Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba Mươi Tám - Pháp Hội đại Thừa Phương Tiện - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan
Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ BA MƯƠI TÁM
PHÁP HỘI ĐẠI THỪA PHƯƠNG TIỆN
PHẦN BỐN
Này Đức Tăng! Đại Bồ Tát không có tất cả chướng ngại nghiệp báo. Do vì có chúng sanh chê bai các Sa Môn, Bà La Môn trì giới mà phải ưu não chẳng được giải thoát chẳng đắc đạo quả, muốn trừ lòng ưu não của họ nên Bồ Tát thị hiện thọ nghiệp báo như vậy.
Chúng sanh thấy rồi họ sẽ nghĩ rằng: Bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát phỉ báng Phật Ca Diếp mà còn được giải thoát đắc quả, huống là ta chẳng biết mà nói ác ngôn, nay ta nên tự hối quá chẳng còn tạo ác nghiệp nữa.
Này Đức Tăng! Lại vì hàng phục ngoại đạo mà Bồ Tát khổ hạnh sáu năm chớ chẳng phải nghiệp báo chướng ngại.
Tại sao?
Vì ở thế gian có các Sa Môn, Bà La Môn mỗi ngày họ ăn một hột mè một hột gạo, họ tự cho được thanh tịnh giải thoát. Vì điều phục họ mà Bồ Tát thị hiện mỗi ngày ăn một hột mè một hột gạo. Nếu Bồ Tát ăn vật thực thô sơ còn chẳng thể được Thánh Đạo huống là thanh tịnh giải thoát.
Vì thế nên Bồ Tát nói tôi chẳng muốn thấy đạo nhân đầu trọc, đâu có người trọc mà có thể được Bồ Đề, đạo Bồ Đề rất sâu khó được.
Do duyên cớ này mà Bồ Tát hiện sáu năm khổ hạnh để điều phục năm mươi hai trăm ngàn thô hạnh Chư Thiên và ngoại đạo Thần Tiên các thô hạnh Bồ Tát. Đây gọi là Đại Bồ Tát hành phương tiện.
Này Đức Tăng! Do duyên cớ gì là Bồ Tát sau khi ăn món thượng diệu rồi khí lực sung túc đến cây Bồ Đề mà chẳng để thân gầy ốm đến cây Bồ Đề?
Này Đức Tăng! Bồ Tát có thể chẳng ăn uống thân thể gầy ốm mà thành vô thượng bồ đề huống là có ăn mè ăn gạo. Lúc ấy vì thương các chúng sanh vị lai mà Bồ Tát ăn món thượng diệu ấy.
Tại sao?
Vì các chúng sanh thiện căn chưa thục muốn cầu đạo, các chúng sanh ấy nếu chẳng ăn uống bị khổ đói khát chẳng thể được trí huệ, nếu an lạc hạnh thì được trí huệ chiếu rõ các pháp chớ chẳng phải khổ hạnh.
Vì thế nên Bồ Tát khai thị cho chúng sanh hành an lạc hạnh mà được trí huệ, cũng vì thương chúng sanh vị lai muốn khiến chúng sanh bắt chước ta ăn món thượng diệu ấy, do các cớ ấy mà Bồ Tát hiện ăn món thượng diệu của nàng Tu Xá Khư rồi thành tựu ba mươi bảy pháp trợ Bồ Đề được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cô gái thí thực cũng thành tựu pháp trợ Bồ Đề. Lại nên biết Bồ Tát ở trong một thiền định sanh tâm hoan hỉ suốt trăm ngàn kiếp chẳng ăn uống vẫn có thể an trụ. Đây gọi là Đại Bồ Tát hành phương tiện.
Này Đức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát xin cỏ nơi Cát An Thiên Tử trải chỗ ngồi?
Vì Chư Phật quá khứ trải tòa giải thoát chẳng dùng vật tốt lụa là và cũng vì muốn Cát An Thiên Tử thành tựu pháp trợ Bồ Đề. Lúc Cát An trao cỏ cho Bồ Tát rồi phát tâm vô thượng bồ đề.
Này Đức Tăng! Nay ta thọ ký cho Cát An Thiên Tử ấy ở đời vị lai sẽ được thành Phật Hiệu Vô Cấu Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Đây gọi là Đại Bồ Tát hành phương tiện.
Này Đức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát ngồi dưới cây Bồ Đề khiến ác ma Ba Tuần đến chẳng muốn Bồ Tát liền thành vô thượng bồ đề?
Này Đức Tăng! Ma vốn chẳng thể tự đến dưới cây Bồ Đề nếu Bồ Tát chẳng vời.
Lúc ấy Bồ Tát ngồi dưới cây Bồ Đề suy nghĩ như vậy: Trong tứ thiên hạ ai tối tôn đệ nhất, tứ thiên hạ này hiện nay thuộc về ai?
Bồ Tát liền biết ác ma Ba Tuần là tối tôn trong Dục Giới, nay ta đấu với ma, nếu ma chẳng bằng ta thì tất cả chúng sanh trong Dục Giới đều chẳng bằng. Bấy giờ sẽ có Chư Thiên đại chúng hòa hiệp đến dưới cây Bồ Đề, họ đến rồi sẽ ắt sanh lòng tin.
Ma chúng, Thiên chúng, chư Long, Quỷ Thần, Càn thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, tất cả đại chúng như vậy đến nhiễu cây Bồ Đề thấy Bồ Tát sư tử du hỉ hoặc phát tâm vô thượng bồ đề, hoặc phát tâm Thanh Văn Duyên Giác, hoặc sanh tín tâm, nhẫn đến thấy Bồ Tát, do nhân duyên này thảy đều được giải thoát.
Này Đức Tăng! Suy nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát phóng my gian bạch hào tướng quang làm cho cung điện Ba Tuần tối đen. Bấy giờ do quang minh bạch hào chiếu khắp nên cả tam thiên đại Thế Giới đều rất sáng.
Trong quang minh ấy phát thanh như vậy: Con trai dòng Thích Ca ấy xuất gia học đạo nay sẽ thành vô thượng bồ đề quá cảnh giới ma, thắng chúng ma, giảm tổn tất cả ma chúng đương lai, nay Bồ Tát ấy chiến dấu với ma.
Nghe âm thanh này Ba Tuần rất ưu sầu như tên bắn vào tim. Ma Ba Tuần nghiêm bị tứ chủng binh chật ba mươi sáu do tuần đến bao cây Bồ Đề muốn hại Bồ Tát.
Bấy giờ Bồ Tát trụ đại từ bi đại trí huệ, dùng tay kim sắc báo thân của trí huệ chỉ xuống đất, tất cả ma chúng liền tan rã, tám vạn bốn ngàn ức Chư Thiên, Long, Quỷ Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Cưu Bàn Trà thấy Bồ Tát oai đức thân thể đẹp lạ dung nhan đoan nghiêm oai lực dũng kiện đều phát tâm vô thượng bồ đề. Đây gọi là Đại Bồ Tát hành phương tiện.
Này Đức Tăng! Do duyên cớ gì mà Như Lai trong bảy ngày bày đêm chẳng xả kiết già ngồi xem cây Bồ Đề mắt chẳng nháy?
Này Đức Tăng! Lúc ấy có Chư Thiên Sắc giới tu hạnh tịch diệt.
Chư Thiên này thấy Như Lai ngồi kiết già, họ sanh lòng hoan hỉ và nghĩ rằng: Nay chúng ta tìm coi tâm của Sa Môn Cù Đàm y cứ nơi đâu. Suốt bảy ngày bảy đêm Chư Thiên ấy tìm xem mà chẳng tìm được chỗ y cứ của một tâm niệm của Đức Như Lai.
Chư Thiên ấy càng vui đẹp hơn, có ba vạn hai ngàn Thiên Tử phát tâm vô thượng bồ đề nguyện rằng: Đời vị lai chúng tôi cũng sẽ được hạnh tịch diệt nhìn cây Bồ Đề như vậy. Vì thế nên khi thành Phật Đạo rồi Đức Như Lai suốt bảy ngày bảy đêm ngồi kiết già nhìn cây Bồ Đề mắt chẳng nháy. Ấy gọi là phương tiện của Như Lai.
Này Đức Tăng! Lúc hành Bồ Tát đạo trong vô lượng A tăng kỳ kiếp nguyện ban vui giải thoát cho tất cả chúng sanh, mà do duyên cớ gì sau khi thành Phật Đạo chờ Phạm Vương thỉnh rồi Đức Như Lai mới thuyết pháp?
Này Đức Tăng! Đức Như Lai biết có số đông Chư Thiên quy y và tôn trọng Phạm Vương, họ nhận rằng Phạm Thiên Vương hóa sanh chúng ta, là tối tôn trong Thế Giới, ngoài Phạm Thiên Vương không ai có thể tạo được Thế Giới.
Vì muốn Chư Thiên chúng sanh lòng chánh tín nên Đức Như Lai chờ Phạm, Thiên Vương đến thỉnh thuyết pháp. Một khi Phạm Vương cúi đầu thì Chư Thiên đã quy y Phạm Vương đều quy y Phật.
Này Đức Tăng! Như Lai có đại oai đức nên Phạm Vương đến chỗ Phật thỉnh chuyển pháp luân.
Này Đức Tăng! Nếu Như Lai không dùng thần lực thì Phạm Thiên Vương ấy không hề có tâm thỉnh Phật chuyển pháp luân được. Do vì có các chúng sanh qui y Phạm Vương, Đức Như Lai muốn các chúng sanh ấy rời Phạm Vương nên chờ Phạm Vương đến khuyến thỉnh thuyết pháp để lấy Phạm Vương chứng minh vậy.
Này Đức Tăng! Lúc Phạm Thiên Vương thỉnh Phật chuyển pháp luân, có sáu mươi tám trăm ngàn Phạm Thiên phát tâm vô thượng bồ đề nói rằng: Đây thiệt là Phật ở trong chúng sanh là tối tôn tối thắng, nguyện tôi đời sau được trí huệ oai đức như vậy. Đây gọi là Như Lai phương tiện.
Này Đức Tăng! Trước kia ta thuyết pháp thị hiện chúng sanh mười nghiệp đạo nhân duyên, hoặc là Bồ Tát, hoặc là Như Lai, trong mười nghiệp ấy thị hiện phương tiện chỉ có hang trí giả mới biết nghĩa ấy.
Này Đức Tăng! Ông chớ nên quan niệm Bồ Tát còn có tội nghiệp vi tế. Nếu Bồ Tát còn có pháp bất thiện vi tế thì không bao giờ có sự ngồi Đạo Tràng thành vô thượng bồ đề.
Tại sao?
Vì Như Lai thành tựu tất cả thiện pháp dứt tất cả pháp bất thiện, không có tập khí nghiệp báo sanh tử, không bao giờ còn có sót thừa chẳng dứt diệt, huống là có nghiệp báo chướng ngại.
Này Đức Tăng! Nếu có các chúng sanh cho rằng không nghiệp báo, họ chẳng tin nghiệp báo, thì vì chúng sanh ấy mà Như Lai thị hiện nhân duyên nghiệp báo. Như Lai thiệt không có nghiệp báo.
Ta là pháp Vương còn thọ nghiệp báo huống là các chúng sanh khác mà chẳng thọ. Vì chúng sanh ấy mà thị hiện như vậy. Thế nên Đức Như Lai tự hiện nghiệp duyên.
Này Đức Tăng! Như Lai không có tất cả nghiếp chướng. Ví như thơ sư học giỏi thơ luận dạy các ấu đồng tùy theo các ấu đồng mà khen các thơ chương, chẳng phải thơ sư ấy có chướng ngại nơi các thơ chương.
Thơ sư ấy nghĩ rằng các ấu đồng đây theo học với tôi, tôi nên xướng như vậy cho chúng nó học theo. Thơ sư ấy chẳng phải vì chẳng thông đạt mà xướng như vậy.
Này Đức Tăng! Cũng vậy, Đức Như Lai học giỏi nơi tất cả pháp rồi nói như vậy thị hiện như vậy để khiến các chúng sanh hành nghiệp thanh tịnh vậy.
Này Đức Tăng! Ví như đại y giỏi trị lành được tất cả các bệnh, tự mình không bệnh mà ở trước bệnh nhân tự uống thuốc đắng, các bệnh nhân thấy vậy bắt chước uống thuốc đều được lành bệnh.
Này Đức Tăng! Cũng vậy, Đức Như Lai tự trừ tất cả bệnh phiền não rồi, với tất cả pháp không có chướng ngại hay thị hiện tất cả pháp, do nghiệp bất thiện như vậy mắc báo như vậy, hiện nhân duyên như vậy để khiến chúng sanh trừ bỏ thân khẩu ý nghiệp chướng mà tu hành tịnh hạnh.
Này Đức Tăng! Ví như con trai nhỏ của Trưởng Giả hay Cư Sĩ, cha mẹ thương yêu giao nó cho nhũ mẫu, bấy giờ nhũ mẫu không có bệnh mà vì đứa trẻ nên tự uống thuốc đắng để cho sữa được tốt.
Này Đức Tăng! Cũng vậy, Đức Như Lai là cha lành của tất cả Thế Giới tự mình không bệnh mà vì chúng sanh thị hiện có bệnh. Đức Như Lai vì giáo hóa các chúng sanh chẳng biết nghiệp báo nên thị hiện do nghiệp như vậy nên mắc báo như vậy. Chúng sanh nghe biết rồi lòng họ kinh sợ trừ bỏ ác nghiệp chẳng làm ác duyên.
Bấy giờ Đức Phật lại bảo Trí Thắng Bồ Tát: Này Trí Thắng! Thuở quá khứ thời kỳ ta gặp Phật Nhiên Đăng xuất thế có năm trăm khách buôn vì tìm châu báo mà vào biển lớn.
Trong bọn có một ác nhân nhiều gian ngụy thường làm ác nghiệp không hề ăn năn. Người ấy giỏi võ hằng làm giặc cướp, nay giả làm khách buôn cùng đi chung một thuyền. Lúc được nhiều châu báu trở về, người ác này muốn giết tất cả năm trăm khách buôn trên thuyền để cướp tất cả châu báu làm của riêng mình.
Bấy giờ hướng Đạo Sư trong đoàn khách buôn tên Đại Bi chiêm bao thấy hải thần đến mách rằng: Trong đoàn của ông có tên ấy là ác nhân hằng làm giặc cướp đoạt của người, nay nó sanh ác tâm muốn giết cả năm trăm người để lấy trọn châu báu. Nếu để nó giết cả năm trăm người này thì nó gây thành nghiệp đại nghịch.
Tại sao?
Vì năm trăm người này là Bồ Tát Bất Thối Chuyển hướng vô thượng bồ đề, nếu ác nhân ấy giết họ mắc tội đại nghịch thì trong thời gian mỗi người này từ sơ phát tâm đến thành Phật, ác nhân ấy phải thường ở tại địa ngục.
Ông là Đạo Sư phải có phương tiện gì khiến ác nhân ấy chẳng phạm tội đọa địa ngục, mà năm trăm Bồ Tát này cũng được toàn thân mạng.
Sau khi được hải thần mách, Đạo Sư Đại Bi suy nghĩ ta phải dùng phương tiện gì làm cho ác nhân ấy khỏi đọa địa ngục mà năm trăm khách buôn cũng được toàn thân mạng?
Suy nghĩ như vậy rồi, Đạo Sư giữ kín không nói sự ấy với một ai. Bấy giờ thuyền chờ gió bảy ngày sau sẽ trở về Diêm Phù Đề.
Bảy ngày đã qua, Đạo Sư tự nghĩ không còn có phương tiện nào khác ngoài việc phải trừ tên ác nhân ấy mới cứu thoát đoàn khách buôn năm trăm người này.
Nếu ta nói sự này cho người khác biết thì năm trăm khách buôn này sẽ sanh ác tâm giết tên ác nhân ấy và họ sẽ phải đọa ác đạo.
Nay ta nên tự mình giết ác nhân ấy, dầu do cớ giết này mà ta phải đọa địa ngục chịu khổ ta có thể nhẫn thọ được, chớ nên để ác nhân ấy gây nghiệp đại nghịch hại năm trăm Bồ Tát mà nó phải đọa địa ngục mãi mãi chịu khổ.
Này Trí Thắng! Khi suy nghĩ như vậy rồi, Đạo Sư Đại Bi sanh lòng thương xót rằng: Tôi hộ mạng năm trăm người và cam chịu khổ địa ngục thế cho ác nhân mà hại tên ác nhân ấy. Đạo Sư liền cầm mâu nhọn đâm chết ác nhân khiến đoàn khách buôn yên ổn về đến Diêm Phù Đề.
Này Trí Thắng! Ông chớ có nghi! Thuở ấy, Đạo Sư Đại Bi chinh là thân ta, năm trăm khách buôn là năm trăm Bồ Tát tại hiền kiếp này và sẽ thành Phật cũng tại kiếp này.
Này Trí Thắng! Thuở ấy vì ta hành đại bi phương tiện nên được siêu việt trăm ngàn kiếp nạn sanh tử. Còn ác nhân ấy sau khi chết sanh lên Cõi Trời.
Này Trí Thắng! Ông nên biết chớ có quan niệm Bồ Tát có nghiệp báo chướng ngại như vậy mà được siêu việt trăm ngàn kiếp nạn sanh tử. Sự việc thuở ấy chính là sức phương tiện của Bồ Tát.
Này Trí Thắng! Ngày trước trong thành Xá Vệ có hai mươi người đều là bậc tối hậu thân. Hai mươi người này lại có hai mươi kẻ thù đều nghĩ rằng: Tôi sẽ làm thân hữu đến nhà nó để thừa dịp giết nó chẳng cho ai biết. Do thần lực của Phật, cả bốn mươi người đều đến chỗ Phật.
Vì muốn điều phục bốn mươi người ấy, nên Đức Phật ở giữa dại chúng bảo Tôn Giả Mục Kiền Liên rằng: Này Đại Mục Kiền Liên! Nay trong chỗ đất này có cây giáo vàng muốn đâm vào chân hữu của ta. Cây giáo vàng liền từ dất trồi lên độ một cánh tay.
Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi sẽ lấy cây giáo này ném nó qua Thế Giới phương khác.
Đức Phật phán: Này Đại Mục Kiền Liên chẳng phải khả năng của ông. Nay cây giáo này còn cắm trong đất sức ông không nhổ lên được. Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên dủng đại thần lực đến nhổ cây giáo ấy, cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều đại chấn động mà chẳng lay động được cây giáo ấy.
Bấy giờ Đức Như Lai dùng sức thần thông thăng lên Trời Tứ Thiên Vương, cây giáo vàng ấy cũng bay theo Phật.
Đức Phật thăng lên Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại nhẫn đến Trời Phạm Thiên, cây giáo vàng ấy cũng vẫn bay theo Phật.
Đức Phật lại từ Phạm thiên trở xuống Diêm Phù Đề trong thành Xá Vệ nơi chỗ ngồi trước, cây giáo ấy cũng trờ về chỗ đất cũ dựng đứng hướng mũi về phía Phật.
Đức Phật dùng tay mặt nắm lấy cây giáo, tay trái đặt trên đất rồi lấy chân mặt đạp lên mũi giáo.
Cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều đại chấn động.
Tôn Giả A Nan đứng dậy trịch y vai hữu tác lễ mà bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thuở xưa Đức Như Lai tạo nghiệp gì mà nay thọ báo này?
Đức Phật phán: Này A Nan! Vì đời quá khứ trong lúc đi thuyền vào biển ta cầm mâu đâm chết người. Do nghiệp duyên ấy mà bị báo này.
Thuật đến đây Đức Phật bảo Trí Thắng Bồ Tát:
Lúc ta nói nghiệp báo nhân duyên như vậy, hai mươi người thù ác kia tự nghĩ rằng: Đức Như Lai Pháp Vương còn mắc báo ác nghiệp như vậy huống là ta mà chẳng thọ ác báo!
Hai mươi người này liền đảnh lễ Phật mà bạch rằng: Nay chúng tôi hướng Phật hối quá chẳng dám che giấu.
Bạch Đức Thế Tôn! Tôi trước có ác tâm giết hại người ấy nay tôi lại hối quá chẳng dám che giấu.
Này Trí Thắng! Lúc ấy dức Phật vì hai mươi người đó mà nói tác nghiệp duyên và tận nghiệp duyên. Nghe pháp xong, hai mươi người đó được chánh giải và trong đại chúng lúc ấy cũng có bốn vạn người được chánh giải. Vì có sự ấy mà Như Lai thị hiện cây giáo vàng đâm vào chân hữu. Đây gọi là Như Lai phương tiện vậy.
Này Trí Thắng! Do duyên cớ gì mà Như Lai vốn không bệnh lại cầu hoa sen xanh nơi thần y Kỳ Vức để ngửi để xổ?
Lúc ấy Đức Như Lai chế giới giải thoát chưa bao lâu có năm trăm Tỳ Kheo là bậc tối hậu thân thường ở rừng khác tu tập. Các Tỳ Kheo ấy bị bệnh, thuốc cũ hư mục không chữa trị được. Các Tỳ Kheo ấy kính thuận Phật chế chẳng tìm thuốc khác. Đức Như Lai biết như vậy nên hành phương tiện cầu hoa Ưu Bát La nơi thần y Kỳ Vức để ngửi cho xổ.
Bấy giờ Tịnh Cư Thiên đến chỗ các Tỳ Kheo bệnh mà bảo rằng: Các Đại Đức nên tìm thuốc khác chớ giữ bệnh mà chết.
Các Tỳ Kheo đáp: Chúng tôi chẳng dám trái lời dạy của Đức Thế Tôn. Chúng tôi thà chết chớ chẳng trái lời Phật, chúng tôi chẳng tìm thuốc tốt đầy dư.
Tịnh Cư Thiên nói: Chư Đại Đức! Đức Như Lai Pháp Vương tìm thuốc tốt khác mà bỏ thuốc cũ hư, vậy các Đại Đức nên tìm thuốc khác. Các Tỳ Kheo nghe xong hết nghi nên tìm thuốc khác uống thuốc khác sau đó được lành bệnh. Được lành bệnh rồi sau đó bảy ngày chứng quả A La Hán.
Này Trí Thắng! Nếu Đức Như Lai chẳng tìm thuốc khác thì các Tỳ Kheo bệnh ấy cũng chẳng tìm thuốc khác. Nếu họ chẳng tìm và uống thuốc khác thì chẳng bao giờ hết bệnh và chứng quả A La Hán. Đây gọi là Như Lai phương tiện.
Này Trí Thắng! Do duyên cớ gì mà Đức Như Lai vào thành khất thực mang không bát trở ra?
Này Trí Thắng! Đức Như Lai không có nghiệp chướng.
Lúc ấy Đức Như Lai thương xót các Tỳ Kheo đương lai hoặc có người vào thành ấp khất thực vì kém phước đức mà khất thực chẳng được, họ sẽ nghĩ rằng: Đức Như Lai Thế Tôn công đức thành tựu vào thành khất thực còn mang bát không trở ra huống là chúng ta thiện căn kém mỏng.
Chúng ta chẳng nên vì khất thực chẳng được mà sanh phiền muộn. Do vì thương người sau như vậy nên Đức Như Lai thị hiện vào thành khất thực mang bát không trở ra.
Này Trí Thắng! Ông chớ cho rằng ác Ma Ba Tuần có thể che đậy tâm của các Trưởng Giả, Cư Sĩ trong thành khiến họ chẳng bố thí thực phẩm.
Tại sao?
Vì ác ma Ba Tuần không có khả năng đoạn tuyệt thực phẩm của Như Lai. Đó là do thần lực của Phật khiến Ba Tuần che đậy tâm các Trưởng Giả Cư Sĩ chớ chẳng phải năng lực ác ma làm được. Đức Phật cũng hoàn toàn không có nghiệp chướng, vì hóa độ chúng sanh mà Phật thị hiện bát không trở ra.
Lúc đó Phật và chư Tỳ Kheo chẳng được ăn, tất cả Thiên Ma và Chư Thiên khác nghĩ rằng: Phật và Chúng Tăng chẳng được ăn chừng đó ưu sầu chăng?
Đêm đó họ thấy Phật và Chúng Tăng chẳng có một niệm ưu não, tâm cũng chẳng thay đổi trước sau vẫn bình đẳng. Thấy vậy, có bảy ngàn Thiên Tử đối với Như Lai sanh lòng kính tin. Phật vì họ thuyết pháp, tất cả đều được pháp nhãn tịnh.
Này Trí Thắng! Sau đó trong thành các trưởng giả, cư sĩ liền đến chỗ Phật đảnh lễ sám hối. Phật vì họ thuyết Tứ Thánh Đế Pháp, có hai vạn người nơi tất cả pháp được pháp nhãn tịnh. Đây gọi là Như Lai phương tiện.
Này Trí Thắng! Do duyên cớ gì mà cô gái Bà La Môn Chiên Già dùng chậu gỗ cột nơi bụng phỉ báng Như Lai rằng: Do Sa Môn Cù Đàm làm cho tôi có thai phải cung cấp tôi áo chăn ăn uống?
Này Trí Thắng! Trong sự việc ấy Đức Như Lai không có nghiệp chướng. Nếu có, Đức Như Lai có thể ném nàng ấy ra ngoài hằng sa Thế Giới. Do phương tiện mà Như Lai thị hiện nghiệp chướng ấy để hóa độ các chúng sanh chẳng hiểu biết.
Tại sao?
Vì Đời đương lai sẽ có các Tỳ Kheo xuất gia học đạo trong Phật Pháp, hoặc có người bị kẻ khác phỉ báng rồi sanh lòng hổ thẹn chán nản mà xả giới hoàn tục.
Do vì Như Lai đã thị hiện duyên sự ấy, các Tỳ Kheo đời sau nếu có bị phỉ báng họ nên nghĩ rằng: Đức Như Lai thành tựu tất cả thiện pháp đủ đại oai đức mà còn bị phỉ báng huống là chúng ta. Do suy nghĩ như vậy họ sẽ không hổ thẹn chán nản và sẽ tu tập tịnh diệu phạm hạnh.
Này Trí Thắng! Cô gái Bà La Môn Chiên Già ấy thường bị ác nghiệp che chướng nên nhiều bất tín, nay nàng ấy ở trong Phật Pháp chẳng điều phục luôn bị ác nghiệp che chướng nhẫn đến trong giấc mộng cũng sanh lòng phỉ báng lúc thức dậy vui mừng, nàng ấy mạng chung sẽ đọa địa ngục.
Này Trí Thắng! Ta có thể dùng phương tiện khác trừ các nghiệp bất thiện của nàng ấy cứu nó khỏi sanh tử. Hoặc có lúc Như Lai chẳng cứu người khác.
Tại sao?
Vì Như Lai đối với tất cả chúng sanh không có tâm thiên lệch. Đây gọi là Như Lai phương tiện.
Này Trí Thắng! Do duyên cớ gì mà các Bà La Môn giết cô gái Bà La Môn Tôn Đà Lợi rồi chôn trong hào vườn Kỳ Hoàn?
Này Trí Thắng! Lúc ấy Như Lai biết rõ sự việc trên mà bỏ chẳng nói. Đức Như Lai thành tựu nhất thiết trí tâm không có chướng ngại, hay dùng thần lực có thể khiến lưỡi dao ấy chẳng phạm vào thân cô gái.
Đức Như Lai biết cô gái Tôn Đà Lợi mạng căn sắp hết tất bị người giết, do đó phương tiện khiến các ngoại đạo lộ bày nghiệp ác và đọa vào chỗ khổ não. Sự việc như vậy duy có Phật biết an trụ sự ấy khiến nhiều chúng sanh phát tâm thanh tịnh thêm lớn thiện căn.
Lúc ấy trong bảy ngày Như Lai chẳng vào thành Xá Vệ, thời gian này Như Lai điều phục sáu mươi ức Chư Thiên. Quá bảy ngày Chư Thiên và mọi ngưòi cùng tụ họp đến chỗ Phật. Đức Như Lai vì họ thuyết pháp. Nghe pháp rồi có tám vạn bốn ngàn người nơi tất cả pháp được pháp nhãn tịnh. Đây gọi là Như Lai phương tiện.
Này Trí Thắng! Do duyên cớ gì mà Như Lai và Chúng Tăng trong ba tháng tại tụ lạc của Bà La Môn Tỳ Lan Nhã ăn lúa ngựa?
Lúc ấy ta biết trước Bà La Môn đó tất sẽ quên bỏ sự thỉnh Phật và Tăng mà chẳng cung cấp uống ăn nhưng ta vẫn cố ý thọ thỉnh.
Tại sao?
Vì muốn độ năm trăm ngựa vậy. Bầy ngựa ấy đời trước đã từng học Đại Thừa rồi, đã từng cúng dường Chư Phật quá khứ, do gần ác tri thức tạo ác nghiệp nên đọa súc sanh. Trong bầy có một ngựa lớn tên Nhật Tạng là Đại Bồ Tát.
Đời quá khứ, Nhật Tạng Bồ Tát ở trong nhân đạo đã từng khuyến hóa năm trăm người, nay là năm trăm ngựa nhỏ phát tâm Bồ Đề, nay vì muốn dộ năm trăm ngựa nhỏ nên thị hiện sanh trong loài ngựa. Do oai đức của ngửa lớn khiến năm trăm ngựa nhỏ tự biết túc mạng và trở lại được bổn tâm nguyện đã từng mất.
Này Trí Thắng! Vì ta thương năm trăm Bồ Tát đọa trong loài ngựa muốn chúng được thoát ly súc sanh nên Như Lai biết trước mà vẫn thọ thỉnh.
Này Trí Thắng! Trong ba tháng, giảm nửa phần lúa ăn mỗi ngày của năm trăm ngựa nhỏ cúng dường chúng Tăng, giảm nửa phần lúa ăn mỗi ngày của ngựa lớn cúng dường Như Lai.
Ngựa lớn, Nhật Tạng Bồ Tát, dùng tiếng loài ngựa thuyết pháp cho năm trăm ngựa nhỏ, cũng dạy sám hối lễ Phật và Tỳ Kheo Tăng cùng phát tâm cúng dường nửa phần ăn cho Chúng Tăng.
Năm trăm ngựa nhỏ sám hối rồi sanh lòng tịnh tín đối với Phật Pháp Tăng. Sau đó chẳng lâu bầy ngựa chết sanh Cung Trời Đâu Suất.
Năm trăm Thiên Tử này liền từ Thiên Cung đến chỗ Phật tác lễ cúng dường nghe Phật thuyết pháp đều được chẳng thối chuyển vô thượng bồ đề.
Nhật Tạng Bồ Tát sẽ cúng dường vô lượng Chư Phật thành tựu pháp trợ bồ đề sẽ được thành Phật Hiệu Điều Ngự Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Này Trí Thắng! Trong thế gian này không có Thượng Phẩm mỹ vị nào mà Như Lai chẳng được. Trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới không có mỹ vị nào giống được mỹ vị của Như Lai đã ăn.
Tại sao?
Vì Như Lai được tướng Đại Nhân tên là vị trung thượng vị. Dầu là món ăn cực thô để vào miệng Như Lai liền thành thượng vị hơn cả diệu thực của Chư Thiên. Do đây nên biết món ăn của Như Lai tối thắng tối diệu.
Này Trí Thắng! Lúc ấy A Nan lòng buồn phiền nghĩ rằng dòng Chuyển Luân Vương xuất gia học đạo mà như kẻ hạ tiện ăn gạo lúa ngựa này.
Ta biết tâm niệm A Nan liền trao cho A Nan một hột bảo rằng ông nếm hột cơm này xem mùi vị nó thế nào?
A Nan nếm xong sanh lòng hi hữu bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi sanh trong Vương gia lớn lên trong Vương gia mà chưa từng được nếm mùi vị thượng diệu này. Ăn hột cơm ấy xong, trọn bảy ngày bảy đêm A Nan chẳng ăn chẳng uống mà không thấy đói khát. Do dây mà biết rằng sự việc trên là phương tiện của Như Lai chớ chẳng phải nghiệp chướng.
Này Trí Thắng! Có Sa Môn, Bà La Môn trì giới thọ người thỉnh như ta rồi biết thỉnh chủ hoang mê chẳng thể cung cấp hoặc họ chẳng chịu ở. Do cớ ấy mà Như Lai đã có chỗ hứa khả thị hiện thọ thỉnh đến ở và đồng thời thị hiện nghiệp báo nhân duyên.
Này Trí Thắng! Ông nên biết thường pháp của Như Lai là dầu thọ người thỉnh rồi chẳng được cung cấp cũng chẳng để cho thỉnh chủ mang tội đọa ác đạo.
Này Trí Thắng! Lại vì trong năm trăm Tỳ Kheo cùng Như Lai an cư ăn gạo lúa ngựa ấy có bốn trăm Tỳ Kheo hễ thấy ngon tốt thì sanh lòng tham dục. Các Tỳ Kheo này nếu ăn ngon thì thêm lòng dục.
Nếu ăn đồ thô xấu thì chẳng sanh lòng dục. Quá ba tháng an cư ấy rồi, bốn trăm Tỳ Kheo rời lìa tâm dâm dục chứng quả A La Hán.
Này Trí Thắng! Vì điều phục năm trăm Tỳ Kheo và độ năm trăm Bồ Tát mắc báo súc sanh mà Đức Như Lai dùng sức phương tiện thọ ba tháng ăn gạo lúa ngựa chớ chẳng phải là nghiệp báo. Đây gọi là Như Lai phương tiện.
Này Trí Thắng! Do duyên cớ gì mà ngày thứ mười lăm lúc thuyết giới, Đức Như Lai bảo Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp: Hôm nay ta đau lưng, ông nói bảy pháp giác phần?
Này Trí Thắng! Ngày ấy có tám ngàn Thiên Tử do pháp Thanh Văn mà tự điều phục hòa hiệp cùng ngồi trong chúng. Chư Thiên tử này thuở quá khứ được Đại Ca Diếp giáo hóa kính tin Phật Pháp Tăng nhiều lần nghe Đại Ca Diếp Tỳ Kheo giảng Bảy pháp giác phần.
Này Trí Thắng! Trừ Ma Ha Ca Diếp, dầu có trăm ngàn Đức Phật thuyết pháp cũng không làm cho tám ngàn Thiên Tử này hiểu được. Lúc ấy Đại Ca Diếp tuân lời Phật thuyết pháp, tám ngàn Thiên Tử ấy nghe rộng nghĩa bảy pháp giác phần liền ở nơi tất cả pháp được pháp nhãn tịnh.
Này Trí Thắng! Nếu có chúng sanh thân mắc bệnh khổ không đến chỗ thuyết pháp được để cung kính nghe pháp.
Họ nên nghĩ rằng: Đức Phật là pháp Vương còn nghe thuyết bảy pháp giác phần mà lành bệnh huống là chúng ta mà chẳng đến nghe pháp chẳng cung kính pháp.
Này Trí Thắng! Vì điều phục Chư Thiên và trừ bệnh khổ cho người cũng hiển bày kính trọng nơi pháp nên Như Lai bảo Đại Ca Diếp: Hôm nay ta đau lưng ông nên thuyết bảy pháp giác phần. Nên biết Đức Như Lai không có thân tứ đại thô trọng huống là có bệnh hoạn. Đây gọi là Như Lai phương tiện.
Này Trí Thắng! Do duyên cớ gì lúc dòng Thích Ca bị phá, Đức Như Lai tự nói đau đầu?
Này Trí Thắng! Hoặc có chúng sanh nói rằng: Thế Tôn chẳng thể lợi ích thân tộc cũng chẳng thương xót chẳng muốn an ổn, xuất gia rồi dứt ý tưởng dòng họ chẳng muốn cứu hộ. Vì chẳng biết mà họ nói như vậy.
Này Trí Thắng! Đức Như Lai đã sạch hết gốc khổ. Vì biết tâm niệm của các chúng sanh ấy nên Đức Như Lai ngồi dưới cây xá gia tự nói đau đầu.
Này Trí Thắng! Hôm ấy ta nói với A Nan là ta đau đầu. Bấy giờ có ba ngàn Thiên Tử đoạn kiến, lại có vô lượng chúng sanh háo sát cùng tập họp chỗ Phật.
Vì họ mà ta thị hiện nghiệp chướng nói rằng: Ta do thấy người khác sát sanh mà có lòng tùy hỉ nên mắc báo đau đầu. Nghe lời này có bảy ngàn Trời và người được điều phục. Đây gọi là Như Lai phương tiện.
Này Trí Thắng! Do duyên cớ gì mà Bà La Môn Phả La Đọa dùng năm trăm cách chửi mắng Phật, Phật nghe mà vẫn nhẫn nhịn?
Này Trí Thắng! Đức Như Lai có thể dùng thần lực ném Bà La Môn ấy để ở Thế Giới khác cũng có thể dùng thần lực khiến Bà La Môn ấy chẳng thốt được một lời.
Này Trí Tắng! Lúc ấy có số đông Người và Trời thấy Đức Như Lai hay nhẫn được lời chửi mắng chẳng nói chẳng đáp mà luôn an trụ nơi tâm xả tâm bình đẳng tâm lợi ích tâm kham nhẫn trước như sau sau như trước, có bốn ngàn Trời Người phát tâm vô thượng bồ đề.
Bà La Môn Phả La Đọa thấy vậy cũng sanh lòng kính tin quy y Phật Pháp Tăng gieo giống giải thoát. Đây gọi là Như Lai phương tiện.
Này Trí Thắng! Đề Bà Đạt Đa cùng Bồ Tát đời đời chung sanh một chỗ, đây cũng là phương tiện của Như Lai.
Vì sao?
Vì nhân nơi Đề Bà Đạt Đa mà ta được đầy đủ Sáu Ba la mật cũng lợi ích vô lượng chúng sanh.
Làm thế nào biết như vậy?
Này Trí Thắng! Thuở nọ các chúng sanh hưởng thọ sung sướng chẳng biết làm việc bố thí, Bồ Tát hiện làm Chuyển Luân Vương muốn dạy họ làm việc bố thí, bấy giờ Đề Bà Đạt Đa hiện làm phạm chí dến chỗ Bồ Tát cầu xin quốc thành vợ con và đầu mắt tay chân, Bồ Tát đều hoan hỉ bố thí cả.
Vô lượng chúng sanh thấy vậy tin hiểu việc bố thí mà nói rằng như Bồ Tát bố thí, tôi cũng bố thí như vậy nguyện thành Bồ Đề.
Này Trí Thắng! Đề Bà Đạt Đa hoặc thấy Bồ Tát trì giới thanh tịnh muốn phá giới của Bồ Tát thọ trì, Bồ Tát vẫn chẳng hư tịnh giới, Vô lượng chúng sanh thấy Bồ Tát trì giới cũng bắt chước trì giới như Bồ Tát cầu thành Bồ Đề.
Này Trí Thắng! Đề Bà Đạt Đa thấy Bồ Tát tu nhẫn nhục hoặc khinh chê mắng chửi, Bồ Tát vẫn chẳng sanh ác tâm mà đầy đủ Sằn Đề Ba La Mật. Vô lượng chúng sanh thấy Bồ Tát diều tâm nhẫn nhục cũng bắt chước tu nhẫn nhục.
Này Trí Thắng! Nên biết Đề Bà Đạt Đa làm lợi ích lớn cho Bồ Tát. Như nay Đề Bà Đạt Đa thả voi lớn say muốn hại Như Lai cũng như ở núi Kỳ Xà Quật xô dá lớn, dều là phương tiện của Như Lai thị hiện chẳng phải tội nghiệp báo.
Tại sao?
Vì do phương tiện ấy mà lợi ích vô lượng chúng sanh.
Này Trí Thắng! Như Lai tổng nói nhân duyên mười nghiệp đều là Đức Như Lai phương tiện thị hiện chẳng phải là nghiệp báo.
Tại sao?
Vì chúng sanh chẳng rõ nghiệp nhân cảm vời quả báo, nên vì chúng sanh mà Như Lai thị hiện nghiệp báo như vậy. Tạo nghiệp ấy rồi mắc báo như vậy. Nghiệp kia được tạo rồi mắc báo như vậy.
Chúng sanh nghe xong họ lìa nghiệp ấy mà tạo nghiệp kia: Họ lìa ác nghiệp mà tu tập thiện nghiệp.
Này Trí Thắng! Nay Đức Như Lai nói phương tiện rồi thị hiện phương tiện rồi, các phương tiện này phải giữ chặt cất kín chẳng nên nói với hạng người hạ liệt thiện căn kém mỏng.
Tại sao?
Vì Kinh này chẳng phải chỗ hành của hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật huống là phàm phu hạ liệt mà có thể tin hiểu được. Kinh phương tiện này chẳng phải dùng của họ, chẳng phải các phàm khí thọ trì được. Chỉ có Bồ Tát là hay thuyết hay học kinh phương tiện này.
Này Trí Thắng! Ví như đêm tối thắp đèn sáng lớn thấy được tất cả đồ vật trong nhà. Cũng vậy, Bồ Tát nghe Kinh này rồi thì thấy được tất cả đạo sở hành của Bồ Tát, trong pháp này là chỗ mà tôi phải học. Nơi tất cả sở hành của Như Lai của Bồ Tát đều đã đến bỉ ngạn. Người giỏi hành đạo Bồ Tát chẳng lấy đó làm khó.
Này Trí Thắng! Nay ta sẽ nói về người muốn được đạo Bồ Đề, nghĩa là các Thiện Nam Tử Thiện Nữ Nhân nghe tin quá trăm ngàn do tuần có chỗ giảng thuyết Kinh phương tiện này thì nên đến đó để nghe.
Tại sao?
Vì nếu Bồ Tát được nghe Kinh phương tiện này thì được quang minh hạnh, ở trong tất cả pháp trừ hết tâm nghi hối. Lúc nói Kinh này tứ chúng và các Trời người, kẻ đã hành bảo khí đều nghe đều biết, kẻ chẳng phải bảo khí dầu ở tại hội cũng chẳng nghe chẳng biết, ở trong Kinh này tai còn chẳng nghe huống là miệng nói được, vì chẳng phải bảo khí chẳng nhờ thần lực của Phật vậy.
Lúc nói Kinh này, có bảy vạn hai ngàn người phát tâm vô thượng bồ đề.
Bấy giờ Tôn Giả A Nan bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này tên gì, phụng trì thế nào?
Đức Phật dạy: Này A Nan! Kinh này tên là Phương Tiện Ba La Mật cũng tên là Chuyển Phương Tiện Phẩm. Cũng tên là Thuyết Phương Tiện Điều Phục, các ông nên phụng trì như vậy.
Đức Phật nói Kinh này rồi, Trí Thắng Bồ Tát lòng sanh vui mừng, cùng những hàng học Thanh Văn thừa, học Bích Chi Phật thừa, học Bồ Tát thừa, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di và Chư Thiên, Long, Quỷ Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân và Phi Nhân tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Một - Kinh Tiểu Tụng - Chương Năm - Kinh ðiềm Lành
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Sư Tử Hống - Phần Năm - Bốn Loại Sanh
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tỳ La - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Tám Mươi Tám - Kinh Khỉ Nắm Nắm đậu
Phật Thuyết Kinh đại Tập Những điều Bồ Tát Hư Không Tạng Hỏi Phật - Phần Mười Chín
Phật Thuyết Kinh đại Bi đại ái - Phẩm Mười Một - Phẩm Biết Ba đời