Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Hai - Pháp Hội Bồ Tát Tạng - Phẩm Thứ Mười - Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ MƯỜI HAI
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
PHẨM THỨ MƯỜI
TĨNH LỰ BA LA MẬT
PHẦN HAI
Lại này Xá Lợi Phất! Nếu không tánh bình đẳng, tức là các pháp bình đẳng, vô tướng tánh vô nguyện tánh và vô hành tánh đều bình đẳng tức là các pháp bình đẳng, chứng nhập được tánh bình đẳng ấy thì gọi là chánh an trụ vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Nếu tâm tánh bình đẳng tức là các pháp bình đẳng, chứng được tánh bình đẳng ấy thì gọi là chánh an trụ vậy. Đây gọi là Đại Bồ Tát được Tĩnh Lự chánh an trụ tánh bình đẳng ấy đều do Tĩnh Lự Ba la mật vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do y Tĩnh Lự Ba la mật nên được Tĩnh Lự vi diệu bình đẳng ấy, đối với các hữu tình có ơn hay không ơn đều bình đẳng, tâm không lấy bỏ.
Vì thế nên tâm của Bồ Tát đồng như địa đại, như thủy đại, như hỏa đại, như phong đại, như hư không, không có cao hạ sai biệt, an trụ khéo an trụ, chứng chỗ không dao động, ở trong các oai nghi tâm luôn đại chánh định và chẳng phân biệt oai nghi đang an trụ.
Tâm tánh thuần thục, thích ở thân định, chẳng điệu cử, không chuyễn lay, xa các ngu độn, lời nói chẳng tạp loạn, biết nghĩa biết pháp, khéo biết thời nghi: Đó là phải thời gian đúng thời gian.
Khéo tùy thuận thế gian mà chẳng tạp với thế gian tánh, siêu việt tám pháp thế gian, các hoặc phiền não chẳng ô nhiễm được, rời chỗ ồn náo, xa các hành tác, chỉ thường an ở trong pháp tánh bình đẳng, chẳng xả thâm định mà hiện tất cả việc làm thế gian.
Đây gọi là Đại Bồ Tát y Tĩnh Lự Ba la mật chứng nhập vô lượng công đức như vậy. Nên biết đều do diệu huệ phương tiện phát khởi.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là Đại Bồ Tát vì y Tĩnh Lự Ba la mật nên chứng được diệu huệ và phương tiện.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát dùng sức đại bi duyên tâm nơi cảnh, vì độ chúng sanh thì gọi là phương tiện, chứng nhập tịch tĩnh tối cực tịch tĩnh thì gọi là huệ. Nếu nhập được Phật trí vô ngại thì gọi là phương tiện, không có một pháp nào có thể suy biết được thì gọi là huệ.
Nếu chứng nhập được các pháp nhiếp quán thì gọi là phương tiện, ở nơi pháp tánh không tạp tư duy thì gọi là huệ. Nếu bình đẳng chứng nhập Phật thân trang nghiêm hiện tiền thì gọi là phương tiện, quán pháp thân tánh vô sở hữu thì gọi là huệ.
Nếu bình đẳng chứng nhập ức niệm âm thanh ngôn từ của Phật diễn nói thì gọi là phương tiện, quán pháp tánh không thể ngôn thuyết thì gọi là huệ. Nếu bình đẳng chứng nhập tâm an trụ kim cương dụ định thì gọi là phương tiện, niệm không tán loạn quán pháp tánh thì gọi là huệ.
Nếu an trụ bổn nguyện thành thục chúng sanh thì gọi là phương tiện, quán chúng sanh tánh vô ngã thì gọi là huệ. Nếu duyên cảnh giới tăng thượng phát khởi tất cả thiện căn tăng thượng thì gọi là phương tiện, quán không duyên không căn thì gọi là huệ.
Nếu chánh định ấy tu trau Phật Độ hiện tiền thì gọi là phương tiện, quán Quốc Độ đồng như hư không thì gọi là huệ. Nếu chánh định phát khởi trang nghiêm Đạo Tràng thì gọi là phương tiện, nếu an trụ tịch Tĩnh Lự tri các pháp thì gọi là huệ.
Nếu chánh định phát khởi chuyển chánh pháp luân thì gọi là phương tiện, nếu quán pháp luân được chuyển ấy không khởi thì gọi là huệ.
Vô lượng giác phần tư lương như vậy bình đẳng chứng nhập quán sát hiện tiền thì gọi là phương tiện. Vô lượng như vậy, các hoặc phiền não tịch diệt dứt trừ nhiệt não, Đức Như Lai có những Tĩnh Lự diệu lạc chẳng cùng chung với các pháp, không có các tướng, biết rõ khắp các tướng rời xa tất cả cảnh giới sở duyên, tất cả như vậy đều nhập vào Tĩnh Lự chánh định của Bồ Tát.
Nếu Đại Bồ Tát hay quan sát đầy đủ như vậy thì gọi là huệ.
Này Xá Lợi Phất! Nếu Đại Bồ Tát thành tựu vô tận Tĩnh Lự ấy, vì cùng hiệp với Tĩnh Lự Ba la mật nên tất cả ác ma chẳng nhiều hại được. Đây gọi là an trụ pháp Khí Chư Phật.
Này Xá Lợi Phất! Phương tiện ấy, diệu huệ ấy tức gọi là Đại Bồ Tát thành tựu Tĩnh Lự Ba la mật đầy đủ, đều do diệu huệ và phương tiện phát khởi vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do y Tĩnh Lự Ba la mật nên đầy đủ thành tựu thần thông bất thối hay gây dựng trí nghiệp, du hí thần thông thị hiện tất cả tác dụng thế gian, an trụ thần thông phát khởi tất cả đại sự thế gian.
Lại này Xá Lợi Phất!
Thần thông này là tướng đại trí, vì đầy đủ tác dụng vi diệu thế gian và xuất thế vậy.
Thần thông này là tướng đại huệ, vì hiện tiền thấy tất cả pháp thế gian và xuất thế vậy.
Thần thông này là tướng vô tận, vì khắp tất cả như hư không vậy.
Thần thông này bình đẳng thấy các sắc, vì trong sắc và vô sắc đều thấy bình đẳng.
Thần thông này khéo liền nhập vào được pháp môn âm thanh, vì âm thanh tiền tế tánh bình đẳng vậy.
Thần thông này hay quán tất cả tâm hành của các chúng sanh vì hiện tiền thấy tánh ấy vậy.
Thần thông này khéo tùy niệm nhớ biết được tất cả các kiếp, vì phân biệt biết rõ tiền tế hậu tế vậy.
Thần thông này khéo thị hiện được vô lượng thần biến, vì thường hiện ở trước không có tướng gia hành vậy.
Thần thông này biết rõ lậu tận, vì phải thời đúng thời chẳng lỗi thời vậy.
Thần thông này là Thánh xuất thế, vì quyết trạch nơi tất cả pháp vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Thần thông như vậy rất sâu vi diệu, hàng Thanh Văn và Duyên Giác chẳng lường được.
Thần thông như vậy có oai đức lớn vì khéo điều phục được các hữu tình.
Thần thông như vậy công nghiệp lớn, vì chứng được quán đảnh tự tại chuyển tất cả pháp vậy. Đây gọi là Đại Bồ Tát do y Tĩnh Lự Ba la mật nên được thần thông bất thối thù thắng ấy, khéo gây dựng được trí nghiệp, chẳng phải năng lực tăng thượng mạn kia phát khởi.
Này Xá Lợi Phất! Phải biết Đại Bồ Tát được thông trí ấy là do tâm thanh tịnh, tâm trắng bóng, tâm sáng sạch, tâm không ô trược, tâm rời lìa tùy phiền não, tâm khéo tùy thuận, tâm khéo tịch tĩnh, tâm khéo sửa trau, những tâm tướng như vậy là do phát khởi Tĩnh Lự giải thoát định và giải thoát huệ vậy.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát ấy ở các Thế Giới là cố tác ý mà sanh chớ chẳng phải bị nghiệp buộc mà sanh, cũng chẳng phải do nghiệp buộc mạng chung mà sanh.
Tại sao?
Vì Đại Bồ Tát ấy đã giải thoát tất cả hư vọng phân biệt vậy, đã giải thoát tất cả phiền não phược chẳng chân thật vậy, giải thoát tất cả chỗ y chỉ của những điên đảo vọng chấp vậy.
Thế nên Đại Bồ Tát ấy hiện thân Thế Giới: Giải thoát mà sanh, giải thoát mà mạng chung, giải thoát mà thọ sanh. Thọ sanh rồi, Đại Bồ Tát ấy làm xong Đại Thừa viên mãn chánh giáo của tất cả Chư Phật, khắp mười phương rộng cầu Phật Pháp.
Dầu chí có chỗ cầu, mà không lấy không được, tùy nhập Chư Phật Pháp tức là tất cả pháp, tùy nhập tất cả pháp tức là Chư Phật Pháp. Đại Bồ Tát ấy tùy nhập Phật Pháp và tất cả pháp, nhưng chẳng tùy theo pháp hành phi pháp hành ấy.
Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát lúc có thể như thiệt cầu các pháp mà an trụ không lấy không được như vậy thì không có một pháp nào có thể đem vào toán số.
Tại sao?
Vì tất cả pháp siêu quá đạo toán số vậy. Nếu rõ thấu được pháp tánh bình đẳng thì chẳng chấp pháp cùng phi pháp.
Tại sao?
Vì tất cả pháp tánh không chấp vậy. Nếu tính cho rằng trong ấy có nghĩa thì có vô nghĩa lớn rộng. Nếu khéo chẳng tính nơi nghĩa thì nghĩa và vô nghĩa đều không.
Người chẳng thấy nghĩa đối với tất cả chỗ có giác huệ vô ngại. Đại Bồ Tát ấy nếu có thể rõ biết vô ngại thì là được trí vô ngại.
Nếu có trí vô ngại thì chẳng chấp trước tất cả.
Nếu không sở trước thì là không sở trụ.
Nếu không sở trụ thì là không chỗ thiếu.
Nếu không chỗ thiếu thì không ngu si không nguyện cầu.
Nếu không ngu si không nguyện cầu thì không mê không lầm.
Nếu không mê không lầm thì không ngã sở.
Nếu không ngã sở thì không nhiếp thọ.
Nếu không nhiếp thọ thì không chỗ chấp.
Nếu không chỗ chấp thì không tranh luận.
Nếu không tranh luận thì là pháp vô tránh của Sa Môn.
Nếu có pháp vô tránh của Sa Môn thì là tất cả không chướng không ngại như hư không.
Nếu không chướng không ngại như hư không thì chẳng hệ thuộc ba cõi:
Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới.
Nếu chẳng hệ thuộc các cõi thì không sắc tướng và hình lượng.
Nếu đều không sắc tướng và hình lượng thì có thể tùy giác.
Nếu có thể tùy giác thì có thể thông đạt.
Này Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là tùy giác thông đạt?
Đại Bồ Tát nếu có thể liền giác ngộ thông đạt chỗ ấy không có chút pháp có được, thì gọi là tùy giác thông đạt.
Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát do bình đẳng chứng nhập tùy giác thông đạt như vậy, nên gọi là Đại Bồ Tát y Tĩnh Lự Ba la mật được thành tựu pháp hy kỳ chưa từng có.
Thế nào là pháp hy kỳ chưa từng có?
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát y Tĩnh Lự Ba la mật, dầu thật hành đại từ mà luôn quán vô ngã.
Dầu thật hành đại bi mà biết không chúng sanh.
Dầu thật hành đại hỉ mà biết không thọ mạng.
Dầu thật hành đại xả mà biết không hữu tình.
Dầu rộng thật hành đại thí mà tâm luôn điều thuận.
Dầu duyên cảnh tịnh giới mà tâm thường tịch tĩnh.
Dầu thật hành nhẫn nhục mà tâm vô biên tế.
Dầu siêng tinh tấn mà tâm hay chọn họp.
Dầu nhập các Tĩnh Lự mà chánh tâm quán sát.
Dầu khắp hành trí huệ mà tâm vô sở hành.
Dầu hành tứ niệm trụ mà tâm không duyên niệm cũng không tác ý.
Dầu hành tứ chánh cần mà tâm không sanh diệt.
Dầu hành tứ như ý túc mà tâm chẳng hý luận.
Dầu hành tịnh tín mà tâm không hệ trước.
Dầu hành tinh tấn mà tâm luôn xa rời.
Dầu hành nơi niệm mà tâm thường tự tại.
Dầu ở trong định mà tâm chứng bình đẳng.
Dầu hành nơi huệ mà tâm vốn vô tướng.
Dầu hành ngũ lực mà tâm không dẹp phục.
Dầu hành giác phần mà phân tích bồ đề.
Dầu tu đạo phần mà tâm không tu.
Dầu hành chỉ mà tâm luôn tịch diệt.
Dầu hành quán mà tâm không định quán.
Dầu tu hành Thánh đế mà cứu cánh biến tri.
Dầu thành thục chúng sanh mà tâm vốn thanh tịnh.
Dầu nhiếp thọ chánh pháp mà chẳng hoại pháp tánh.
Dầu tịnh Phật Độ mà tâm đồng hư không.
Dầu chứng pháp vô sanh mà tâm vô sở đắc.
Dầu hành bất thối chuyển địa mà tâm tánh không thối chuyển.
Dầu được các diệu tướng mà biết tánh không có tướng.
Dầu trang nghiêm Đạo Tràng mà tâm đi trong Tam Giới thường ở khắp nơi.
Dầu hàng phục quân ma mà đối với tất cả hữu tình không có xô dẹp.
Dầu biết các pháp là tánh bồ đề mà tâm liền biết rõ.
Dầu chuyển pháp luân mà tâm an trụ pháp tánh không hoàn không chuyển.
Dầu hiện Niết Bàn mà tâm thường bình đẳng đối với sanh tử.
Đây gọi là Đại Bồ Tát bình đẳng chứng nhập tùy giác thông đạt.
pháp hi kỳ chưa từng có ấy phải biết là do tu hành Tĩnh Lự Ba la mật mà thành tựu.
Lại này Xá Lợi Phất! Những gì gọi là tướng Đại Bồ Tát y Tĩnh Lự Ba la mật tu học Bồ Tát Tĩnh Lự?
Này Xá Lợi Phất!
Bồ Tát Tĩnh Lự chẳng trụ tự tánh, vì để đầy đủ những chánh định như vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự không có mến mùi, vì chẳng tham trước để tự an vui vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự duyên nơi đại bi, vì dứt phiền não tất cả chúng sanh vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự chánh định không thối chuyển, vì duyên nơi tánh dục tăng thượng vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự nháng phát thần thông vì rõ thấu các tâm hành của chúng sanh vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự tâm thích mến vui, vì khéo có thể hiển phát tâm tự tại vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự biết rõ tất cả Tam Ma Bát Đề, vì chói che tất cả Cõi Sắc, vô Sắc vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự là tịch tĩnh tối thắng, vì chói che chánh định của Thanh Văn, Độc Giác vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự không có phân biệt, vì tột cứu cánh thanh tịnh vi diệu vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự hành phẩm tối thắng, vì tập khí tương tục đã trừ diệt hẳn vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự dùng huệ siêu độ, vì siêu độ tất cả các thế gian vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự làm đạo thủ dục giải cho các hữu tình, vì khéo độ thoát được các hữu tình vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự nối giống Tam Bảo chẳng dứt vì lấy Tĩnh Lự Phật làm cứu cánh vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự tối cao hiển, vì đại tự tại thường hiện tiền vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự tối cao hiển, vì đại tự tại thường hiện tiền vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự tự tại chuyển vận, vì những chỗ làm đều viên mãn vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự là đại ngã, vì dùng trí huệ vi diệu làm đại ngã vậy.
Bồ Tát Tĩnh Lự có vô lượng tướng như vậy đều do Đại Bồ Tát y Tĩnh Lự Ba la mật tâm chứa họp phát khởi.
Lại này Xá Lợi Phất! Pháp gì làm tiền đạo cho Tĩnh Lự Ba la mật của Đại Bồ Tát?
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tĩnh Lự Ba la mật ấy, lấy tâm tĩnh quán trí làm tiền đạo, lấy tâm an trụ một cảnh sở duyên làm tiền đạo, lấy tâm không tán động làm tiền đạo, lấy tâm an trụ làm tiền đạo, lấy tâm Xa Ma Tha làm tiền đạo, lấy tâm Tam Ma Địa làm tiền đạo, lấy căn Tam Ma Địa làm tiền đạo, lấy lực Tam Ma Địa làm tiền đạo.
Lấy giác phần Tam Ma Địa làm tiền đạo, lấy chánh Tam Ma Địa làm tiền đạo, lấy giải thoát Tĩnh Lự làm tiền đạo, lấy cửu thứ đệ định làm tiền đạo, lấy chín pháp diệt trừ làm tiền đạo, lấy tất cả pháp lành làm tiền đạo, lấy phục phiền não oán làm tiền đạo.
Lấy khối Tam Ma Địa đầy đủ viên mãn làm tiền đạo, lấy các Tam Ma Địa Đại Bồ Tát làm tiền đạo, lấy các Tam Ma Địa Chư Phật Thế Tôn làm tiền đạo.
Vô lượng Tĩnh Lự như vậy đều làm tiền đạo cho Tĩnh Lự Ba la mật cả. Lại còn có vô lượng vô biên pháp tịch tĩnh được chứng đều là tiền đạo cho Tĩnh Lự Ba la mật cả.
Đây gọi là Đại Bồ Tát Tĩnh Lự Ba la mật. Đại Bồ Tát vì vô thượng Bồ Đề phải ở trong ấy phát khởi tinh tấn tu học đầy đủ, thật hành Bồ Tát hạnh.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Tĩnh Lự giải thoát đến bờ kia
Siêng tu hạnh này nhiều số kiếp
Tâm ấy tịch tĩnh không dơ đục
Chẳng nhiễm thế pháp như hoa sen
Có đại tĩnh định tên biến chiếu
Y định này tu đến bờ kia
Có tên Nguyệt Quang tịnh trang nghiêm
Lại tên điện quang được nghiêm sức
Hoặc tên cao hạnh tên tâm dũng
Có định tên là vô cấu quang
Tên giới đức biện tên vô ưu
Hoặc tên chư pháp tự tại chuyển
Tên là pháp cự hoặc pháp dũng
Hoặc tên sơn oai pháp tự tại
Hoặc chánh pháp trí tự nhiên siêu
Hoặc trì chánh pháp diệu thanh tịnh
Hoặc tên quán sát tha tâm định
Hoặc tên chánh pháp bảo quang minh
Hoặc tên diệt hoặc nghiêm thắng tràng
Có định tên là tồi ma lực
Hoặc tên đoạn nghi tên vô trước
Có định tên là tịch tĩnh đăng
Tên lực cao thắng tên thập lực
Hoặc tên kính thủ đại danh xưng
Hoặc tên trì sơn thiện an trụ
Tên Tu Di Sơn đại minh đăng
Hoặc tên vô thắng thắng bỉ thắng
Hoặc tên trí cự tên huệ hành
Tên vô biên trí tên tự tại
Hoặc tên phát huệ tịch tĩnh định
Hoặc tên nguyệt định nhật âm thanh
Tên na la diên tồi kiêu mạn
Tên thiện điều long sư tử hống
Tên là viễn ly chủng chủng tưởng
Hoặc tên triền chuyển tên phàn hoàn
Tên vô minh nhãn lực thanh tịnh
Có định tên là niệm Chư Phật
Có tên niệm pháp tên niệm Tăng
Hoặc tên trí chuyển tên nhập không
Hoặc tên vô tướng tên vô nguyện
Tên kim cương dụ tên địa tịnh
Tên kim cương địa tên cao thắng
Hoặc tên Sơn Vương tên chẳng tối
Tên vô biên chuyển tên tịnh âm
Tên ly phiền não tên quán sát
Tên hư không diệu tên hư không
Tên phát quảng đại chư công đức
Tên xu giác huệ tên niệm huệ
Tên biện vô tận tên tương tục
Tên vô biên thuyết từ vô tận
Tên vô hoài thiện tác sở tác
Tên là quan sát tên chúng duyệt
Hoặc tên từ biện tên bi quảng
Tên nhập hoan hỉ tên hân khánh
Tên xả tên thoát hai thứ ngại
Hoặc tên pháp quang tên pháp nghĩa
Tên kim cương tràn tên trí hải
Tên giải thoát kiên tên chúng hỉ
Hoặc tên trí cự vô động định
Có định tên là thắng Liên Hoa
Tên giản tập pháp tên vô động
Hoặc tên huệ thượng tên tịch tĩnh
Tên vô biên quang tên Phật hải
Hoặc tên giải thoát tên trí thọ
Hoặc tên Như Lai diệu trang nghiêm
Hoặc tên vô biên thắng quang diệm
Hoặc tên hoan hỉ trang nghiêm độ
Hoặc tên duyệt dự chúng sanh ý
Có định tên là nhất thiết thời
Thuận Bồ Đề đạo Tam Ma Địa
Có định tên là đáo bỉ ngạn
Giác phần hoa nghiêm thí bảo kế
Tên thí Cam Lồ tên giải thoát
Tên phong tam động thạnh quang minh
Hoặc tên hải triều dòng Bảo Tạng
Tên chư kim cương sơn phong lực
Hoặc tên thần thông quảng đại nghĩa
Tên thiện nhiếp thọ Tam Ma Địa
Có định tên là đại thông chiếu
Cảnh giới của Chư Phật Như Lai
Chứng được định tịch tĩnh dường ấy
Và câu chi vô biên định khác
Tu hành Tĩnh Lự đến bờ kia
Bồ Tát công đức rộng vô lượng
Đi đứng luôn du cảnh Tĩnh Lự
Tâm ấy không loạn thường đạm bạc
Hoặc đi hoặc nằm ở trong định
Hoặc đứng hoặc ngồi thường tại định
Ở định hay phát âm thanh lớn
Bởi vì pháp tánh thường tịch tĩnh
Không dị phân biệt không tự tại
Không ngã không mạng không phân biệt
Như vậy và những không biên tế
Vô số vô lượng biển công đức
Bồ Tát sáng suốt thương chúng sanh
Tu hành Tĩnh Lự Ba la mật.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba - Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh chánh Pháp Hoa - Phẩm Hai Mươi Hai - Bồ Tát Diệu Hống
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Bốn - Phẩm Ngạ Quỷ - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Bi - Phẩm Mười Hai - Phẩm Các Thí Dụ Phụ Thuộc Chánh Pháp
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Chín Mươi Bốn - Kinh Lỗ Hổng Ma Ni
Phật Thuyết Kinh Dần đủ Tất Cả Trí đức - Phẩm Một - Trụ Duyệt Dự Sơ Phát ý - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Hai Mươi Hai - Phẩm Thiên đế - Phần Một