Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Bảy - Pháp Hội Phú Lâu Na - Phẩm Thứ Ba - Phẩm Bất Thối - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ MƯỜI BẢY
PHÁP HỘI PHÚ LÂU NA
PHẨM THỨ BA
PHẨM BẤT THỐI
PHẦN HAI
Này Phú Lâu Na! Thế nào gọi là vô sanh, thế nào gọi là trí vô sanh?
Này Phú Lâu Na! Các pháp bình đẳng gọi là vô sanh, đạo gọi là trí vô sanh. Khổ hết gọi là vô sanh, đạo gọi là trí vô sanh.
Đây là Như Lai nói có hai đế: Thế đế và đệ nhất nghĩa đế.
Này Phú Lâu Na! Như Lai nói tướng khổ tức là nói vô tướng. Thế nào gọi là tướng khổ, đó là tướng vô vi, vô vi tức là vô tướng, người trí biết vô vi là vô tướng.
Này Phú Lâu Na! Người trí thế nào biết vô vi là vô tướng?
Đó là biết vô vi pháp không, biết là tịch diệt, biết là chỗ về, biết là lợi ích đệ nhất, biết là không có nhiệt não. Người trí biết vô vi là như vậy, trong trí biết ấy cũng chẳng sanh tướng.
Này Phú Lâu Na! Nếu người có tác thì có hoại, nếu không tác thì không hoại. Tướng không hoại là không, tướng không hoại là vô tướng, tướng không hoại là không nguyện.
Này Phú Lâu Na! Không pháp không có người tác không có người hoại. Vô tướng và vô nguyện cũng không có người tác người hoại. Đây gọi là tướng bất hoại là vô thượng bồ đề của Chư Phật. Những gì là vô thượng bồ đề của Chư Phật, đó là Chư Phật sở bất đắc vậy.
Bạch Thế Tôn! Những pháp gì là Chư Phật sở bất đắc?
Này Phú Lâu Na! Tất cả pháp là Chư Phật sở bất đắc.
Bạch Thế Tôn! Vì lẽ ấy mà tất cả pháp là vô thượng bồ đề của Chư Phật chăng?
Này Phú Lâu Na! Đúng như vậy, tất cả pháp là vô thượng bồ đề của Chư Phật đó chỉ là thế tục giả danh ngôn để nói thôi. Người chẳng tinh tấn khó hiểu khó biết. Tại sao, vì người chẳng tinh tấn chẳng tu tập được các pháp bình đẳng. Nếu bất bình đẳng thì trái chống với Chư Phật.
Này Phú Lâu Na! Người nào chẳng tu tập bình đẳng được?
Này Phú Lâu Na! Tất cả thế gian hành bất bình đẳng. Trong bồ đề của Chư Phật không có đẳng cũng không có bất đẳng. Ta do đạo ấy mà được vô thượng bồ đề. Do nhân duyên ấy mà trong Kinh Phật nói tất cả pháp ở trong chánh vị đều nhập tất định, đây gọi là môn tất định nhập bồ đề. Vì thế nên, này Phú Lâu Na, tất cả pháp đều là bồ đề vậy.
Bấy giờ Huệ Mạng Phú Lâu Na bạch rằng: Hi hữu Thế Tôn! vô thượng bồ đề của Chư Phật cũng định cũng bất định, cũng vào văn tự cũng chẳng vào văn tự, cùng vào ngữ ngôn cũng chẳng vào ngữ ngôn.
Tại sao, bạch Thế Tôn, nay tôi theo Phật nghe nói Kinh này, ở nơi các pháp tôi được quyết định quang minh. Tôi ở trong các pháp được quyết định quang minh như vậy, tôi ở trong một sự biết tất cả sự, ở trong tất cả sự biết một sự.
Đức Phật khen Ngài Phú Lâu Na rằng: Lành thay, tốt thay, này Phú Lâu Na, ông có thể mau nhập được tất cả pháp lợi của Chư Phật như vậy, phải biết thuở đời quá khứ ông đã từng cúng dường Chư Phật gieo trồng các căn lành, hầu gần thỉnh hỏi.
Này Phú Lâu Na! Ta nhớ thuở quá khứ ở trong phần hư không của cõi đất này, ông đã từng ở chỗ sáu vạn tám ngàn Đức Phật được nghe nói Kinh này, do vì thiện căn công đức ấy nên nay ông ở nơi các pháp được khắp quyết định quang minh.
Bạch Thế Tôn! Nếu tôi đã ở nơi Chư Phật ấy được nghe Kinh này, tại sao tôi lại chẳng dùng một niệm phát vô thượng bồ đề?
Này Phú Lâu Na! Ta nhớ thuở quá khứ ông đã có một kiếp phát tâm vô thượng bồ đề mà chẳng rời lìa các tâm khác nên lại thối thất. Do vì phước đức ấy, nay ta nói ông ở trong các Pháp Sư là tối đệ nhất.
Bạch Thế Tôn! Tôi khi trước làm tội chướng gì nên trong một kiếp phát tâm bồ đề lại thối thất?
Này Phú Lâu Na! Do vì theo y chỉ ác tri thức, lại vì chẳng có thể lưu bố rộng chánh pháp nên ông thối thất tâm bồ đề.
Này Phú Lâu Na! Có bốn pháp thối thất tâm vô thượng bồ đề mà thành Thanh Văn thừa.
Những gì là bốn?
Một là vì Bồ Tát thân cận ác tri thức nên có thể ở nơi thiện căn tăng thêm ác niệm viễn ly mà nói rằng: Cần gì phát tâm bồ đề như vậy, sanh tử dài lâu vô lượng khổ não qua lại trong năm loài được không nạn rất khó, gặp Phật càng khó mà sanh lòng tịnh tín lại khó hơn.
Dầu được gặp Phật nhưng xuất gia lại khó, đời nay ngươi được gặp không nạn chớ để mất, nơi Chư Phật người chưa được thọ ký thiện căn chưa nhất định, nếu chẳng được Niết Bàn thì phải luân chuyển năm loài. Người ấy nghe lời của ác tri thức nói trên đây rồi sanh lòng thối thất đạo bồ đề giải đài chẳng an vui. Đây là pháp ban đầu mà do đó Bồ Tát thối thất bồ đề thành Thanh Văn thừa.
Hai là Bồ Tát chẳng nghe các Kinh đúng với Bồ Tát, đó là các Kinh Bồ Tát Tạng, Kinh Phát bồ đề Tâm, Kinh Nhiếp Bồ Tát Sự, Kinh đúng Sáu Ba la mật, do vì chẳng nghe nên chẳng hành Bồ Tát hạnh chẳng học Bồ Tát đạo.
Người này chẳng biết Bồ Tát nên thân cận pháp gì nên xa rời pháp gì, pháp nào nên thọ pháp nào chẳng nên thọ, pháp gì là Bồ Tát pháp, pháp gì là Thanh Văn pháp.
Vì chẳng biết rõ ràng nên với pháp nên thân cận mà chẳng thân cận trở lại thân cận pháp chẳng nên thân cận, do đó nên thối thất đạo vô thượng bồ đề Tâm giải đãi nhàm yếu bỏ phế bổn nguyện. Có pháp thứ hai này thì Bồ Tát thối thất bồ đề thành Thanh Văn thừa.
Ba là Bồ Tát chấp được các tham trước ngô ngã hành tà kiến sa vào biên kiến chìm trong ác kiến khó cứu khỏi. Người này được nghe Kinh sâu diệu đúng đệ nhất nghĩa không có mảy tướng dạng thì trái nghịch chẳng tin chẳng thông đạt được gây tội phá pháp, do đó mà sanh tại chỗ nạn chẳng gặp được Phật chẳng được nghe pháp.
Vì chẳng nghe pháp nên chẳng gặp giáo pháp Chư Phật nên chẳng được gặp thiện tri thức, vì chẳng gặp thiện tri thức nên mất chỗ vô nạn mà sanh tại chỗ nạn, vì sanh chỗ nạn nên rời lìa thiện tri thức gặp ác tri thức, vì cùng tùng sự với ác tri thức nên quên mất bổn niệm.
Vì mất bổn niệm nên bỏ tâm Bồ Tát bỏ Bồ Tát thừa mà thối chuyển mất tâm bồ đề chỉ làm pháp sanh tử chẳng tu tập được hành pháp Đại Thừa. Có pháp thứ ba này thì Bồ Tát thối thất bồ đề thành Thanh Văn thừa.
Bốn là Bồ Tát được nghe các kinh thâm diệu mà chẳng thâm tâm giáo hóa người khác, tâm niệm thối thất chỉ thích tu một mình lòng tham tiếc chẳng muốn tuyên nói, chẳng có thể dùng chánh pháp nhiếp nhiều người.
Do căn bất thiện này mà mất trí niệm huệ, đã mất trí huệ niệm chẳng cùng người đọc tụng Đại Thừa Kinh chẳng đem pháp Đại Thừa cùng người cộng đồng, người này chuyển thân đời khác, mất tâm Bồ Tát quên niệm Bồ Tát.
Có pháp thứ tư này thì Bồ Tát thối thất bồ đề thành Thanh Văn thừa.
Đức Thế Tôn muốn tuyên rõ lại sự ấy mà nói kệ rằng:
Thân cận ác tri thức
Giải đãi nơi bồ đề
Do vì duyên cớ ấy
Mất tâm thượng bồ đề
Sâu sanh ác ngã kiến
Sa vào biên tà kiến
Mà gây tội phá pháp
Sanh tại nơi nạn xứ
Sanh nơi nạn xứ rồi
Thì dứt tâm bồ đề
Quên mất bổn niệm trước
Do đó mất bồ đề
Người này chẳng nghe được
Pháp sanh bồ đề tâm
Tâm ấy nếu tăng trưởng
Thì thành được bồ đề
Được pháp diệu quảng đại
Tham lẫn chẳng muốn nói
Do vì duyên cớ ấy
Mà thối thất bồ đề
Bồ Tát cầu đại thừa
Phải biết bốn pháp ấy
Nếu biết bốn pháp ấy
Bồ đề sẽ được sanh
Vì thế nên xa rời
Bốn pháp ác như vậy
Siêng tu hành pháp không
Được gần thiện tri thức
Được kinh thâm diệu rồi
Chẳng nên tham bỏn xẻn
Lòng siêng nói dạy người
Do đây sanh bồ đề.
Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát thành tựu bốn pháp tùy hồi hướng bồ đề tâm chẳng mất, tùy hồi hướng các thiện căn cũng chẳng mất.
Những gì là bốn?
Bồ Tát trì giới thanh tịnh, ức niệm thành tựu có niệm an huệ, tâm siêng tinh tấn mà chẳng lười bỏ, thành tựu Đa Văn sanh huệ.
Bồ Tát có bốn pháp ấy thì tùy hồi hướng tâm bồ đề chẳng mất, tùy hồi hướng các thiện căn cũng chẳng mất.
Đức Thế Tôn muốn tuyên rõ lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Bồ Tát đủ trì giới
Chỗ ghi nhớ sâu xa
Tâm siêng thường tinh tấn
Đa Văn trang nghiêm huệ
Bồ Tát thường thân cận
bốn pháp như trên ấy
Tùy ý muốn khởi sự
Đều có thể thành tựu
Vì thế phải thường trì
Tịnh giới siêng tinh tấn
Chẳng dứt pháp ức niệm
Thường siêng cầu Đa Văn
Trì giới tịnh chỗ sanh
Ức niệm tịnh đại trí
Tinh tấn tịnh Phật Pháp
Đa Văn sanh đại huệ
Vì thế các Bồ Tát
Phải học bốn pháp trên
Học bốn pháp trên rồi
Sẽ chuyển vô thương luân.
Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát có bốn pháp thì có thể lợi ích bồ đề:
Trì giới là pháp lợi ích bồ đề, nhẫn nhục là pháp lợi ích bồ đề, tinh tấn là pháp lợi ích bồ đề, Đa Văn là pháp lợi ích bồ đề.
Đức Thế Tôn muốn tuyên rõ nghĩa mà nói kệ rằng:
Bồ Tát tịnh trì giới
Lợi ích cho bồ đề
Nhẫn nhục và tinh tấn
Đa Văn cũng như vậy
Người trì giới thanh tịnh
Sở nguyện đều được thành
Giới tịnh nhiều lợi ích
Bồ Đề được chẳng khó
Bồ Tát tu nhẫn nhục
Thân tướng trí huệ thành
Nên tu hành nhẫn nhục
Cầu Phật tướng trí huệ
Tinh tấn cũng có thể
Lợi ích nhiều bồ đề
Người luôn tu tinh tấn
Được bồ đề chẳng khó
Đa Văn cũng lợi ích
Nghe rồi được gần pháp
Xa rời các phi pháp
Được bồ đề chẳng khó
bốn pháp là chủng tử
Từ đó sanh bồ đề
Thế nên Chư Bồ Tát
Phải gần bốn pháp ấy.
Lại này Phú Lâu Na! Đại Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thân sắc đầy đủ, tài vật đầy đủ, quyến thuộc đầy đủ, mạng chung thường chẳng sanh xứ ác nạn, thường gặp Chư Phật, được Chư Phật khen.
Những gì là bốn: Một là Bồ Tát hành từ chẳng sân chẳng não tất cả chúng sanh.
Thế nào là Bồ Tát hành từ chẳng sân chẳng não tất cả chúng sanh?
Này Phú Lâu Na! Bồ Tát hành từ đối với chúng sanh phát khởi ý tưởng tôi thương mến cứu độ họ. Thấy chúng sanh thân khổ tâm khổ thì nghĩ rằng tôi phải siêng tu tinh tấn độ các chúng sanh ấy khỏi khổ sanh tử ban cho họ an vui.
Bồ Tát phát tâm ấy rồi siêng tu tinh tấn, tu sáu Ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ.
Này Phú Lâu Na! Bồ Tát nhân bát nhã Ba la mật mà tròn đủ Sáu Ba la mật.
Những gì là Bồ Tát bát nhã Ba la mật, tại sao Bồ Tát do bát nhã Ba la mật mà siêng phát tinh tấn?
Bồ Tát suy gẫm: Pháp gì là ngã, pháp gì là ngã sở. Lúc suy như vậy, Bồ Tát chẳng thấy pháp là ngã, chẳng thấy pháp là ngã sở. Ở trong pháp ấy không ngã pháp không ngã sở pháp. Vì rời lìa ngã, ngã sở nên Bồ Tát biết thân không, vì thân không nên chúng sanh không.
Tại sao?
Vì trong các pháp ngã và ngã sở còn không huống là chúng sanh. Bồ Tát vì lìa rời ngã ngã sở như vậy nên biết chúng sanh không.
Vì chúng sanh không nên biết sắc ấm không.
Vì sắc ấm không nên thọ tưởng hành thức bốn ấm cũng đều không.
Vì biết các ấm không nên biết đại chủng không, đó là địa thủy hỏa phong hư không và thức đại chủng đều không. Đại chủng ấy không có tác giả không có ai sai tạo tác. Nếu không tác giả thì pháp ấy là không.
Vì biết các đại chủng tướng các đại chủng không nên Bồ Tát biết các nhập không, vì các nhập không nên tướng các nhập không. Các nhập không tác giả không ai sai tạo tác, nếu không tác giả thì pháp ấy là không.
Này Phú Lâu Na! Bồ Tát quán tất cả pháp không như vậy. Lúc quán tất cả pháp không chẳng thấy bổn thể các pháp chỗ có thể sanh được sân. Đây gọi là Bồ Tát đại từ, là từ biết thân không, là từ chúng sanh không, là từ ấm nhập đại chủng không. Bồ Tát có thể hành đức từ như vậy thì gọi là hành tất cả pháp không từ.
Đây là Bồ Tát hành nơi đại từ. Bồ Tát này rời lìa tâm ngã ngã sở rất sanh lòng cầu muốn vô thượng bồ đề, sanh lòng đại từ đối với chúng sanh.
Nếu có chúng sanh chẳng biết được thiệt tướng như vậy nên Bồ Tát phát đại trang nghiêm. Tôi cứu họ nên gọi là từ, tôi làm nên gọi là bi.
Bồ Tát thành tựu đại từ như vậy thì có thể ở nơi các chúng sanh có thể làm cứu độ làm chỗ về làm nhà làm chỗ ở có thể làm cứu cánh.
Thế nên Bồ Tát phải tu hành đại từ như vậy chẳng tham trước nơi chúng sanh cũng chẳng sân hận. Đây gọi là Bồ Tát chúng sanh không từ chẳng có sân hận.
Này Phú Lâu Na! Nếu Bồ Tát nhân nơi đức từ nhân nơi lợi ích nhân nơi pháp không có thể vào tất cả pháp bất sanh bất diệt thì gọi là Bồ Tát thường hành đại từ.
Bồ Tát thông đạt các pháp như vậy thì các ma, ma dân và ma sở sử đều chẳng phá hoại được. Bồ Tát thành tựu pháp ban đầu này thì có thể dứt được triền phược trong tất cả công đức, do đây được bình đẳng Ba la mật.
Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ sự ấy mà nói kệ rằng:
Bồ Tát thường tu từ
Mà quán không như vậy
Biết ấm nhập giới ly
Trong đây không có ngã
Hai pháp ngã ngã sở
Cũng quyết định chẳng có
Vì chẳng được các pháp
Mà tu hành từ tâm
Chẳng y chỉ các pháp
Cũng chẳng phải chẳng y
Đây gọi các Phật Đạo
Các pháp chẳng y chỉ
Hay được vô thượng nhẫn
Nhẫn thiệt tướng các pháp
Các pháp không sanh diệt
Hay thông đạt lý ấy
Những người có trí lớn
Thân cận nơi pháp ấy
Thường được thân sắc đẹp
Cũng được lạc thuyết biện
Thường được gặp Chư Phật
Biết nghĩa lợi các pháp
Vì thế Bồ Tát này
Được đạo thượng vô vi.
Lại này Phú Lâu Na! Hai là Đại Bồ Tát chuyên cần cúng dường cung kính Chùa Tháp Chư Phật, dùng hương quí hoa đẹp thơm các chuỗi ngọc phan lọng kỹ nhạc các loại đồ cúng để cúng dường. Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì có thể đầy đủ tất cả công đức.
Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:
Bồ Tát dùng hoa hương
Và phan lọng thượng diệu
Cúng dường Chùa Tháp Phật
Để cầu thượng trí huệ
Do duyên công đức này
Báo thân thường đoan chánh
Của nhiều châu báu đủ
Quyến thuộc đều thành tựu
Quyết định nơi bồ đề
Thường an trụ nơi pháp
Nơi nơi chỗ thọ sanh
Công đức càng cao thêm
Các vua chúa đều kính
Trời Rồng thần thường mến
Tất cả các chúng sanh
Cũng đều chung cung kính
Nếu người cúng dường Phật
Hiện tại hoặc nhập diệt
Sanh ra được cúng dường
Thường ở chỗ không nạn.
Lại này Phú Lâu Na! Ba là Đại Bồ Tát thường phải chuyên cần cúng dường chánh pháp.
Sao gọi là chánh pháp?
Thế nào gọi là cúng dường chánh pháp?
Đó là Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Tứ Thiền, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Ý, Bát Chánh Đạo, Chỉ Quán, Minh Giải Thoát, Ba Giải Thoát Môn, Tận Trí Vô Sanh Trí, đây gọi là chánh pháp.
Ở trong các pháp ấy đúng như lời mà thật hành tùy thuận chẳng trái nghịch sanh dục nguyện tinh tấn đầy đủ tu tập, đây gọi là cúng dường chánh pháp.
Lại chánh pháp là các Kinh như vậy. Cúng dường pháp là tin hiểu suy tư phân biệt tùy thuận tâm chẳng trái nghịch. Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể được thành tựu đầy đủ tất cả công đức.
Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:
Thường siêng cúng dường pháp
An trụ đúng như lời
Nghe pháp không thâm diệu
Tâm thuận không trái nghịch
Do đó thân đoan chánh
Được lạc thuyết biện tài
Như pháp được Phật khen
Do đây càng cao thêm.
Lại này Phú Lâu Na! Bốn là Đại Bồ Tát chuyên cần cúng dường Thánh Chúng đệ tử Như Lai. Dùng hương hoa chuỗi ngọc phan lọng y phục thức ăn uống đồ nằm y dược các vật cần dùng hoặc xây Tăng phòng, hoặc lập vườn rừng, hoặc dọn chỗ kinh hành, hoặc sắm ao tắm, hoặc là giếng suối, hoặc người giúp việc, đem các thứ như vậy cúng dường Thánh Chúng.
Bồ Tát thành tựu pháp thứ tư này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức.
Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:
Đồ cúng dường vô thượng
Đem cúng dường Thánh Chúng
Do duyên công đức này
Sanh ra được giàu có
Thân sắc thường đoan chánh
Cũng được lạc thuyết biện
Đầy đủ các công đức
Trí huệ càng cao thêm
Tâm cúng dường chánh trực
Không có ngã ngã sở
Do nhân duyên trí này
Sanh ra được cúng dường
Được Chư Phật khen ngợi
Thường thân cận bốn pháp
Sanh ra thường tôn quý
Công đức càng cao thêm.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Bảy - Ngạ Quỷ Sự - Phẩm Ba - Tiểu Phẩm - Chuyện Rơm Trấu Bhusa
Phật Thuyết Kinh ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Phẩm Ba - Phẩm điềm Lành
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Hai - Phẩm Thực Hành Tất Cả Pháp - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thiện Giới - Phẩm Hai - Phẩm Tánh Của Hạnh Lành
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Hai Mươi - Phẩm Thiện Tri Thức - Phần Một