Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Bảy - Pháp Hội Bảo Kế Bồ Tát - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ BỐN MƯƠI BẢY
PHÁP HỘI BẢO KẾ BỒ TÁT
PHẦN HAI
Này Tộc Tánh Tử! Ví như trong Cõi Đại Thiên tất cả nhân dân đều làm họa sư có sở tập riêng khéo giỏi chẳng đồng nhau, có kẻ chuyên họa nhà cửa mà chẳng thạo vẽ thân hình, có kẻ giỏi mô hình mà chẳng giỏi tô màu.
Có những người khéo vẽ chân tay, người khéo vẽ mắt mũi, người vẽ đầu mặt chẳng ngay mà thân hình đẹp đẽ, có ngươi vẽ làm vừa lòng kẻ khác, hoặc không vừa lòng, mỗi mỗi thợ vẽ đều tài năng khác nhau.
Nhà vua triệu tập tất cả họa sư khiến họa các hình tượng Tam Giới mà truyền rằng: Mỗi người tự họa tượng đều đem trình lên ta. Các họa sư họp ở một chỗ đều riêng họa hình Tam Giới. Trong số ấy có một họa sư tối thượng vẽ được trọn vẹn.
Này Tộc Tánh Tử! Ý ông thế nào?
Họa sư tối thượng ấy có thể đủ khắp các sở năng hội họa chăng?
Bảo Kế Bồ Tát bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Có thể đủ sở năng.
Đức Phật Phán dạy: Mượn ví dụ được dẫn ra ấy để hiểu nghĩa này. Như một họa sư vẽ đủ các hình tượng đều được đắc thể chẳng sai sót. Cũng vậy, người học pháp này ân cần tinh tiến tịnh tu phạm hạnh đến thành tựu Phật Pháp dùng một chánh hạnh trọn đủ các sự, do đó mà đầy đủ không hạnh không gi chẳng thông đạt bèn được thành tựu tất cả Phật Đạo, trừ hết trần dục các tưởng điên đảo cống cao tự đại, chẳng thích phóng dật, dầu ở trong các uế àc mà chẳng cùng hiệp đồng. Đây gọi là Bồ Tát đầy đủ không hạnh.
Lúc Đức Phật nói lời trên, có tám ngàn Bồ Tát khắp đủ không hạnh được pháp nhẫn. Đây là Phật nói tịch độ vô cực hạnh thanh tịnh.
Đức Phật bảo Bảo Kế Bồ Tát: Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát trí độ vô cực hạnh thanh tịnh?
Có mười hai sự làm hạnh thanh tịnh: Thấy quá khứ huệ không chướng ngại, thấy đương lai huệ không chướng ngại, thấy hiện tại huệ không chướng ngại, các pháp hữu vi vô vi đều hay hiểu rõ, tất cả nghệ thuật thế gian đáng được tạo nghiệp đều hiểu rõ để độ đời.
Phân biệt nói nghĩa Chân Đế biết sở tập của chúng mà tuyên rõ bổn mạt, tất cả chúng sanh căn tánh đến đâu người ngu liệt, người minh đạt và người Trung Dung trí huệ biết quá khứ vị lai không có chướng ngại, Thánh trí nguy nguy vượt hơn thế trí.
Thấy rõ trí tánh sở hành của chúng sanh hình sắc biến dị, nghĩa thâm áo khó hiểu khó đến tiêu hóa các kiến chấp rời lìa các sự tà các chỗ ở chướng ngại vào nơi Thánh huệ, cùng khắp chúng sanh vào nơi pháp huệ, hiểu rõ nghĩa thú trong Thánh tạng rõ thấu chân tế.
Trí sáng soi rõ không sai loạn cũng không chướng ngại, quan sát thời tiết vô lượng thích đáng, sự được thấy đều rành rẽ không hề sót mất, hiểu biết chắc thiệt chẳng diệt tận, trí này quan sát tất cả vô ngại, bởi dùng một hành duy nhất mà không có sở hành thấy hết chỗ phụng hành oai nghi lễ tiết của chúng sanh, tâm chí sở thu của nhân dân thế gian Bồ Tát này đều thấy rõ.
Chẳng rời thế gian mà tập siêu độ cảnh giới các thế gian, còn chưa thành tựu Phật Quốc độ mà đều vượt khỏi tất cả nhân duyên sở tác khai hóa chúng sanh, hơn các hạnh mà khắp cứu cánh các đức hạnh, rộng độ tất cả nhân duyên tâm hành, đều thấy tâm niệm của chúng sanh Hộ Pháp thế gian không đâu chẳng khắp, chẳng bỏ thế tục chỗ làm được chúng sanh tín nhiệm.
Xét trí huệ ấy không có gấp vội, chẳng phạm hí luận, các căn tịch định chưa hề mỏi lười tán loạn, tương ưng Thánh huệ thường hiệp Thánh Đức, đến Bồ Đề thọ ngồi Đạo Tràng hàng phục chúng ma trừ bỏ ngoại đạo, hành đại lợi ích, Thánh trí suốt khắp cũng không có sở thủ.
Đại Thánh kiến lập được an trụ Chư Phật làm an vui chúng sanh, thấy hết định huệ vào khắp các nghĩa thú tất cả các pháp đều đồng một vị, nắm quyền phương tiện trí độ vô cực vượt đến bờ kia chẳng hạn lượng được.
Đây mới gọi là trí độ vô cực, đều có thể rõ hiểu tất cả nhân duyên, ý tưởng phát ra thoại ứng liền hiện cảnh lạ liền biến, tâm hành niệm khởi đều được cứu cánh. Đây gọi là đến bờ kia. Lại trí huệ này có hai điều thanh tịnh.
Một là hạnh vô ngại huệ tưởng thanh tịnh.
Hai là nghiêm tịnh, chẳng thể có ai đương nổi tướng trí huệ ấy.
Còn có hai thanh tịnh:
Một là trừ sạch phiền não.
Hai là bỏ hết các kiến chấp.
Lại nữa Bồ Tát ấy hiện hành trí huệ không đâu là chẳng vào khắp. Đầy đủ Thánh Minh hiểu rõ chúng sanh biết thấu Kinh Điển.
Bồ Tát này dùng trí huệ ấy hiểu vô sở hữu mà đều vào trần lao hóa hiện ái dục sanh trong các loài ở trong các cõi, kiến lập trí huệ đi khắp Quốc Độ đều hiểu rõ cảnh giới, trí huệ chắc thiệt chẳng vượt kia đây cũng ở trung gian. Huệ ấy khắp vào thấy cả mười phương vô ngại.
Dụng thì không che khuất, đến không biên tế, huệ thấy chắc thiệt hiểu rõ tất cả các pháp: Gốc, ngọn, bộ, đảng, thời tiết. Đã có thể biết rành Chân Đế trí huệ ý nghĩa đến đâu, không ứng chẳng ứng, không đồng không khác, chẳng lười chẳng lui, chẳng đôi chẳng lẻ, thấy các pháp cũng không ứng hiệp.
Này Tộc Tánh Tử! Nếu Bồ Tát thật hành những sự trí huệ, dùng trí huệ làm nhà thì thành phước đường đốc tín danh đức, tột đến Đạo pháp an trụ tổng trì, đầy đủ tất cả phân biệt trí biện, đầy đủ sự nghiệp trí huệ. Đây là Bồ Tát phụng tu trí độ vô cực hạnh thanh tịnh vậy.
Đức Phật giảng dạy lời trên xong, trong Pháp Hội có hai vạn hai ngàn người đều phát tâm vô thượng bồ đề, tám ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn, năm ngàn Tỳ Kheo lậu tận ý giải, một vạn Thiên Tử xa trần lìa cấu đắc Pháp nhãn tịnh.
Lúc ấy Chư Thiên lên tiếng khen rằng: Nếu có chúng sanh nào được nghe pháp môn các độ vô cực đạo hạnh thanh tịnh này thì được Chư Phật thọ ký. Huống là người được nghe rồi thọ trì đọc tụng thật hành như lời.
Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Sao gọi là Phật Đạo phẩm Pháp Hạnh Thanh Tịnh của Bồ Tát: Bồ Tát tự quán thân mình biết vốn không có thân đây là ý chỉ.
Do hai sự mà lập chí mình: Một là xét sự hoang uế, hai là quán hạnh thanh tịnh.
Sao gọi là hoang uế?
Bồ Tát xét thấy thân thể vô thường chứa đầy vật bất tịnh, thân này sức mỏng kém yếu, không thế lực, thân này chống đứng như nhà nghiêng xẹo.
Sao gọi là quán tịnh?
Bồ Tát suy nghĩ rằng: Tôi phải dùng thân bất tịnh này siêng cần hiểu pháp không được thân pháp thân Như Lai. Pháp thân đồ sộ, đức thân vô hạn vì các chúng sanh mà thị hiện sắc tượng làm lợi vui cho tất cả. Bồ Tát quán thân hai sự như vậy để lập ý chí mình.
Lại này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát quán thân thấy không có thân rồi thì được hai pháp thanh tịnh: Một là thấy vô thường, hai là xét vô thường thân này vô thường chẳng còn lâu già bệnh hội họp tất sẽ phải chết. Đã thấu nghĩa ấy nên chẳng đem thân tạo các tà nghiệp. Vì không tham thân thì tu pháp yếu vững bền, thật hành ba pháp vững bền là thân yếu, mạng yếu và tài yếu.
Thân này vô thường mà chúng sanh quí trọng có lợi ích gì thật đáng thương xót.
Sao gọi là thân yếu?
Thân chẳng phạm ác, khiêm ti cung thuận cúi lạy bực đại trí.
Sao gọi là mạng yếu?
Quên mình bố thí cung cấp nguời nghèo thiếu. Thân này chẳng phải sở hữu của ta, miệng thốt ra lời phần nhiều có lỗi, dua nịnh gièm pha thô tục bất chánh, bỏ hết hành vi ấy chẳng còn phạm quấy nữa.
Đã thấy không có thân nên chẳng bảo trì thọ mạng, dầu bị hại cũng chẳng gây tội ác. Hiểu thân này vô thường là thứ chia lìa nên chẳng phạm lỗi.
Tất cả sở hữu đem bố thí không tham tiếc. Đã biết không có thân nên đưọc đức lành công huân hiểu rõ chẳng thể hạn lượng được.
Sao gọi là hữu thường?
Nếu Bồ Tát quán thân thấy không có thân phải thời nhiếp lấy giữ gìn, huệ tâm quán chiếu nhất thiết trí, chẳng trái lời Phật dạy, chẳng mất pháp ngôn, chẳng hư Thánh Chúng, khuyến hóa lê thứ ngự trị nhân dân, đây gọi là hữu thường.
Nói là thường vì là vô tận vậy. Nói là vô tận chính là vô vi vậy. Cùng đạo hiệp đồng vô chung vô thỉ huyền diệu hằng còn, đây gọi là vô vi. Vô vi ấy là thường vậy.
Bồ Tát an trụ nơi ấy, dùng các cội công đức quán sát thông huệ đến nơi vô vi, đây gọi là hữu thường. Gọi là thường, do vì là không, vô tướng, vô nguyện.
Tu đạo Bồ Tát thường phụng hành không, quán vô tướng, chẳng chấp vô nguyện, khắp có đủ hạnh tinh tiến, đây gọi là hữu thường.
Nói là thường, nghĩa là như hư không. Tâm Bồ Tát bình đẳng như hư không vậy, không có tư tưởng. Phụng hành như thế mới là Bồ Tát. Đây gọi là hữu thường vô thượng chánh chân.
Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Bồ Tát quán thân lấy vốn không có thân thì gọi là ý chỉ. Tất cả thân người đều vốn không có. Bởi biết thân không có nên ý không chấp trước. Bồ Tát quán chúng sanh thân đứng tại Phật Thân.
Nên quán như vậy: Nếu thân Như Lai không có các lậu thì thân tôi cũng vậy. Xét nơi các pháp mà phụng hành đạo nghĩa chẳng sai lời Phật dạy.
Được thân vô lậu mà quán chúng sanh phân biệt các tướng, dùng thân vô lậu thanh tịnh vô lậu, bổn tế cũng thanh tịnh, như cội đức ấy kiến lập các công hạnh khuyến trợ cội đức cũng không có các lậu. Bởi hay kiến lập nên pháp vô lậu nên có thể an trụ các lậu.
Sao gọi là các lậu?
Đó là dục lậu, hữu lậu và kiến lậu. Bồ Tát dứt hết dục lậu dầu có sanh nơi Dục Giới mà khai hóa chúng sanh. Đã dứt hữu lậu dạo đi trong sanh tử, ở nơi các cảnh thọ mà giáo thọ nhân dân.
Lại kiến lậu là lậu vô minh mê tối. Nơi đây, Bồ Tát tinh tiến chằng lười, cứu cánh tinh tiến nhổ sạch gốc nguồn nó.
Bồ Tát này nếu quán thân phụng tu ý chỉ vượt khỏi các hạnh nghiệp chẳng nên làm từ thuở xa xưa, rời lìa những uế ác mà an trụ tịch tĩnh, đây mới là quán thân.
Bồ Tát này không có sở độ cũng không có sở sanh không có sở vị, đây mới là quán thân. Bồ Tát này quán thân rồi chẳng thấy có thân cũng không có đối tượng quán sát, bỏ niệm tham thân chẳng chấp ngô ngã. Đã không có ngô ngã thì không có sở tham.
Đã không có sở tham thì không có sở tránh. Đã không có sở tránh thì không có hận thù. Đã không có hận thù thì được pháp nhẫn. Đã được pháp nhẫn thì không có sở qui.
Đã không có sở qui thì không có sốt bạo. Đã không có sốt bạo thì chẳng tự tại mà an trụ nơi pháp. Đã ở nơi pháp thì chẳng hành phi pháp.
Người thuận pháp hành thì thường cùng chung với pháp. Người tu Đạo pháp thì được pháp từ. Đã thọ pháp từ thì nghe pháp âm. Đã hành pháp âm thì chẳng nghe âm thanh Thế Giới. Đã vắng bặt âm thanh Thế Giới thì được tam muội. Đã được chánh thọ thì trí quán sát thiệt. Đã quán sát thiệt thì không có sở tưởng. Đã không có sở tưởng thì không có sở tác.
Đã không có sở tác thì không có phi tác. Đã ở nơi các sở tác không có tác không có phi tác đến pháp chánh chân thì các pháp bình đẳng. Đã bình đẳng các pháp thì đến Nhất Thiết trí. Đây là Bồ Tát quán thân biết vốn không có thân ý chỉ hạnh thanh tịnh.
Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Sao gọi là Bồ Tát thống dượng ý chỉ?
Bồ Tát quán thống dượng vốn không có thống dượng mới là ý chỉ. Quán các thống khổ đều thấy chúng sanh, những kẻ đang bị hoạn nạn, vì họ mà rơi lệ thành tựu đại bi.
Bồ Tát nghĩ rằng chúng sanh bị khổ não nếu được an ổn thì không có thống dượng, vì họ mà dứt trừ tất cả sự nguy hại. Dẫn đến quán sát thống dượng biết vốn không có thống dượng, hiện hành ý chỉ.
Đã diệt trừ thống dượng rồi vì các quần sanh mà mặc giáp đại đức, trước tự tiêu sạch các hạnh nghiệp phi pháp nơi thân, cũng chẳng tưởng niệm diệt trừ thống dượng của mình.
Nếu có gặp sự đau khổ, thì khắp vì tất cả chúng sanh mà sanh lòng đại bi, vì họ thị hiện thường an lạc tiêu trừ hẳn các hoạn nạn.
Vì người tham dục khởì lòng đại bi, trước tự trừ tham dục chẳng bị dục tham trói buộc, dầu thân bị khổ cũng chẳng lấy làm khó khăn.
Vì người sân giận mà phát khởi đại bi tự trừ lòng sân giận, quan sát thấy sự thống dượng không khổ không vui vậy. Vì người ngu simà khởi đại bi diệt trừ dây ngu si của mình, quan sát thống lạc không chấp trước tiêu trừ các kiết sử mà tự do an ổn, nếu bị khổ thống chẳng lấy đó làm lo buồn, bỏ các hữu vi thì có thể phụng tu khiến không có chỗ vui để phá trừ ngu si, nếu gặp lạc thống thì không tích tụ, nếu gặp hoạn nạn thì rõ thân vô thường quan sát khổ thống vốn không có ngã.
Bồ Tát quan sát lạc thống tu hành an ổn, quan sát khổ thống thì bị hoạn nạn, vì thế nên gọi là chẳng vui chẳng khổ. Dầu có thấy sự an lạc đều qui về vô thường, còn các sự khổ cũng đều vô ngã.
Bồ Tát quán lạc thống tu hành an ổn, quán khổ thống là bệnh hoạn, vì thế nên gọi là chẳng lạc chẳng khổ. Giả sử xem thấy những sự an lạc thì đều qui về vô thường, có những sự khổ thì quán nơi người khổ, là chẳng khổ chẳng lạc cũng là vô ngã.
Bồ Tát nếu thấy các sự an lạc thì biết rõ tất cả vốn là không an. Quan sát thống dượng biết thống dượng không có gốc nó vừa sanh khởi thì liền dứt diệt. Biết rõ các pháp không thể lâu dài, xét nơi vạn vật như ngọn lửa sanh rồi bỗng tắt.
Xem tất cả các pháp sanh ra như bóng: Nó từ đâu đến mà liền tan mất. Quán nguồn gốc các pháp như nhìn bàn tay từ đâu đến rồi đi đến đâu, liền biết nó không từ đâu lại, đi không chỗ đến.
Do quán các pháp như vậy nên chẳng bị câu phược mà thấy khắp tất cả chân thiệt tịch diệt, nhân đây mà thành đạo, cũng không có sở đắc chẳng còn thối thất.
Tại sao?
Bởi có thể thấy được tất cả chúng sanh căn bổn sanh khởi mà cầu tịch diệt chớ chẳng vì thân mình mà cầu tịch diệt vậy. Đây là Đại Bồ Tát thiện quyền phương tiện dùng đại bi quán thống dượng biết rõ không có thống dượng, hành ý chỉ tiêu trừ các kiến chấp biết rõ nơi đây, chẳng lấy sự diệt trừ các thống dượng siêu quá Tam Giới mà thủ chứng chân tế vậy.
Bồ Tát này ở nơi các thống dượng quan sát nơi Đức Phật tán thán căn bổn hiểu thấu các thống dượng tịch mặc điềm đạm vốn không có sở hữu cũng không bị khổ hoạn.
Vĩnh viễn không bị khổ hoạn các pháp đều không rời lìa ngô ngã, luống thấy các pháp hiệp hội đều nương nhân duyên đều không có chủ cũng không ngô ngã, bỏ các sở kiến không có trưởng dục.
Bồ Tát quán sát như vậy thì thấy Chân Đế, nhân duyên hội hiệp đều vô sở đắc, đã bất khả đắc thì quan sát như vậy: Như nhân duyên không từ nơi ấy kiến lập các pháp cũng không. Đã đạt nghĩa không rồi mới là quán thống dượng vốn không có thống dượng là hành ý chỉ vậy. Đó là tịch mịch thân đạm bạc tuyển trạch các nghĩa đạo thánh trí huệ. Đây là Đại Bồ Tát quán thân thống dượng rõ thấu vốn không có thống dượng thành ý chỉ tịnh hạnh.
Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Bồ Tát quán tâm rõ thấu vốn không có tâm thành ý chỉ hạnh, lập đạo tâm.
Đã được lập tâm liền dùng ý huệ của mình mà tìm tâm bổn: Chẳng thấy nội tâm chẳng thấy ngoại tâm.
Xét tâm bổn ấy chẳng thấy Ngũ ấm, không có các đại chủng, không có các nhập, tâm Bồ Tát liền tịch định tìm nơi chỗ tịch định từ đâu khởi lên?
Bồ Tát lại suy nghĩ: Hễ tâm khởi thì duyên khởi.
Rồi lại suy nghĩ: Tâm ấy khác hay nhân duyên khác?
Liền tự hiểu rằng giả sử nhân duyên khác tâm ấy thì có hai tâm. Giả sử nhân duyên là tâm và tâm là nhân duyên, nếu như vậy thì tâm chẳng thấy được tâm, người chấp nơi tâm chẳng phải là chẳng thấy tâm.
Như các bụi trần hư giả không thiệt, đứng nơi hư không bị dao bén đứt ngón tay thành vết thương, ngón tay đã lành không còn đau khổ. Cũng vậy, tâm chẳng thấy tâm, cái mà tâm thấy ấy là không chỗ bị thấy.
Nên quán như vậy: Chỗ tâm an trụ cũng chẳng sanh tội, chẳng thấy đoạn diệt cũng chẳng nghĩ là thường còn. Cũng không có thân, thân thể như tường vách nhân duyên chẳng sai loạn chẳng rời chẳng một chẳng khác, đây là tâm vậy.
Gìn tâm như vậy: Do pháp mà tâm động, tâm không có sở trụ cũng không có sở hành, tâm chẳng thể thấy, tâm tướng tự nhiên. Hiểu rõ như vậy thì chằng rời sở kiến mà tâm vắng bặt biết rõ không có bổn tánh. Đây là Bồ Tát quán tâm không có tâm làm ý chỉ vậy.
Lại này Tộc Tánh Tử! Nếu tâm chẳng khởi lên mà chẳng thể thấy thì không có tưởng không có ứng không có chẳng ứng cũng không khinh mạn thì chẳng phóng dật. Đây là quán tâm biết vốn không có tâm làm ý chỉ vậy. Lại như tâm không có sắc, nhân duyên hòa hiệp ấy và các biện tài cũng đồng như vậy, đức vốn không có sắc.
Như tâm vô vi, đức cũng không có sắc, đạo tâm được quan sát cũng không có sắc. Nếu đạo tâm và trợ đạo không có hình sắc thì đạo cũng như vậy đều không chỗ có. Vì thế nên nói rằng: như tâm ấy các hành cũng như đó.
Nếu trợ và đạo tâm đều như, như đạo tâm ấy, nhân tâm vốn thanh tịnh cũng như đạo. Đạo tâm vốn thanh tịnh, tất cả các pháp cũng như vậy. Như tâm ấy mà hiểu rõ khắp vào, đây là Bồ Tát quán tâm không có tâm làm ý chỉ vậy.
Các khổ hoạn não hại chưa hề dừng nghỉ, như khỉ vượn, như dòng sông chảy xiết, cũng như ngọn đèn dầu ánh sáng tỏa ra bỗng chiếu đến chỗ xa, không có thân hình mà dễ thối chuyển, tham lẫn các cõi, bị sáu căn làm hại dùng làm nhà cửa, giây lát biến hoại thì đều tan đi.
Tâm không có nơi chỗ mà riêng mình du hành, không có vững thiệt cũng không chẳng thiệt, vắng lặng riêng mình quán sát. Đây gọi là quán tâm không có tâm ý thanh tịnh vậy.
Tâm được trí huệ, pháp giới của tâm là chỗ ở của trí huệ, sáng ấy vốn thanh tịnh sạch sẽ không ô uế, biết tâm chân thiệt, tâm rõ hiện tại, mắt chỗ được thấy, Tâm pháp bình đẳng, trí huệ cũng như tâm, tâm bình đẳng Tam Thế.
Đã được bình đẳng thì biết chân thiệt tâm huệ tự nhiên không hộ không trì không thể thấy được. Đây gọi là quán tâm không có tâm làm ý chỉ vậy.
Nếu tâm vốn thanh tịnh thì là tự nhiên. Tâm vốn thanh tịnh thì rõ tâm chúng sanh vì tâm thanh tịnh vậy. Khai hóa nhân dân vì họ thuyết pháp để họ hiểu biết.
Tâm đã tự nhiên, tất cả chúng sanh cũng đều tự nhiên. Nếu hay phân biệt tâm như vậy thì thấy tâm tướng họ mà vì họ thuyết pháp.
Như tâm tướng tự nhiên, chúng sanh tâm tướng tự nhiên như vậy, nếu hay đạt tâm tướng ấy thì hay vì họ mà thuyết pháp. Tâm mình không thì tâm chúng sanh cũng không, mình hiểu không mà vì họ thuyết pháp.
Chế ngự tâm mình bình đẳng thì có thể bình đẳng chế ngự họ mà vì họ thuyết pháp. Thân mình bình đẳng, tâm mình đã bình đẳng thì bình đẳng chúng sanh. Đã bình đẳng chúng sanh thì bình đẳng các pháp. Đã bình đẳng các pháp thì bình đẳng Chư Phật.
Hiểu Chân Đế này thì chẳng khiến tâm mình rời lìa tham dục mà chẳng ở nơi dục. Tâm đã dừng dứt rồi thì vào pháp giới đến nơi tự nhiên, tâm vô sở trụ ở nơi pháp không động. Đây gọi là Bồ Tát quán tâm không có tâm ý chỉ thanh tịnh vậy.
Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát quán pháp biết vốn không có pháp là ý chỉ hạnh.
Bồ Tát nghĩ rằng: Pháp khởi thì khởi, Pháp diệt thì diệt, xét nơi gốc ngọn cũng không có thân ta, không có nhân, thọ mạng, chúng sanh, sanh lão bệnh tử, chết mất đến kia.
Trong các pháp ấy, các pháp hiệp hội, nhân nó hiệp hội mà làm tập tục, nếu không có duyên hiệp hội thì không có pháp ấy.
Từ nơi quen thích ấy làm nhân mà có duyên hội hiệp thì sanh khởi gốc lành cùng gốc dữ để rồi quy về vô thường không có duyên hội hiệp. Chẳng từ không có quen ưa mà khởi các pháp.
Bồ Tát quán như vậy hiểu rõ các pháp, thấy chỗ quy về cũng không chỗ có, là không, vô tướng, vô nguyện.
Chỗ làm công đức và không công đức, các việc làm ấy đều như ảo huyễn vô thường, phải hành tinh tiến.
Nếu hưng khởi nhân duyên có mười điều tuân hành cứu cánh vô ngại từ bỏ nhân duyên chí vững đại pháp.
Những gì là mười?
Thân thanh tịnh không có cấu uế đủ các tướng hảo, vô kiến đảnh kiến siêu độ tất cả những sự xâm hại, chí tánh thanh tịnh đủ có mười sự, nội tâm thanh tịnh đầy đủ chánh hạnh. Sáu mươi ức âm thanh từ miệng nói ra làm vui đẹp các chúng sanh.
Tâm thường nhân từ thường xót tất cả không hề làm tổn hại, ý thường tại định không hề tán loạn. Biện tài thanh tịnh phàm có giảng thuyết đều đúng pháp đúng nghĩa biện tài vô tận.
Đại từ thanh tịnh khuyến hóa chúng sanh tất cả đều khuyến khích cảnh Niết Bàn. Đại bi thanh tịnh vô ương số kiếp chẳng chán sanh tử. Thanh tịnh mười trí lực hiểu rõ căn tánh ý niệm của chúng sanh đều riêng biệt chẳng đồng.
Thanh tịnh vô úy phân biệt chấp trì vô ương số pháp, chúng sanh tích tụ muốn đủ pháp bất cộng của Chư Phật. Trí huệ biết Tam Thế quá vị hiện tại vô ngại. Pháp thanh tịnh của Chư Phật có thể ứng dụng tự tại vì quy hướng Thánh huệ vậy. Đây là mười điều.
Bồ Tát đã được mười hạnh đại pháp vi diệu cứu cánh vô ngại rồi xứng lượng tư duy chẳng hề mỏi nhàm tích tập công huân mà chẳng hư mất sa vào hạnh vô đức, luôn ân cần tinh tiến.
Sao gọi là các pháp căn nguyên bổn lai kiến không có xứ sở?
Vượt khỏi sở trụ các tích tập trần lao, đã hiểu rõ vạn vật tất cả vô thường thì có thể thành vô thường tam muội. Người được chánh định này chẳng rời tam muội, theo bổn nguyện của mình thị hiện thọ sanh, đến có chỗ sở nhập mà lại xuất sanh, dùng các hạnh công đức tuyên thuyết khai hóa các chúng sanh.
Đây là Đại Bồ Tát thiện quyền phương tiện khắp diễn thuyết Kinh Điển, quán nơi các pháp thấu biết không có pháp làm ý chỉ vậy. Có người nào đến đạo tuân tu đúng như Kinh Điển.
Nếu hay hiểu rõ các pháp đạo phẩm, chẳng làm các sự lành, chẳng thấy có thường cũng không chấp trước, chẳng trừ các pháp ác, đạo tâm hiển rõ chẳng dứt, cũng chẳng chấp có thường chẳng đọa đoạn diệt. Nếu có Bồ Tát dứt bỏ các sự chấp thường chấp đoạn, giữ lòng bình đẳng vô sở trụ mà ở trung gian.
Sao gọi là trung gian?
Không khởi niệm, trừ hết vô minh, đây gọi là trung gian. Không có giáo hóa không có dạy truyền, không có ngôn không có thuyết, đây gọi là trung gian.
Tóm lại mà nói, vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thống ái, thủ, hữu, sanh lão, bệnh tử, ưu bi khổ hoạn đều đã trừ hết, đây gọi là trung gian.
Người an trụ trung gian, không bị sai khiến cũng không kẻ khiến, xét sờ hữu thì không có giáo lịnh không có dạy truyền, xét bổn mạt thì không thể biết được không có xứ sở, chẳng nắm bắt được thì không chỗ chấp lấy, tịch mịch đạm bạc bỗng nhiên đã dứt diệt, đây gọi là trung gian.
Này Tộc Tánh Tử! Ví như tiếng vang không có xứ sở, người thấy Chân Đế thì sa vào nơi chân ngụy. Trung gian đây không có ngôn không có thuyết, không có thấy cũng không có xứ sở.
Này Tộc Tánh Tử! Nhân do hưng phát là việc của thức và sắc cùng giáo lịnh, nhân do hiệp thành là từ hai duyên đối đãi. Trung gian ấy là không có giáo lịnh không có ngôn thuyết, đây gọi là trung gian.
Nhân duyên hiệp thành chẳng cần nghĩa lý. Nghĩa lý ấy là bất khả đắc ấy là chẳng trùng lai. Chẳng trùng lai ấy gọi là trung gian.
Lại người quán ngã thì rõ vô ngã, nơi đây tịch diệt, đối với ngã và vô ngã tự nhiên thanh tịnh, đây gọi là trung gian. Quán nhân thọ mạng, đối với nhân thọ mạng mà không có sở kiến thanh tịnh tự nhiên, đây gọi là trung gian. Đối với tưởng và vô tưởng mà không có tưởng vui, đây gọi là trung gian.
Những sự sở đắc điên đảo được hưng khởi mà không có sở hữu, đây gọi là trung gian. Hư vọng ngu si cùng giáo thuyết chí thành đều chẳng có được, đây gọi là trung gian. Bờ đây bờ kia tiêu hóa thân mình không để có chỗ dính mắc, hữu vi vô vi chẳng hành chẳng tập, đây gọi là trung gian. Bỏ trừ sanh tử mà đến Niết Bàn, đều không có ngôn giáo, đây là ở trung gian.
Này Tộc Tánh Tử! Người quán sát nơi pháp biết pháp vốn không có làm y chỉ, chẳng hoại pháp giới tâm ý tự nhiên mà được ý chỉ, nhập vào pháp giới hiểu rõ các pháp, quán pháp giới ấy cùng với nhân giới, nơi pháp giới kia cũng không hư hoại chẳng hư nhân giới.
Pháp giới và nhân giới, hai sự ấy đồng như hư không giới. Bồ Tát này dùng một giới mà thấy khắp các pháp. Dùng huệ nhãn thấy thì dùng pháp giới quán sở hành của Phật.
Giả sử có người chẳng tuyển trạch pháp, Bồ Tát này không thấy, do cớ đây nên các pháp bao nhiêu đều thấy không có bổn pháp chẳng thấy có bao nhiêu.
Nếu do quán pháp mà thấy vốn không có, thì chẳng nhục nhãn thấy, chẳng thiên nhãn thấy, chẳng huệ nhãn thấy.
Tại sao?
Vì nhãn ấy rời lìa phân biệt vậy. Chẳng nhục nhãn thấy thì nhãn ấy chẳng sa vào hành sanh tử. Chẳng Thiên nhãn thấy thì chẳng dùng nhãn ấy hành nơi phóng dật. Chẳng huệ nhãn thấy thì quán pháp rõ pháp vốn không có. Khắp thấy các pháp không có xứ sở, pháp không có sở trụ.
Đã thấy các pháp không có sở trụ thì hành pháp ý, thì chẳng trái mất thệ nguyện xa xưa. Đây là Bồ Tát tùy thuận lời Phật dạy mà tự lập ý quán sát các pháp thâm diệu chẳng bỏ vô thượng bồ đề vậy. Đây là Bồ Tát quán không có pháp ý chỉ hạnh thanh tịnh.
Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Bốn ý chỉ hành bốn tinh tiến.
Những gì là bốn?
Quán thân không có thân, trừ bỏ chấp kiến điên đảo thấy có thiệt, bất tịnh cho là tịnh.
Quán thống không có thống, trứ bỏ tưởng điên đảo cho khổ là vui.
Quán tâm không có tâm, trừ tưởng chấp vô thường cho là thường.
Quán pháp không có pháp, trừ tưởng không ngã cho là có ngã.
Nơi bốn điên đảo này mà tu bình đẳng thì không có chấp trước.
Bồ Tát nếu có thể tu hành bình đẳng thì có thể thanh tịnh tất cả cộng hạnh Bồ Tát phụng hành công hạnh bình đẳng thanh tịnh vi diệu này thì đến pháp nhẫn tên là bốn ý đoạn pháp nhẫn.
Sao gọi là ý đoạn?
Hành giả thanh tịnh giảng thuyết đạo pháp, do đây tự nhiên tùy thuận thiện bổn, chẳng theo ác bổn, chẳng phát sanh lỗi lầm.
Những mầm mống ác bổn chưa sanh thì chẳng cho sanh khởi. Vì tu tinh tiến nên những ác ngôn phàt khởi sự phi pháp liền dứt diệt.
Vì tu tinh tiến nên các sự thiện đúng pháp được khuyến khích phát sanh. Những pháp lành đã khởi thì càng thêm tinh tiến làm cho tròn đủ chẳng để quên mất.
Lại nữa, Bồ Tát vốn Tu Tịnh Nghiệp, hay tự kiềm chế giữ gìn chẳng để mất pháp lành được an trụ tự tại lần lần tăng trưởng hiển dương thiện pháp.
Thiện pháp đã hưng thạnh rồi thì chằng còn quên mất. Bồ Tát này tu hành thanh tịnh bốn ý đoạn ấy đầy đủ Bồ Tát hạnh tâm được tự tại tinh tiến chẳng loạn, thanh tịnh vô cấu chẳng trái với trí huệ Phật, thuận theo Đạo Giáo thật hành đại bi, tâm tâm thấy nhau, xem nơi sở niệm chẳng mất tinh tiến đã hiện hành bình đẳng, đây gọi là được ý đoạn.
Tại sao vậy?
Vì từ nơi bình đẳng an lành chẳng cần trái bỏ ác tà. Do nơi an lành chẳng theo ác tà bèn được ý đoạn bình đẳng tam muội, Đã được tam muội rồi thì gọi là bốn ý đoạn bình đẳng vậy.
Đức Phật bảo Bảo Kế Bồ Tát:
Nếu hay tu hành bốn ý đoạn ấy thì hay phụng hành đầy đủ bốn thần túc: Dứt trừ tham dục, phụng hành tinh tiến thì làm cho đạo tâm tịch tĩnh không nhiễm uế ít suy tư. Đã bỏ phí pháp rồi thì được khinh an thành tựu đại bi. Tinh tiến khinh an được quyền phương tiện, nhân đây thành bốn thần túc thăng lên nhà đạo được bốn tự tại.
Những gì là bốn tự tại?
Một là thọ mạng tự tại, Bồ Tát này đã được trường mạng. Vì thọ đã vô hạn nên ở trong đoản mạng mà đầy đủ Vô Lượng Thọ khuyến hóa chúng sanh nghe pháp quán sát. Hoặc với người nhàm mỏi thì hiện đoản mạng cho nó khát ngưỡng chánh pháp ân cần cầu học. Bồ Tát này sanh chỗ nào, hoặc trên Trời nhân gian đều được tự tại nơi thọ mạng của mình.
Hai là thân khẩu tự tại. Bồ Tát này thân khẩu như ý, tâm chẳng dựa nơi thân tùy ý hiện hình dung mạo sắc tượng, nhân nơi chúng sanh oai nghi lễ tiết, thân nó xấu tốt, dài ngắn lành dữ.
Bồ Tát này nhập chánh định tư duy dùng luật nghi nào có thể khai hóa, họ?
Theo đó Bồ Tát hiển hiện hình mạo mình ngồi đứng tới lui. Trong khoảnh khắc tác ý, Bồ Tát này hóa hiện đủ tất cả nhân sĩ thân hình nhan sắc đồng loại với họ, rồi vì họ mà thuyết pháp.
Ba là thuyết pháp tự tại. Bồ Tát này ở trong Tam Giới nắm giữ chánh pháp độ thế, chẳng làm pháp thế tục. Dầu tùy theo tập tục hiển hiện các sự cảnh mà chẳng xa rời trí huệ độ thế, cũng không lầm lỗi, thường hiệp với đạo thâm áo trí huệ vô ngại. Hoặc tại thiên thượng, hoặc tại nhân gian. Bồ Tát này tùy theo ngữ ngôn của mọi loài làm cho vô số chúng sanh đều thuận luật giáo, đều được quả toại nơi chỗ nguyện cầu.
Bốn là quốc độ tự tại. Bồ Tát này tâm đã được tự tại rồi, nhiếp bao nhiêu đại hải trong Cõi Đại Thiên hiệp vào một đại hải, cũng không có qua lại để biến hóa.
Đem bao nhiêu núi Tu Di lập lập làm một núi, mà tất cả Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi đều chẳng hay biết sự hiệp tan qua lại ấy. Hoăc hiện rừng cây, hoặc hiện cả hư không, hoặc hiện các thứ châu báu, tùy ý kiến lập phương tiện cứu độ chúng sanh. Công việc xong rồi thoạt nhiên hoàn lại như cũ.
Này Bảo Kế! Bồ Tát ấy dùng bốn hạnh thần túc để tự tu tập, cùng Chư Phật mười phương chung đàm công luận, ngồi đứng kinh hành không rời bên Phật.
Đồng thời cùng Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, các Thiên, Long, Quỷ, Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân và Phi Nhân, tất cả mọi loài chúng sanh luận đàm thuyết pháp đứng ngồi đến đi.
Tại sao vậy?
Vì Bồ Tát này thần túc vi diệu tự tại quảng đại vô lượng. Do nơi Bồ Tát từ xa xưa tu hành pháp hành không hề kém khuyết nên được như vậy.
Sao gọi là tu thần túc?
Bồ Tát ấy từ xa xưa tu hành pháp lành, coi nhẹ thân mình, cung kính bực tôn trưởng, phụng thờ hầu hạ chẳng biết mỏi nhàm, khiêm ty hạ ý, chẳng có lòng tự đại tự cao, miệng luôn nói lời lành làm vui dẹp mọi người, kính yêu tất cả.
Cúi đầu tự quy, đầy đủ lễ tiết, ngôn hạnh tương xứng, lòng dạ mềm mỏng không kiêu không tự, không có ác ý, luôn luôn khiêm cung điều phục tâm ý, nghe nhận lời tôn trường, thuận giáo quỳ lạy, giữ lòng mềm dịu chế ngự ý chí tinh tiến tu hành chưa hề rời bỏ.
Bồ Tát này đầy đủ lễ tiết oai nghi đúng chánh giới, cử động khác người, lòng chẳng biến lười khinh mạn, cũng chẳng phóng dật thuận theo tâm niệm tham dục, sân khuể, ngu si.
Dứt trừ đây rồi thì không có tham lam tật đố, tham của tham ăn tự hết, tịch tĩnh vô sanh, bệnh tật tiêu lành, các cái chướng năm ấm gánh nặng đều dứt khỏi. Đem ơn huệ ban bố cho chúng sanh. Làm cầu làm đò, dùng thuyền đò đưa tất cả chúng sanh qua khỏi dòng nước sâu rộng.
Theo cơ khai hóa chúng sanh: Kẻ loạn làm cho chánh, kẻ rối lảm cho định, kẻ vạy làm cho ngay, kẻ hủy báng thì cười, chẳng ngại nghịch cảnh, giải quyết hồ nghi, nói điều hay lạ, trấn an động điêu, thương cứu mọi loài, giác ngộ kẻ mê, của quí đem bố thi về sau không hối tiếc, giúp đỡ chúng sanh khuyến khích đạo tâm.
Bồ Tát này nếu thấy người tích lũy cội công đức thì thay họ mà vui mừng, chưa hề tự khen tự an, thấy người được an thì mừng rỡ khen ngợi.
Bồ Tát này dễ nuôi, hay biết đủ chẳng mong lợi lộc của người khác. Bồ Tát này ưa thích xuất gia, khuyên người khác xuất gia tu học đại từ đại dũng, đạo tâm kiên cố, oan thân bình đẳng như hư không. Thấy người nhọc mệt thì sắp đặt xe cộ, thường đem vô úy ban cho chúng sanh.
Bồ Tát này thấy bực học vấn thì kính như Phật, thấy người chưa học thì chẳng khinh mạn, thấy người thiếu thốn thì ban cho của cải nghề nghiệp, với người tật bệnh thì cấp cho thuốc men để cứu mạng họ, với người cứu hộ thì hiếu thuận để báo ơn, thấy người giữ giới tự tu thì cúng dường phụng sự chẳng để trái ý, thấy kẻ không cung cách thì khuyến hóa họ vượt qua thế tục.
Bồ Tát này đi đến đâu đều chẳng phạm lỗi ác, không hề nhiễm thế sự, thường phụng hành các công đức. Bồ Tát này tu các thần túc vi diệu quảng đại chẳng lui chẳng mất mãi đến thành Phật. Đây là Bồ Tát thần túc hạnh thanh tịnh.
Đức Phật bảo Bảo Kế Bồ Tát: Thế nào là Bồ Tát đủ căn hạnh thanh tịnh?
Bồ Tát chẳng thọ các pháp mà tu đạo nghĩa đó là tín căn vậy.
Bồ Tát nguyện vượt qua bỉ ngạn chẳng cầu mong người đó là tinh tiến căn vậy.
Bồ Tát vì tất cả chúng sanh mà chẳng rời bỏ đạo tâm đó là niệm căn vậy.
Bồ Tát nắm giữ đại bi muốn cứu tế nguy ách đó là định căn vậy.
Bồ Tát hay phụng thọ tất cả các pháp mà tu tịch diệt đó là huệ căn vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Vua Ba Tư Nặc Dính Bụi Vì Thái Hậu Qua đời
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Ba Mươi Sáu - Phẩm Phổ Hiền Hạnh - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Bảy - Phẩm Thanh Tín Nữ - ưu Bà Di
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Bốn - Phẩm Tâm - Kinh Phù Di
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Chín - Phẩm Nhân - Kinh Nguyện
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Sáu Mươi Hai - Phẩm Phật Làm được Việc Khó Làm