đỏa tỳ hề dịch đán tát bà yết lê hề sắt bà a bạt la đề ha tỉ bả ma bạt la bạt chiết la, đặng sắt tra la khẩn giả la dạ tây y đảm, đột sắt tra yết la đát đột sắt tra, tỳ xá chiêm bà a độ na, a độ na tì độ na, tì độ na y man già, đột sắt tra tát bà tỳ tát bà lộ đá câu nõa tử ca la lý tì lê tất chỉ cam tì sam độ na độ na tì độ na, tì độ na ma tha ma tha ba la ma tha, ba la ma tha nật bà ha gia, nật bà ha gia a du bà mạn đá lễ na la ca tì sam muội điệt lý mạn điệt lễ na độ sa bỉ sam ba la nhã mạn điệt lễ na mưu ha bỉ sam bổ tri ca la đề la điểm mễ na kế lợi xá bạt na tì sam đạt ma nê la điểm nhĩ na thận nê gia bạt la nõa tì sam bồ đà, đạt ma, tăng già, thận nhã gia yết võng thí yết cật úm cú lỗ cú lỗ a gia yết lý bà gia, phất phất bạt chiết la củ la gia, phất tì na xa gia, phất bạt chiết la, đặng sắt tra la gia, phất bạt chiết la, đặng sắt tra lỗ tri ca tra phả gia bạt la bà gia, phất tát bà đột sắt tra mạn đá la, tì na xa gia, phất tát bà yết la hô, ô tha đà na gia, phất tát bà yết lê hề sáp bà, bạt đề a đổ bả ma gia, phất tát bà đá la, bát la địa hà đá yết ma gia, phất bát la tì tri gia, bạc xoa na gia, phất bà tra bà mục khư gia, phất tát bà yết la ha tỳ xá già mê bà xa ma na gia, phất gia phạn đồ, ma ma tả. Tự xưng tên gọi… a hi đái sắt nõa đảm đảm tát bà bả đảm bà tra bà mục khê na ni cật lân đà gia, phất đạt nhĩ, ca nhĩ, già mê, yết ma nễ thí cật lân, cú lỗ cú lỗ hồng hồng, phất phất sa ha.

Lại Mã Đầu Biệt Đại Chú thứ mười hai Chú là:

Na mô la đát na đá la dạ gia na mô a lê gia bà lô chỉ đế nhiếp phiệt la gia Bồ Đề tát đỏa gia ma ha tát đỏa gia ma ha ca lô ni ca gia na ma tát bà tát đỏa tỳ gia sa na, ca đế nễ na mô tát bà tát đỏa ba gia, mục xoa ca la gia na mô tì tri gia, a trì ca đà mô đà duệ ma ha du ca du chỉ ni đá tất mẫn, na ma tất yết lý đoả ế thệ, a lợi gia bà lô chỉ đế nhiếp phiệt la mưu hỗ tri chỉ lợi nam bạt chiết la cú la, bà yếm hà gia yết lý phạn, na ma ba la mạt đá yếm ma bạt đế sam nhĩ a bà diễn, tát bà bộ đá nan dược xoa nan xà tỳ na xá ca xà a mô can tát bà ca lê dạ nan tì xa nan xà ni bà la nan tì xa nan xà tỳ na xá nan đá điệt tha úm đà lỗ la, đà lỗ la tì lỗ la, tì lỗ la tát bà tì sa khư đá ca thời bà lý đà tì tất phổ lăng ca, đà ha sa kê sa la điếm bà bạt la phạt lợi đà tỳ ca bạt chiết la khuất la nật ca đà nam xà lý đà bà tô đà đá la ni thi bà tử đà, ha tử đà ma lô đô khư sáp đà ba la tỳ đà bồ đà già nõa tăng sô bàn na, ca la ba la tì tri gia, bạc xoa na ca la ba la ma xa án tri, ca la bộ tri gia, bộ tri gia Bà già phạm hà gia yết lý bà khả đà khả đà la mạn đà la án la xoa la xoa a tri ma mạn đà la án tử điện, mai, đà lê xá gia a bỉ xá, a bỉ xá cụ la tỳ xá xà tát bà ca lê hề sáp bà a ba la đề tỉ bả ma bà la, bạt chiết la, đặng sắt tra la khẩn chỉ la tùng dạ tây ế đàm đột sắt tra, yết la hán đột sắt tra tỳ xá xà án đột sắt tra lộ căng đột sắt tra thời bà lam đột sắt tra bỉ sản a độ na, a độ na tì độ na, tì độ na ma tha ma tha ba la ma tha, ba la ma tha đá tha già đà a chỉ nhượng bà la gia bồ đà, đạt ma, tăng già, nô tri nhã đàn yết ma mễ thí yết án cú lỗ cú lỗ hà gia yết lý bà gia, phất bạt chiết la khô la gia, phất bạt chiết la, đặng sắt tra la gia, phất bạt chiết la, đặng sắt tra lô trica tra, phả gia, bà di la ma dạ, phất ba la mạn đà la, na xá na gia, phất tát bà yết hô tha đà na, ca la gia, phất tát bà yết hề sắt bà, a bạt la đề hà đồ bà ma gia, phất ba la bỉ tri gia ba khứ sử na, ca la gia, phất tát bà bỉ sa, nật ca đà na gia, phất tát bà yết la ha tỳ xá xà, mễ, bà xa ma na gia, phất bà tra bà mục khư gia, phất gia bạn đồ, ma ma. Tự xưng tên gọi… a hề đệ sử na tất đả tát bỉnh bà tra bà mục khế ni yết lan tra gia phất phất.

83 na mô la đá na đát la dạ gia na mô a lê gia bà lô chỉ đế nhiếp phiệt la gia Bồ Đề tát đỏa gia ma ha tát đỏa gia ma ha ca lô ni ca gia a bỉ xá, a bỉ xá hà gia yết lý bộ, ô chỉ nhã ba dạ đề sa ha.

2 Chú này: Ba Đế Tra Tất Đà Ba Bạn Để. Pathiṭa siddhaḥ upacāraḥ: Đường nói là Tùy tụng thành nghiệm. Tuy chẳng thọ trì Đàn, cúng dường pháp, tùy tụng thành nghiệm.

Phược Tỳ Na Dạ Ca Chú thứ mười ba: Nếu làm pháp này. Trước tiên nên cột cấm Tỳ Na Dạ Ca. Vināyaka.

Y theo pháp Quy Mạng ở đầu của Đại Chú lúc trước: Quy mạng, lễ bái, liền tụng Phược Chú Chú là:

Đát điệt tha chủ lỗ, chủ lỗ tỳ chủ lỗ, tỳ chủ lỗ già đá gia sa ma ha bà la tát bà tỳ tri na, tỳ na dạ càn bá tra bà mô khô tri bộ đá gia, phất.

pháp ấy nên đối trước tượng Mã Đầu lấy gỗ cây Đậu Khấu chặt dài tám ngón tay rồi đốt cháy. Lấy An Tất hương làm tám trăm viên. Cứ một lần chú vào một viên thì một lần ném vào trong lửa thiêu đốt, cho đến khi hết hương thì Tỳ Na Dạ Ca liền tự bị cột trói.

Lại một Chú pháp thứ mười hai: Y theo lúc trước, quy mạng, lễ bái Chú là:

Đá điệt tha Bột địa, bột địa tố bột địa nhân đạt lê bột địa ma mê du ca lam bà la mưu giả đô sa ha.

pháp này. Nếu người, ban đêm vướng lỗi chẳng trong sạch. Bất tịnh. Lấy chỉ trắng, trước tiên Chú vào tám trăm biến, sau đó làm sợi dây Chú. Chú sách. Cứ một lần Chú thì kết gút một lần, làm hai mươi mốt gút liền dùng cột buộc nơi eo lưng thì chẳng bị rỉ mất.

Lại một Chú pháp thứ mười ba: Y theo lúc trước, quy mạng, lễ bái Chú là:

Đá điệt tha ha lý, ha lý vô ha lê cú ha lê tát bà đột sắt đam chiêm ba dạ nhĩ dạ bạt kiệt lan địa na văn xã nhĩ sa ha.

pháp ấy dùng Chú vào góc áo cà sa. Kaṣaya bảy biến xong kết làm một gút, một lần kết liền được pháp Hộ Thân thành tựu xong.

Phát Khiển Mã Đầu Quán Thế Âm Ấn Chú thứ mười bốn: Y theo lúc trước, quy mạng, lễ bái, Phát Khiển Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát Chú là:

Đá điệt tha tát la, ba la tát la xã gia, tỳ xã gia bạt chiết la cú la tam bà bá sa bạt na ca xa, mục đổ tử sa ha.

Pháp ấy. Lấy hoa Tố La Tỳ Bố Sắt Ba.

Surabhi puṣpa đây là: Bách Hoa. Hoa cây Bách thuộc giống cây Thông Chú vào một biến xong thì một lần thì đánh lên Tượng, như vậy bảy lần thì Mã Đầu Bồ Tát liền quay về vậy pháp vẽ làm Tượng.

Lấy cái bình sành sứ mới, rồi nhuộm làm màu xanh. Ở trên ấy vẽ làm tượng Mã Đầu Quán Thế Âm. Thân tượng ấy cao một gang tay của Như Lai. Bằng một khuỷu tay của con người, vẽ làm bốn khuôn mặt vui vẻ.

Một mặt bên trái vẽ màu đen, tròng mắt màu xanh lục, ló nanh chó lên trên.

Một mặt bên phải vẽ làm màu đỏ, gọi là Khiết Chú Diện.

Mặt chính giữa làm mặt Bồ Tát rất đoan chánh, vẽ làm màu trắng.

Trên hư không cách lìa đầu tượng, vẽ làm khuôn mặt màu xanh, miệng phun ra viên ngọc báu.

Trên bốn cái đầu ấy đều đội mão báu, trên mão báu ấy đều có Hóa Phật. Nirmāṇa buddha ngồi.

Bồ Tát: Tay trái cầm hoa sen, co khuỷu tay hướng lên trên để nắm tay ngay trước bắp tay. Tay phải rũ xuống duỗi năm ngón là tay Thí Vô Úy, trên hai cổ tay đều làm vòng xuyến báu.

Dưới cổ Tượng ấy, đeo chuỗi Anh Lạc báu. Thân phần trang nghiêm như nơi khác đã nói về pháp trang nghiêm thân Quán Thế Âm. Tượng đó đứng trên hoa sen báu.

Làm Tượng này xong. Từ ngày mười của kỳ Bạch Nguyệt mười năm ngày đầu của tháng bắt đầu ăn Đại Mạch, cháo sữa. Sau đó vào ngày mười ba, mười bốn, mười năm, ba ngày ba đêm dứt hết chẳng ăn.

Lấy hương Sa Ca Tỷ Già và hoa Càn Đa Na Cú Lợi rồi chú vào hai thứ này, một lần đọc chú một lần ném trên khuôn mặt ngay phía trước, cho đến tám ngàn lần. Trong miệng của mặt ấy phóng ra ánh sáng, ánh sáng ấy nhiễu quanh thân Chú Sư rồi quay lại nhập vào miệng tượng.

Ở trong cái miệng ấy tuôn ra viên ngọc Như Ý. Liền nên nhận lấy, lấy viên ngọc này xong, liền được sống lâu đến mười bốn tuổi, được bảy báu của Chuyển Luân Thánh Vương, sau khi chết được sinh về cõi nước An Lạc. Sukha vatì từ bên dưới bàn chân của Đức Quán Thế Âm mà sanh ra.

Lại có một pháp: Nên đi xin thức ăn. Ăn đại mạch, cháo sữa rồi tụng bảy vạn biến.

Vạn biến thứ nhất thì Tỳ Na Dạ Ca liền bị cột trói.

Vạn biến thứ hai thì thành tựu Chú pháp.

Vạn biến thứ ba, liền được thành tựu pháp thuốc An Thiện Na, Ma Na Xí La. Ba ngày ba đêm chẳng được ăn mà chỉ làm pháp. Tay cầm thuốc ấy, ngay lúc Chú vào thuốc thì trong thuốc ấy hiện ra ba loại tướng liền biết thuốc thành.

Nói ba tướng là: Hơi ấm, khói, lửa…liền được thành tựu An Đà La Đà Na, nhảy lên hư không mà đi, liền được thành tựu Trì Chú Tiên Nhân, tự tại được vào hang A tu la.

Vạn biến thứ tư, sẽ cách lìa mặt đất bốn ngón tay mà đi tự tại.

Vạn biến thứ năm, liền được tùy ý nhảy lên hư không mà đi.

Vạn biến thứ sáu, liền được sống đến ngàn tuổi. Chú Sư thành tựu Chú Tiên, tùy theo điều đã nhận làm đều thành tất cả ai được hô hoán. Kêu gọi, thỉnh triệu đều đi đến.

Vạn biến thứ bảy thì tóc trên đầu của Chú Sư sẽ biến làm thành tựu tóc xoắn ốc. Tùy theo chỗ cần, ứng niệm liền đến, gần gũi thừa sự Đức Quán Thế Âm, liền biết tất cả chúng sinh trong ba đời chết nơi này sinh nơi kia như thế nào, liền được thành tựu.

Lại có pháp: Muốn đánh Tây Nhã Giả. Tejāya: Uy quang đẳng. Ở trước tượng Mã Đầu, nhịn ăn ba ngày ba đêm, mài hương trên Đàn, đem mọi thứ hương hoa, thức ăn uống, cháo sữa, quả trái … trong sạch, mọi thứ cúng dường. Quết giã hương Sa Xà La Sa, dùng Bạch Mật hòa làm tám ngàn viên, rồi Chú vào hương một biến xong thì ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy cho đến khi hết hương thì Chúng Tây Nhã. Teja ấy tìm thấy.

Tức, lúc đầu nhìn thấy biến làm cái đầu quạ thì khinh chê, liền chuyển làm cái đầu của Hà Gia Yết Lý Bà. Chú Sư đột ngột dâng lên, hướng về chúng ấy thì tất cả Chúng Tây Nhạ Giả thảy đều tan diệt.

Lại có pháp: Trước tiên dùng Đại mạch cho con bò ăn. Ngưu khiết xong. Lấy lúa mạch trong phân rửa sạch, sấy khô quết giã rồi chưng nấu làm cháo sữa. Từ ngày một của kỳ Bạch Nguyệt, ăn cháo sữa này cho đến ngày mười ba thì chấm dứt chẳng ăn.

Ở trước tượng Mã Đầu dùng hương bột xoa tô mặt đất, rải mọi thứ hoa, thiêu đốt các hương tốt, đem mọi thức ăn uống cúng dường xong rồi, lấy hương Ca Tỷ Xà quết giã làm thành hạt bụi nhỏ, hòa với nước làm thành tám ngàn viên. Lấy gỗ cây Ca Tha La làm củi nhóm lửa, lấy một viên hương.

Hương hoàn, một lần Chú thì một lần ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy cho hết tám ngàn viên thì than ấy biến thành vàng Tô Bạt Na.

Suvarṇa: Vàng ròng, nặng đến trăm ngàn lượng.

Lại có pháp: Nếu muốn Khiết Tha Chú. Tức phá diệt Chú của ngoại đạo. Lấy chút máu trong thân của mình hòa với hạt cải trắng làm thành tám ngàn viên. Vào ngày mười bốn của kỳ Hắc nguyệt mười năm ngày cuối của tháng nhịn ăn một ngày, lấy gỗ Khư Đà La đem nhóm lửa trong lò. Lấy viên hạt cải trắng lúc trước, một lần chú vào một viên thì ném vào trong lửa thiêu đốt.

Như vậy cho đến hết viên hạt cải, thì tất cả các Chú thảy đều khiết. Phá diệt được hết. Khiết là ngôn ngữ của nước ngoài, tức đồng với lời dạy phá diệt của Đại Đường. Tha là ngoại đạo vậy.

Lại có pháp: Chỉ tụng Chú, đi đến ở nơi khoáng dã. Đồng trống vắng vẻ với các bãi sa mạc thì thức ăn uống cần có, tự nhiên đến.

Lại có pháp: Vào lúc Nhật Nguyệt Thực lấy một lượng Ngưu Tô sạch đựng đầy trong bình bát sành sứ mới. Liền cầm cái bát này ngửa nhìn mặt trời, mặt trăng rồi chú vào bơ. Tô trong bát cho đến khi bơ nóng lên, hoặc hiện ra tướng khói tướng lửa.

Ngay lúc đó liền uống thuốc này. Uống bơ này xong thì tùy muốn đến nơi nào chỉ khởi ý thì đến đó ngay. Nếu thường tụng Chú này thì ở tất cả nơi đáng sợ đều không có sợ hãi. Hết thảy chướng nạn thảy đều được giải thoát.

Lại có pháp: Nếu bị trúng nhọt Lộ Đà. Người bị nhọt này thảy đều bị chết với bị các loài rắn độc cắn. Người nhìn thấy con rắn này liền bị chết hoặc bị trúng nhọt Kiện Tỳ Tra Kê. Khi bị các loại nhọt này thì chú vào đất bùn màu vàng đủ một ngàn biến rồi xoa lên trên nhọt ấy, liền được trừ khỏi. Tất cả tâm niệm sợ hãi liền được trừ bỏ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần