Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Mười

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ BẢY

PHÁP HỘI MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM  

PHẦN MƯỜI  

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Bồ Tát không chỗ hành

Mà cũng không có hạnh

Được không có sở hành

Thì vô úy hướng đến

Chưa từng có thắng hạnh

Cũng không có biến hạnh

Không hạnh không thắng hạnh

Thì bình đẳng hướng đến

Hạnh ấy không thị hiện

Cũng không có các tướng

Không có tướng không hành

Đây là tướng của hành

Bồ Tát vô tướng hành

Chẳng trụ ở các sự

Không hành không chỗ trụ

Người trí mới thành tựu

Không hành thì không động

Hạnh ấy là vô thượng

Làm được hạnh bất động

Dũng tiến mà hướng đến

Bồ Tát bất khả đắc

Hạnh cũng bất khả kiến

Cũng chẳng thấy sắc thân

Đây là người thiện thuận

Không sắc không hình tướng

Nên không tất cả hạnh

Nơi thấy không sở thủ

Đây là vô tỉ hạnh

Bồ Tát vô thượng hạnh

Chẳng tùy theo thi thiết

Cũng không có dời đổi

Trong ấy không sở chấp

Vì hạnh không thi thiết

Mới là hạnh vô thượng

Nếu được hạnh như vậy

Thì được ánh sáng pháp

Bồ Tát chỗ tu hành

Không lời không kiếp lượng

Hay dùng vô lượng kiếp

Nói rõ các công hạnh

Bồ Tát hạnh thanh tịnh

Thanh tịnh diệu an trụ

Xả bỏ tất cả hạnh

Không có người nhiếp thủ

Bồ Tát trụ nơi xả

Thủ hộ nơi các hạnh

Đã bỏ tất cả hạnh

Diệu an trụ nơi xả

Bồ Tát vô biên hạnh

Rời biên và vô biên

Hạnh kia không bị động

Gọi là vô thượng hạnh

Bồ Tát vô tướng hạnh

Hạnh ấy là vô thượng

Lúc tu hành hạnh ấy

Siêu việt các ma giới

Bồ Tát vô tướng hạnh

Sáng tỏ nơi vô tướng

Hoặc tướng và vô tướng

Đều không có sở y

Bồ Tát trụ trí ấy

Hạnh ấy khéo thành tựu

Không có chút sở hành

Gọi là người chẳng làm

Bồ Tát thường thanh tịnh

Nơi hạnh không e sợ

Chánh niệm mà hướng đến

Đây là khéo an trụ.

Ngài Thắng Huệ Đại Bồ Tát lại bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chư Đại Bồ Tát bao nhiêu sự tu hành rất là thậm thâm. Chẳng phải là chỗ tu hành của những kẻ ngu phu hữu tướng hữu vi mà có thể tu hành chút ít được.

Bạch Đức Thế Tôn! Không có chút pháp nào trong hạnh ấy, nên hạnh ấy là hạnh bình đẳng của Đại Bồ Tát. Công hạnh của Đại Bồ Tát, chẳng phải số lượng biên tế mà lường được.

Ngài Thắng Huệ Đại Bồ Tát nói kệ khen Đức Phật rằng:

Đấng Đại Hùng Chánh Giác

vô thượng Lưỡng Túc Tôn

Diễn thuyết hạnh thậm thâm

Lợi ích Chư Bồ Tát

Thế Tôn diệu biện tài

Lượng ấy thiệt khó lường

Đấng biện tài vô biên

Đại Trượng Phu tối thắng

Pháp Vương dứt nghị luận

Đây do Chánh Biến Tri

Vì Chư Đại Bồ Tát

Nói hạnh vô thượng ấy

Thế Tôn hay diễn thuyết

Về phương tiện diệt hành

Nơi hành đều vượt qua

Người trí sẽ hướng đến

Thế Tôn bất tư nghị

Cảnh giới trí vô biên

Chánh giác Lương Túc Tôn

Khéo khai diệu hạnh ấy

Thế Tôn chỗ khai thị

Hạnh bất động tịch mặc

Hạnh ấy không động được

Nên gọi hạnh vô tỉ

Đại Hùng Đại Mâu Ni

Chỗ tu hành thuở xưa

Nói do nhiều kiếp hành

Không ai có thể đến

Bồ Tát nghe pháp ấy

Dầu ở tại thế gian

Mà ở nơi chủng trí

Chẳng bao lâu sẽ chứng

Chúng tôi thương chúng sanh

Sẽ ở trong mạt thế

Nơi pháp vô thượng ấy

Hay làm người hộ trì

Chúng tôi nghe pháp ấy

Sẽ ở trong mạt thế

Vì tất cả chúng sanh

Mà hay làm hay nói

Chúng tôi dùng ánh sáng

Sẽ ở trong mạt thế

Vì các người cầu pháp

Mà làm lợi ích lớn

Chúng tôi phát thệ nguyện

Sẽ ở trong mạt thế

Vì tất cả chúng sanh

Hộ trì mà kiến lập

Chúng tôi thường nghĩ nhớ

Sẽ ở trong mạt thế

Cúng dường biển Chư Phật

Nguyện trì pháp vô thượng

Chúng tôi nơi pháp Tạng

Sẽ làm thắng trượng phu

Nguyện trì pháp môn ấy

Thủ hộ khiến còn lâu

Chúng tôi nơi pháp thủy

Thệ nguyện đều uống hết

Mà với pháp môn ấy

Sẽ làm người thủ hộ

Chúng tôi nghe pháp rồi

Sẽ ở trong mạt thế

Nguyện làm đại trượng phu

Thọ trì Phật chánh pháp

Chúng tôi thà mất mạng

Chẳng bỏ pháp vô thượng

Nguyện ở trong pháp ấy

Mà làm người trì pháp

Chúng tôi trì pháp ấy

Chưa từng mừng là đủ

Khát ngưỡng nghe pháp ấy

Những thế Kinh quyết định

Chúng tôi ở mạt thế

Vì những người cầu pháp

Sẽ diễn chánh pháp ấy

Khiến họ đều hoan hỉ

Pháp Vương chẳng nghĩ bàn

Hay làm nương dựa lớn

Xin thương gia hộ tôi

Nhớ tôi người trì pháp.

Đức Thế Tôn phán: Này Thắng Huệ, lành thay, lành thay! Ông có thể ở trong đời mạt thế sau, vì muốn hộ trì các pháp ấy mà mặc đại giáp trụ. Cũng không khác thuở xưa Chư Đại Bồ Tát ở chỗ Đấng Tối Thắng cúng dường phụng thờ trồng các cội lành, lâu dài tu phạm hạnh mặc đại giáp trụ hộ trì chánh pháp của Chư Phật Thế Tôn.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Đời bố úy thuở sau

Ông sẽ trì pháp ấy

Vì lợi ích chúng sanh

Đem pháp ấy khai thị

Đời mạt thế thuở sau

Ông trì pháp tối thắng

Nếu ai nghe pháp này

Sẽ sanh lòng ưa thích

Trong đời mạt thế sau

Ông làm người trì pháp

Ta nói pháp thậm thâm

Ông sẽ đều thọ trì

Khế Kinh bí mật ấy

Ông nghe phải ghi nhớ

Ở trong lý thú ấy

Chớ có lại nghi hoặc

Nghĩa quyết định thậm thâm

Ông nghe phải ghi nhớ

Lợi ích các chúng sanh

Làm người trì Pháp Tạng

Đem pháp thí tất cả

Khắp nhuần các chúng sanh

Nghe xong khiến mừng vui

Khắp thân tâm hoan hỉ

Vì các đạo Bồ Tát

những lý thú sở hành

Và Tu Đa La ấy

Mà thọ trì trọn vẹn

Ông sẽ rộng độ được

Vô lượngc các chúng sanh

Trong tất cả thế gian

Chẳng có thể độ được

Ông vì trì pháp ấy

Lợi ích các thế gian

Được những phước thù thắng

Do đây mà hướng đến

Nay ta nói pháp ấy

Ông đẻu phải thọ trì

Trong đời mạt thế sau

Vì người trí diễn nói

Đời nay và đời sau

Người trì được pháp ấy

Thì có thể thọ trì

Chánh pháp của ngàn Phật

Vì tất cả chúng sanh

Hộ trì pháp môn ấy

Ở đời mạt thế sau

Mà làm lợi ích lớn

Nếu người ở đời sau

Mà làm lợi ích lớn

Nếu người ở đời sau

Hộ trì được pháp ấy

Họ chẳng ở một Phật

Gần gủi mà cúng dường

Nếu người ở đời sau

Hộ trì được pháp ấy

Họ đã phụng thờ nhiều

Đấng khéo nói pháp ấy

Được ở trong pháp ấy

Không có chút nghi hoặc

Mạt thế hộ trì pháp

Đây là người trí huệ

Mặc giáp lớn vô biên

Đấu chiến là thù thắng

Mà ở trong mạt thế

Mới trì được pháp ấy

Họ ở nơi chánh pháp

Lưới nghi đều đã trừ

Nghe pháp không chỗ sợ

Mới trì được pháp ấy.

Đức Phật phán tiếp: Này Thắng Huệ! Nếu có thiện nam, thiện nữ, người siêng cầu công đức lớn tối thắng, ở trong thời kỳ mạt thế vì pháp thậm thâm, phải mặc giáp trụ thọ trì đọc tụng giải thuyết nghĩa ấy.

Lại này Thắng Huệ! Ta nhớ thuở xưa quá vô lượng kiếp ấy, có Đức Phật xuất thế hiệu là biến chiếu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp ấy tên Siêu Thắng. Quốc Độ ấy tên là Ly Cấu, mặt đất bằng phẳng rộng lớn trang nghiêm.

Trong các khu vườn ấy trần thiết nhiều đài ghế trang nghiêm, ao hồ đầy nước, bờ bậc bằng các chất báu vòng quanh bỉnh chỉnh ra vào an ổn. Bên các bờ ao hồ, những cây thơm đẹp như Trầm Thủy, Chiên Đàn và Đa Ma La rậm rợp ngay hàng.

Trong mỗi mỗi thành ấy, đều có mười ngàn câu chi nhân dân. Vì tất cả nhân dân ấy đều đã thành tựu mười nghiệp lành nên tất cả đều đã thành tựu mười nghiệp lành nên tất cả đều hưởng thọ sự an lạc ấy.

Thuở ấy đức Biến Chiếu Như Lai ban đầu từ sơ kiếp siêu việt hai trăm kiếp mà xuất hiện trong ấy, vì thê nên kiếp ấy có tên là Siêu Thắng.

Trong kiếp ấy có năm trăm Đức Như Lai thứ đệ xuất hiện, mỗi mỗi Quốc Độ, chánh pháp trụ thế đều mười ngàn năm. Năm trăm Đức Như Lai như vậy xuất hiện giáo hóa thế gian, có rất đông Pháp Hội Thanh Văn và Bồ Tát.

Mỗi mỗi Pháp Hội đều có số Câu Chi Na Do Tha vô lượng Bồ Tát hướng đến Nhất Thừa Đạo, được vô sanh pháp nhẫn.

Trong kiếp ấy có Chuyển Luân Vương tên là Dũng Mãnh Quân, trọn vẹn bảy báu trị bốn châu thiên hạ?

Ở Châu Diêm Phù Đề có một tòa thành ớn rộng sáu mươi do tuần, có tám mươi câu chi nhân dân sống an ổn sung sướng giàu có đông đúc.

Đại thành ấy có bảy lớp tường hào, bảy lớp hàng cây, bảy lớp lâu đài, bảy lớp linh võng, một ngàn khu vườn trang nghiêm bao quanh đại thành.

Mỗi mỗi khu vườn ngang rộng hai mươi do tuần, đểu có bảy lớp tường rào, bảy lớp mành lưới, nhiều thứ trang nghiêm, tất cả đều xinh đẹp, những trân ngoạn châu báu như Thiên Cung.

Mỗi khu vườn lại có một trăm ao hồ, bờ ao bằng báu tỳ lưu ly, thềm bậc bằng ngọc mã não, tong ao nhiều hoa đẹp, trên ao cây báu bày hàng.

Trong đại thành, chánh điện của Luân Vương lớn bảy do tuần, xây bằng hoàng kim và ngọc màu xanh, bao bọc băng trụ báu, trang sức bằng ngọc lưu ly, che trùm dùng lưới ma ni châu. Những cây Đa La rậm rạp ngay thẳng.

Trong ấy có hai mươi ao nước, đáy lót chân kim, trên che lưới vàng, báu tạp lưu ly làm cầu, thềm đường thuần bằng hoàng kim, trong ao bốn màu hoa sen đua nở. Chuyển Luân Vương Dũng Mãnh Quân có hai ngàn thể nữ, sáu vạn con trai.

Trong lúc cùng quyến thuộc hưởng vui ngũ dục nơi khu vườn ấy, Luân Vương tự nghĩ rằng: Những dục lạc đều vô thường sẽ mau biến hoại. Tôi phải quyết chí cầu Phật Pháp. Nếu được nghe pháp rồi, tôi sẽ y theo tu hành để được lợi ích an vui mãi mãi.

Luân Vương vừa suy nghĩ xong, trên hư không bỗng có Thiên Tử hiện ra bảo rằng: Lành thay, này Chuyển Luân Vương! Hiện nay có Biến Chiếu Như Lai xuất thế diễn thuyết chánh pháp, sơ trung hậu đều lành. Đại Vương nên đến chỗ Đức Như Lai ấy sẽ được nghe chánh pháp và sẽ mãi mãi được an lạc lợi ích, thành tựu trọn vẹn Phật Pháp. Nghe lời chỉ bảo của Thiên Tử, Luân Vương vui mừng hớn hở.

Liền đem quyến thuộc cùng đến chỗ Đức Biến Chiếu Như Lai đảnh lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Dùng những pháp gì có thể nhiếp được chư pháp thiện xảo phương tiện, có thể làm cho phạm hạnh được viên mãn, tôi sẽ tu hành.

Đức Biến Chiếu Như Lai vì Luân Vương mà khai thị rộng rãi các pháp.

Nghe pháp xong, Luân Vương và quyến thuộc cung kính cúng dường Đức Phật và đại chúng suốt hai muôn năm. Sau đó Luân Vương xuất gia trong chánh pháp của Đức Biến Chiếu Như Lai.

Do vì nghe pháp, Tỳ Kheo Dõng Mãnh Quân được thiện căn thọ pháp, thiện căn trì pháp, thiện căn thuyết pháp. Có được nghe pháp gì đều ghi nhớ suy ngẫm chẳng quên.

Siêng năng tu tập vô lượng công đức phát nguyện rằng: Nguyện thọ trì ba thời kỳ chánh pháp của Đức Như Lai, vì các hàng chúng sanh mà tuyên thuyết. 

Đối với chư Như Lai trong kiếp Siêu Thắng, Tỳ Kheo Dũng Mãnh Quân đều thân cận cúng dường thờ phụng, đều có thể thọ trì hiện tiền chánh pháp, trung thời chánh pháp và hậu thời chánh pháp của Như Lai ấy, giáo hóa thành thục bốn muôn tám ngàn câu chi na do tha chúng sanh hướng đến vô thượng bồ đề, phương tiện điều phục vô lượng chúng sanh an trụ Thanh Văn thừa và Bích Chi Phật thừa.

Trong kiếp ấy, Đức Như Lai Tối Thắng hiệu là Điện Quang. Lúc nghe Đức Điện Quang Như Lai thuyết pháp, Tỳ Kheo Dũng Mãnh Quân được vô sanh nhẫn.

Điện Quang Như Lai thọ ký rằng: Ở đời vị lai, ông Dũng Mãnh Quân cúng dường vô lượng ngàn Phật Thế Tôn, thọ trì ba thời chánh pháp của chư Như Lai, làm lợi ích vô lượng vô số chúng sanh, an lập trăm ngàn câu chi na do tha chúng sanh nơi vô thượng bồ đề, vô lượng chúng sanh nơi Thanh Văn thừa.

Như vậy quá A tăng kỳ kiếp chứng vô thượng bồ đề hiệu là Vô Biên Tinh Tiến Quang Minh Công Đức Siêu Thắng Vương Như Lai.

Cõi nước của Đức Phật ấy chứa họp vô lượng công đức thanh tịnh, an ổn giàu vui, nhân dân đông nhiều, có đông Chúng Thanh Văn và Bồ Tát. Đức Phật ấy thọ đến năm tiểu kiếp, giáo pháp lưu truyền khắp nơi được Trời người thọ trì. Xá Lợi, Tháp Miếu khắp các Quốc Độ.

Này Thắng Huệ! Thế nên Chư Đại Bồ Tát ở nơi pháp thanh tịnh thậm thâm ấy phải tôn trọng thọ trì tu tập, dùng pháp trang cụ để trang nghiêm thân mình. Vì dùng pháp để trang nghiêm nên chứng được thân Na La Diên kiên cố do Kim Cương tạo thành của Đức Như Lai.

Giả sử khắp Cõi Đại Thiên, tất cả chúng sanh tận lực muốn phá hoại thân kiên cố ấy cũng không thể xô ngã được. Ở trong Chúng Trời, Người, A Tu La diễn tả ánh sáng pháp, không có địch luận được.

Nếu có chúng sanh nào ở trong thâm pháp ấy thọ trì đọc tụng siêng năng tu tập, tùy theo ý thích của họ mà thọ sanh nơi nhà vọng tộc lớn thanh tịnh, nhẫn đến ngồi dưới cội Bồ Đề, đầy đủ tiếng danh, Quốc Độ đẹp lạ chẳng xen dị đạo.

Còn không có tên Phạm Chí Giá La Ca, huống là có bọn ác kiến cầu tà. Các điều bất thiện cũng chưa từng nghe, đâu có người tập làm căn chẳng lành.

Có thể dùng ngón chân phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên tất cả Thế Giới. Các chúng sanh gặp ánh sáng ấy đều được an lạc sẽ chứng vô thượng bồ đề.

Này Thắng Huệ! Thế nên Chư Đại Bồ Tát nếu ở trong pháp của ta mà siêng tu hành thì sẽ được công đức thù thắng như vậy?

Nếu ta nói cho đủ, dầu cùng kiếp cũng chẳng nói hết được.

Đức Thế Tôn lại phán với Ngài Vô Biên Huệ Đại Bồ Tát rằng: Này Vô Biên Huệ! Nếu có người an trụ nơi Bồ Tát Đạo ấy, siêng tu thâm pháp thanh tịnh như vậy, tương ưng với không, tương ưng với tịch tịnh, thì được ánh sánh pháp.

Dùng ánh sáng pháp thấy tất cả pháp tự tánh không có khác. Vì tánh không khác nên chỗ thấy thanh tịnh. Vì chỗ thấy thanh tịnh nên không có pháp kiến, cũng không có pháp rời lìa tự tánh để thấy. Pháp kiến thanh tịnh, cũng không có thanh tịnh, không có người thanh tịnh, không có thời gian thanh tịnh. Có thể được cảnh giới thanh tịnh trí.

Thấy các pháp giới: Chẳng phải giới, chẳng phải phi giới?

Giới kiến thanh tịnh xa rời các thứ tánh tưởng của các giới. Vì rời tánh tưởng nên ở nơi giới lý thú bí mật ngôn từ có thể hiễu rõ, lại có thể biết khắp các pháp phi giới. Vì thấy pháp giới không sai biệt, bất khả hoại, bất biến dị nên được phương tiện thiện xảo nơi lý thú của tất cả pháp giới.

Do thiện phương tiện biết khắp được lý thú của pháp giới. Dùng sức đẳng trì ở nơi lý thú sai biệt của các pháp giới tùy thuận thẳng vào.

Lúc an trụ công hạnh ấy, dùng phương tiện thiện xảo đối với tất cả các pháp không trụ không trước. Vì vô sở trước nên có thể ở nơi tất cả pháp giới lý thú, tùy chỗ thích ứng mà khai thị.

Vì sức đẳng trì lại có thể xuất sanh những tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, du hí thần thông biến một làm nhiều, biến nhiều làm một, với núi đá tường vách bay qua tự tại không vướng ngại.

Phương tiện thiện xảo biết được bốn giới hòa hiệp, chẳng ở nơi giới mà biết tất cả giới hiệp cùng không giới. Nơi không giới chẳng trước chẳng hệ.

Do trí thiện xảo giới hòa hiệp ấy mà ở nơi tất cả giới phương tiện tu tập. Do tu tập mà quyết liễu thủy giới. Có thể ở nơi thủy giới hoặc làm cho lên khói hoặc phát lửa. Hoặc ở trong ấy làm cho khói lửa cháy phừng. Nhẫn đến nhiều thứ biến hiện để làm lợi ích cho các chúng sanh.

Vì có thể an trụ pháp giới lý thú thiện xảo phương tiện nên không động lay, tùy ý thích nơi Phật Độ nào đó, có thể ở nơi các cõi chuyển hình thai tạng, thọ thân hóa sanh, thường thấy mười phương tất cả Thế Giới Chư Phật Như Lai. Chư Như Lai ấy, danh hiệu như vậy, dòng họ như vậy, chúng hội như vậy, thuyết pháp như vậy đều biết rõ ràng.

Lúc đó trong chúng hội lại có Đại Bồ Tát tên Vô Biên Thắng tiến lên bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chư Đại Bồ Tát an trụ pháp gì mà có thể được công đức tối thắng như Đức Thế Tôn vừa nói?

Đức Phật phán với Ngài Vô Biên Thắng Đại Bồ Tát: Này Vô Biên Thắng! Chư Đại Bồ Tát đối với đối với tất cả pháp không chỗ an trụ thì có thể được công đức tối thắng như ta đã nói.

Này Vô Biên Thắng! Chư Đại Bồ Tát nếu an trụ sắc thọ tưởng hành thức, nếu trụ nơi địa giới, thủy giới, phong giới, không giới, nếu trụ nơi Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, ở Kinh này, ta chẳng nói được các công đức ấy.

Nhưng Chư Đại Bồ Tát, ở nơi các pháp không chỗ trụ, chẳng vào chẳng ra, nên ta nói họ sẽ được biển lớn vô biên công đức.

Tại sao vậy?

Chư Đại Bồ Tát không chút pháp có thể được có thể trụ. Cũng không có chút pháp vào được ra được. Ngài khéo an trụ được nơi lý thú của các pháp mà không chỗ động lay.

Tại sao vậy?

Vì Chư Đại Bồ Tát không an trụ không động lay vậy.

Vì không động lay nên không có cao không có hạ.

Vì không cao hạ nên rời xa nơi cao, chẳng an trụ nơi hạ.

Vì chẳng an trụ nên gọi là khéo an trụ.

Người khéo an trụ thì không có chỗ an trụ thì không có an trụ. Người không có chỗ an trụ thì chẳng an trụ nơi chỗ. Chư Đại Bồ Tát chẳng ở nơi chút pháp nào hoặc có an lập, hoặc có tích tập, không xứ không trụ, không khởi không tác.

Tại sao vậy?

Vì nơi chỗ bất khả đắc. Vì không có nơi chỗ nên không có phân biệt. Vì không có phân biệt nên bất động xứ mà an trụ, như pháp giới mà an trụ.

Không có xứ mà an trụ thì không có an trụ. Với xứ và không có xứ đều không có chấp trước. Gọi đó là thiện trụ.

Này Vô Biên Thắng! Chư Đại Bồ Tát ở nơi pháp lý thú mà an trụ. An lập như vây là an trụ nơi vô trụ, không có chỗ an trụ mà an trụ, thấy tất cả pháp không có phân biệt.

An trụ nơi hạnh vô phân biệt như vậy, dùng hạnh như vậy thấy tất cả pháp không có chỗ động thì an trụ nơi chân như lý, thì tương ưng với chân như lý động, thì tương ưng với chân như lý bất thu.

Đức Thế Tôn:

Bồ Tát chánh ức niệm

Nơi nghĩa khéo tư duy

Chẳng trụ trong các pháp

Gọi đó là người trí

Chưa từng có chút pháp

Làm được chỗ an lập

Vô úy mà hướng đến

Chẳng an lập nơi sắc

Cũng chẳng lập nơi thọ

Nơi các tưởng các hành

Bà nơi thức cũng vậy

Chẳng an trụ nơi uẩn

Các giới và các xứ

Hoặc xứ hoặc phi xứ

Cũng thường không chỗ trụ

Chẳng an trụ địa giới

Cũng chẳng an trụ thủy giới

Hỏa giới và phong giới

Cũng thường không chỗ trụ

Chẳng an trụ Dục Giới

Sắc Giới, Vô Sắc Giới

Vì được không an lập

Nên chẳng trụ Tam Giới

Và ở hư không giới

Nơi ấy không chỗ trụ

Vì không có chỗ trụ

Bình đẳng mà hướng đến

Vẫn không có chút pháp

Trong ấy an trụ được

Nếu được không chỗ trụ

Đây là người diệu trí

Diệu trí không chỗ trụ

Không trụ là thiện trụ

Được an trụ như vậy

Thì trụ trong pháp giới

Vì tương ưng vô trụ

Kia thường hay thiện trụ

Không trụ không y chỉ

Nơi pháp được an trụ

Nếu được không y chỉ

Thí thường không sở động

Chẳng nhập cũng chẳng xuất

Bình đẳng khéo an trụ

Nơi pháp trụ như vậy

Đây là người dũng mãnh

Tất cả pháp không cao

Tất cả pháp không Tháp

Không sở động như vậy

Khéo an trụ pháp giới

Vì an trụ chẳng động

Thành tựu vô trụ xứ

Mà được thiện an trụ

Hoặc xứ hoặc phi cứ

Tất cả không sở động

Trụ ở bất động xứ

Mới gọi là bất động xứ

Nếu trụ bất động xứ

Tất cả không chỗ trụ

chẳng niệm xứ Phi Xứ

Thường trụ vô phân biệt

Vì chẳng trụ nơi xứ

Thì không có sở động

Nơi xứ không sở động

Tất cả được vô trụ

Nếu được vô trụ xứ

Xứ Phi xứ chẳng động

Nếu nơi xứ chẳng động

Là thiện trụ nơi xứ

Thiện trụ xứ an trụ

Thì trụ vô sở trụ

Hay thấy tất cả pháp

Trụ tương ưng trụ pháp

Thấy các pháp như vậy

Các thứ vô sở trụ

Vô trụ không an trụ

Thiện xảo nơi pháp trụ

Thường trụ ở các pháp

Mà không có phân biệt

Vì rời các phân biệt

Đây là người bất động

Nếu hay trụ bất động

Nơi hành vô phân biệt

Rời xa xứ phi xứ

Đây là người quan sát

Nếu hay quán bất động

Tất cả không sở động

Các pháp thường bình đẳng

Như vậy mà hướng đến

Trụ tương ưng chân như

Chân như mà bất động

Người đươc vô động xứ.

Thường trụ nơi vô xứ.

Ngài Vô Biên Thắng Đại Bồ Tát lại bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Rất là hy hữu, Đức Thế Tôn có thể an lập Chư Đại Bồ Tát ở nơi pháp lý thú không có hệ phược, không có giải thoát.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần