Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Hai - Pháp Hội Bồ Tát Tạng - Phẩm Thứ Nhất - Phẩm Khai Hóa Trưởng Giả - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ MƯỜI HAI
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
PHẨM THỨ NHẤT
KHAI HÓA TRƯỞNG GIẢ
PHẦN BA
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Nào hại mạng chúng sanh
Cướp trộm của cải người
Làm hạnh tà dâm dục
Mau đọa vào địa ngục
Thô ngữ, ly gián ngữ
Vọng ngữ trái tịch tịnh
Những phàm phu ỷ ngữ
Bị ngu si ràng buộc
Tham lam tài sản người
Thường sanh lòng giận thù
Khởi các thứ tà kiến
Người ấy đến ác đạo
Ba nghiệp do thân khởi
Bốn nghiệp từ miệng sanh
Ý hay thành ba nghiệp
Nên gọi là ác hạnh
Làm những ác nghiệp rồi
Dắt đến trong ác đạo
Nay ta hiện thế gian
Tế độ khiến ra khỏi.
Lại này trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sanh thế gian do mười pháp nhiễm ô mà ở tại phiền não, sa vào trong phiền não.
Những gì là mười?
Một là xan cầu nhiễm ô.
Hai là ác giới cấu nhiễm ô.
Ba là sân cấu nhiễm ô.
Bốn là giải đãi cấu nhiễm ô.
Năm là tán loạn cấu nhiễm ô.
Sáu là ác huệ cấu nhiễm ô.
Bảy là bất tuân chánh giáo cấu nhiễm ô.
Tám là tà nghi cấu nhiễm ô.
Chín là bất tín giải cấu nhiễm ô.
Mười là bất cung kính cấu nhiễm ô.
Này trưởng giả! Ta thấy chúng sanh bị mười thứ cấu nhiễm ấy làm nhiễm ô, ta vì chứng vô thượng bồ đề được pháp vô nhiễm vô thượng nên dùng lòng tin thanh tịnh rời bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Phần đông các chúng sanh
Bị mười thứ ô nhiễm
Thích hữu vi phiền não
Chẳng hề biết chán lìa
Xan cấu là ô nhiễm
Tất cả phàm phu dại
Phạm giới chẳng tịch tịnh
Chẳng tập tu chánh định
Sân cấu trái nhẫn nhục
Lòng họ chẳng chuyên trụ
Người tá trí ngu độn
Chẳng tuân theo lời dạy
Của cha mẹ Sư Trưởng
Chúng sanh bị lưới nghi
Chẳng cầu trí chiếu thế
Chê bai pháp thâm diệu
Của Đức Phật dạy truyền
Mặc lấy áo vô minh
Khinh tiện nơi Thánh uẩn
Thấy được ô nhiễm ấy
Có ai thích hữu vi
Phải siêng cầu tịch diệt
Vô vi không ô nhiễm.
Lại này trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian bị mười thứ triền phược nó trói buộc.
Những gì là mười?
Một là lưới xan tật trói buộc.
Hai là màn vô minh che lòa.
Ba là phiền não làm mê say sa vào hố ngu si.
Bốn là dòng nước lũ ái dục đẩy trôi chìm đắm.
Năm là bị tên độc tà kiến bắn trúng.
Sáu là khói đặc giận thù xông lấp.
Bảy là ngọn lửa tham dục đốt cháy.
Tám là thuốc độc lỗi lầm làm mê loạn.
Chín là những gai độc ngũ cái làm trở ngại.
Mười là thường ở trong dòng nước sanh tử trong đồng hoang đói khát, lười mỏi đối với chánh cần.
Này trưởng giả! Ta thấy chúng sanh bị mười thứ triền phược ấy trói buộc nên ta cầu vô thượng bồ đề để chứng pháp không triền phược. Ta dùng lòng tin thanh tịnh rời bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Tuổi già nuốt trẻ mạnh
Tuổi già mất tươi đẹp
Tuổi già tổn niệm huệ
Trọn bị thần chết nuốt
Bệnh xô ngã thế lực
Cướp đoạt tâm dũng mãnh
Làm hư cả căn thân
Yếu đuối không nơi dựa
Chết như quỷ La Sát
Độc hại rất đáng sợ
Thường ở mãi thế gian
Uống cạn mạng chúng sanh
Ta đã chán thế gian
Già bệnh chết bức bách
Nên cầu pháp xuất gia
An lành không già chết
Đời bị ba thứ lửa
Ta thấy không ai cứu
Rưới mưa pháp cam lộ
Tắt mất ba lửa độc
Thấy những kẻ lạc đường
Mù lòa sanh manh thảy
Vì muốn làm mắt sáng
Dẫn đường nên xuất gia
Chúng sanh nuôi lòng nghi
Uẩn cái nó che lấp
Vì trừ hối não ấy
Nên xuất gia thuyết pháp
Kẻ ngu chống trái nhau
Rình rập hại lẫn nhau
Vì hòa giải oán ghét
Giúp đời nên xuất gia
Với cha mẹ Sư Trưởng
Chống khinh không cung kính
Vì dẹp tràng kiêu mạn
Nên ta đi xuất gia
Thấy tham lam hại đời
Do tiền của hại nhau
Vì được bảy Thánh tài
Dứt trừ những pháp tham
Hoặc đến nỗi hại nhau
Lợi mình trọn vô ích
Thấy vậy ta xả thân
Cầu rời ngục Tam Giới
Xưa chưa biết Tam Giới
Sự lợi ích chân thiệt
Vì mở sự lợi thiệt
Nên ta đi xuất gia
Thấy người đến địa ngục
Nghiệp nhân ác quá nhiều
Chịu vô biên khổ não
Vì cứu mà xuất gia
Thấy các loài muôn thú
Thường giết hại lẫn nhau
Muốn làm chỗ nó nương
Thương chúng mà xuất gia
Thấy các loài ngạ quỷ
Rất khổ vì đói khát
Vì chứng đại bồ đề
Thí cam lộ bất tử
Loài người khổ vì cầu
Chư Thiên khổ vì chết
Thấy khổ khắp ba cõi
Vì cứu mà xuất gia
Ta thấy người tham dục
Rời xa lòng tàm quý
Hiếp bức cả thân thuộc
Hoang dâm hơn heo chó
Lại thấy những kẻ ngu
Bị gái đẹp nuốt chửng
Phóng dật gây tội ác
Vì bỏ nên xuất gia
Thấy chúng sanh kiếp trược
Ma khiến tội ác sai
Ta muốn điều phục họ
Xuất gia thành Chánh Giác
Tại gia là gốc tội
Xuất gia đến bồ đề
Nên bỏ cả Quốc thành
Để hết hẳn sanh tử.
Năm trăm trưởng giả nghe lời Đức Phật dạy chưa từng có, mới biết Đức Như Lai là bậc Chân Giác.
Các trưởng giả liền ở trước Đức Phật khác miệng đồng lời nói kệ rằng:
Chúng tôi kinh sợ già chết bức
Xin Phật tuyên dạy hết khổ ấy
Phật khỏi tam giới đến thanh tịnh
Tánh thanh tịnh rời hẳn Tam Giới
Xin cứu chúng sanh thoát Tam Giới
Và người tại gia bị nhốt giam
Thế Tôn ly nhiễm giải thoát nhất
Rời xa trần cấu lòng thanh tịnh
Điều ngự lớn trong pháp điều ngự
Xin mở cửa Cam Lộ vi diệu
Đủ tướng diệu sắc đại trượng phu
Trời người thế gian không ai sánh
Đấng tối thắng không ai sánh bằng
Xin nói pháp mầu cứu muôn loại
Dứt hẳn ba độc hết tội lỗi
Huệ nhãn sạch trong tiêu màn lòa
Sạch bụi lìa tối mở lưới si
Xin Đức Thế Tôn tuyên diệu pháp
Chúng sanh quá khổ không chỗ dựa
Đắm ao tam giới không ai cứu
Mau vớt lên bờ cao an ổn
Sông to kiêu mạn nước xoáy si
Bệnh tật kiện tụng sóng gào to
Chúng sanh trôi chìm không ai vớt
Xin Phật từ bi cứu thoát hiểm
Ngàn ức mặt trời chói núi vàng
Thân Phật chói sáng hơn sáng ấy
Xin dùng phạm âm thanh thắng diệu
Tuyên bố pháp đoan nghiêm tối thượng
Tự tánh các pháp vốn thanh tịnh
Thể tướng rỗng suốt như minh châu
Không có tác giả không thọ giả
Biến Chánh Giác chẳng từ ngoài được
Tự nhiên đầy đủ lực vô úy
Hiển hiện vô biên hạnh tịnh diệu
Trí giải vô biên như hư không
Xin Đấng Pháp Vương tuyên pháp diệu.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ rằng năm trăm trưởng giả này căn lành đã thành thục có thể lãnh thọ diệu pháp. Nay ta nên nói pháp cho họ phát tâm xuất gia dứt trừ phiền não được trí huệ vô lậu.
Nghĩ xong, Đức Phật liền bay lên ngồi kiết già trên hư không. Các trưởng giả thấy Phật hiện thần biến khen chưa từng có, càng kính trọng tín ngưỡng Phật hơn.
Đức Thế Tôn bảo các trưởng giả rằng: Các ông lắng nghe! Trong đời có mười sự khổ bức bách. Đó là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, sầu khổ, oán khổ, khổ thọ, ưu thọ và thống não sanh tử. Mười sự khổ bức bách như vậy làm khổ chúng sanh.
Nay các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại này các trưởng giả! Trong đời có mười thứ não hại. Đó là với thân của mình từng làm sự chẳng lợi ích, nay làm sự chẳng lợi ích, sẽ làm sự chẳng lợi ích, sẽ làm sự chẳng lợi ích.
Với chỗ ta từng yêu thích làm sự chẳng lợi ích, với chỗ ta hiện nay yêu thích làm sự chẳng lợi ích, với chỗ ta sẽ yêu thích làm sự chẳng lợi ích.
Với chỗ ta từng chẳng ưa làm sự lợi ích, với chỗ ta hiện chẳng ưa làm sự lợi ích, với chỗ ta sẽ chẳng ưa làm sự lợi ích, và ở nơi tất cả lỗi chẳng lợi ích sanh lòng não hại.
Mười sự não hại ấy các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại này các trưởng giả! Trong đời có mười thứ rừng rậm dị kiến ác kiến. Đó là ngã kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, sát thủ thú kiến, đoạn kiến, thường kiến, vô tác dụng kiến, vô nhân kiến, bất bình đẳng kiến và tà kiến.
Mười rừng rậm ác kiến ấy các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại này các trưởng giả! Trong đời bị mười thứ tên độc lớn bắn trúng. Đó là ái độc, vô minh độc, dục độc, tham độc, quá thất độc, ngu si độc, mạn độc, kiến độc, hữu độc và vô độc.
Mười thứ tên độc ấy các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại này các trưởng giả! Trong đời có mười thứ pháp ái căn bổn. Đó là do vì ái nên tìm cầu, do vì cầu nên được, do vì được nên có ngã sở hữu, do vì sở hữu nên nắm chặt, do vì nắm chặt nên tham dục, do vì tham dục nên say đắm.
Do vì say đắm nên bỏn sẻn, do vì bỏn sẻn nên góp chứa, do vì góp chứa nên gìn giữ, do vì gìn giữ nên dùng những khí giới tranh chấp kiện tụng chê bai huỷ báng chia rẽ, những pháp ác bất thiện khổ não nhân đây mà phát khởi.
Mười thứ pháp ái căn bổn như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại này các trưởng giả! Trong đời có mười thứ tà tánh. Đó là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tiến, tà niệm, tà định, tà giải thoát, tà giải thoát tri kiến.
Mười thứ tà tánh như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại này các trưởng giả! Trong đời có mười nghiệp đạo bất thiện. Đó là hại mạng, chẳng cho mà lấy, tà dâm, vọng ngữ, ly gián ngữ, thô ác ngữ, ỷ ngữ, tham dục, giận thù và tà kiến.
Mười nghiệp đạo bất thiện như vậy nay các ông có muốn giải thoát không?
Lại này các trưởng giả! Trong đời có mười thứ pháp cấu uế nhiễm ô. Đó là bỏn sẻn cấu uế, phá giới cấu uế, giận hờn cấu uế, giải đãi cấu uế, tán loạn cấu uế, ác kiến cấu uế, chẳng tuân lời dạy cấu uế, nghi hoặc cấu uế, bất tín cấu uế và chẳng cung kính cấu uế.
Mười thứ cấu uế nhiễm ô như vậy nay các ông có muốn giải thoát không?
Lại này các trưởng giả! Trong đời có mười sự sanh tử lưu chuyển đại bố úy. Đó là trói buộc trong lưới bỏn sẻn ganh ghét, che lòa trong màn vô minh, sa vào hố sâu ngu si, trôi chìm dòng nước lũ ái dục, trúng tên tà kiến, khói phẫn hận xông lấp, lửa mạnh tham dục đốt cháy, độc dược lỗi lầm làm mê, gai độc ngũ cái ngăn trở và chạy quanh trong đồng hoang đói kém.
Mười sự sanh tử lưu chuyển đại bố úy như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng?
Năm trăm trưởng giả đồng thanh nhất tâm bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay chúng tôi muốn được giải thoát mười sự khổ bức bách như là sanh già v.v… nhẫn đến sự bức bách đi quanh trong đồng hoang đói kém chúng tôi đều muốn được giải thoát tất cả.
Đừc Phật phán dạy: Này các trưởng giả! Các ông nghe kỹ. Nay ta sẽ nói chánh pháp yếu.
Nấy các trưởng giả! Nhãn chẳng cầu giải thoát, vì nhãn không tác không dụng, nhãn chẳng suy nghĩ được chẳng hay biết được. Vì thế nên nhãn chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy. Cho đến nhĩ tỷ thiệt thân và ý đều chẳng cầu giải thoát, vì nhĩ đến ý không tác không dụng, chẳng suy nghĩ được chẳng hay biết được. Vì thế nên nhĩ đến ý cũng chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy.
Lại này các trưởng giả! Sắc chẳng cầu giải thoát, vì sắc không tác không dụng, không suy nghĩ được không hay biết được.Vì thế nên sắc chẳng phài là ta, các ông phải thọ trì như vậy.
Như sắc, năm trần thanh hương vị xúc và pháp cũng đều chẳng cầu giải thoát vì đều không tác không dụng, không suy nghĩ được không hay biết được, đều chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy.
Lại này các trưởng giả! Sắc uẩn chẳng cầu giải thoát, vì sắc uẩn không tác không dụng không suy nghĩ được không hay biết được, chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy.
Bốn uẩn thọ tưởng hành và thức cũng đều chẳng cấu giải thoát, vì không tác không dụng không suy nghĩ được không hay biết được chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy.
Lại này các trưởng giả! Địa đại chẳng cầu giải thoát, vì không tác không dụng không suy nghĩ được không hay biết được không phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy.
Thủy đại, hoả đại, phong đại, không đại vì thức đại cũng đều chẳng cần giải thoát, vì đều không tác không dụng, không suy nghĩ được không hay biết được chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy.
Lại này các trưởng giả! Các pháp đều chẳng thiệt, do phân biệt mà sanh khởi, nó nương theo các duyên không có năng lực, nó chuyển đổi theo các duyên. Nếu có các duyên thì giả lập các pháp, nếu không các duyên thì không các pháp giả.
Này các trưởng giả! Tất cả các pháp chỉ là giả đặt ra để ra. Trong ấy không có gì sanh gì lão gì tử gì tận gì khởi cả. Chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử đáng dùng để quy y. Các ông phải biết như vậy.
Này các trưởng giả! Tất cả các pháp đều chẳng thiệt, do phân biệt mà sanh khởi, y cứ theo các duyên, nó yếu kém không năng lực theo các duyên mà chuyển đổi. Nếu có các duyên thì giả lập các pháp. Nếu không các duyên thì không pháp giả.
Này các trưởng giả! Tất cả các pháp chỉ là giả lập, trong ấy đều không có gì sanh gì lão gì tử gì tận gì khởi. Chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử, đáng dùng để quy y.
Này các trưởng giả! Nếu có phân biệt chẳng thiệt thì có tác ý giả lập bất chánh. Nếu không phân biệt chẳng thiệt thì không tác ý giả lập bất chánh.
Nếu có tác ý bất chánh thì có vô minh giả lập. Nếu không tác ý bất chánh thì không vô minh giả lập. Nếu có vô minh thì có hành giả lập.
Nếu không vô minh thì không các hành giả lập: Nếu có các hành thì có thức giả lập. Nếu không các hành thì không thức giả lập. Nếu có thức giả lập thì có danh sắc giả lập.
Nếu không thức thì không danh sắc giả lập. Nếu có danh sắc thì có sáu nhập giả lập. Nếu không danh sắc thì không sáu nhập giả lập. Nếu có sáu nhập thì có xúc giả lập.
Nếu không sáu nhập thì không xúc giả lập. Nếu có xúc thì có thọ giả lập. Nếu không xúc thì không thọ giả lập. Nếu có thọ thì có ái giả lập.
Nếu không thọ thì không ái giả lập. Nếu có ái thì có thủ giả lập. Nếu không ái thì không thủ giả lập. Nếu có thủ thì có hữu giả lập. Nếu không thủ thì không hữu giả lập.
Nếu có hữu thì có sanh giả lập. Nếu không hữu thì không sanh giả lập. Nếu có sanh thì có lão tử giả lập. Nếu không sanh thì không lão tử giả lập.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thánh đế
Phật Thuyết Kinh đà La Ni An Trạch
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Niệm Tử Tướng
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Vô Nhân Vô Duyên - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Ba - Phẩm Căn Bổn Phân Biệt - Kinh Anh Vũ
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Bốn Mươi Chín - Phẩm Vấn Tướng