Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Tám - Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ MƯỜI TÁM
PHÁP HỘI
HỘ QUỐC BỒ TÁT
PHẦN BA
Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!
Bồ Tát có bốn pháp không hối tiếc: Một là chẳng phá hoại cấm giới, hai là ở A Lan Nhã, ba là thật hành, bốn Thánh chủng, bốn là đa văn, đây là bốn thứ pháp không hối tiếc.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Trì giới tịnh vô cấu
Dường như châu ma ni
Chẳng sanh lòng cống cao
Khoe tôi hay trì giới
Lại đem chánh giới ấy
Dạy lại cho nhiều người
Thường hoài vọng như vậy
Thành tựu nơi Phật Giới
Bồ Tát ở rảnh vắng
Nơi Lan Nhã thanh tịnh
Cũng chẳng nghĩ tưởng ngã
Tưởng thọ giả cũng không
Quan sát nam nữ sắc
Dường như những cỏ cây
Chẳng sanh tưởng nam nữ
Tưởng ngô ngã cũng không
An trụ bốn Thánh chủng
Không giải đãi siểm khúc
Chí tâm hằng tu hành
Xa lìa những phóng dật
Cầu công đức đa văn
Thường tinh cần tu tập
Nguyện thành nhất thiết trí
Chỗ công đức tối thượng
Chúng sanh ở lao ngục
Không được ai cứu hộ
Luân chuyển sanh tử mãi
Cầu tài tự cung cấp
Tôi sẽ cầu pháp thuyền
Vớt họ khỏi sanh tử
Biển phiền não khổ lụy
Đưa họ đến bờ kia
Chúng sanh không quy y
Cũng không người cứu hộ
Chúng sanh tại hữu vi
Không ai đưa họ ra
Tôi sẽ làm Đạo Sư
Cứu họ được giải thoát
Thế nên tôi phát tâm
Cầu chứng đạo bồ đề.
Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!
Bồ Tát có bốn hạnh điều phục phải thật hành:
Một là nguyện sanh xứ lành thường gặp Chư Phật.
Hai là cúng dường Sư Trưởng mà chẳng cầu báo.
Ba là thường thích rảnh vắng vứt bỏ lợi dưỡng.
Bốn là được biện tài vô ngại Đầu Đà nhẫn pháp.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Bồ Tát dũng mãnh thích núi rừng
Thường chẳng theo người cầu lợi dưỡng
Hằng được trí sâu vô ngại biện
Giỏi hay thông đạt các pháp tướng
Thường phải cúng dường các Sư Trưởng
Tùy thuận lời thầy không chống trái
Tùy chỗ sanh ra gặp Chư Phật
Cúng dường cung kính cầu bồ đề
Thường sanh xứ tốt danh tiếng cao
Ở Trời là tôn quí trong Trời
Lại được thành tựu đạo bồ đề
Dạy các chúng sanh hành Thập Thiện
Niệm Phật công đức thường hoan hỷ
Tôi cũng chẳng lâu thành Phật Đạo
Đã thành Chánh Giác đủ công đức
Cứu độ chúng sanh khỏi sanh tử.
Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!
Bồ Tát có Bốn pháp thanh tịnh hạnh bồ đề:
Một là lúc hành bồ đề không có tâm sân hận.
Hai là vứt bỏ quyến thuộc cung điện tài bảo thích ở núi rừng cũng chẳng khoe nói công đức của mình.
Ba là dầu bố thí mà chẳng cầu quả báo.
Bốn là tinh cần thích pháp chẳng thấy lỗi của thầy.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Bồ Tát tâm tịnh không oán hận
Cũng chẳng tìm tội lỗi của người
Mình chẳng siểm khúc không nhiễm trước
Hành đạo đại thừa cầu bồ đề
Thấy rõ ở nhà là gốc khổ
Gần kề ác hữu không chánh niệm
Do đó vứt bỏ đi xuất gia
Ở nơi núi rừng cầu giải thoát
Thường ở rảnh vắng tịch tịnh vui
Dứt hẳn ái niệm nơi quyến thuộc
Chẳng tiếc thân thể và mạng sống
Riêng đi không sợ như sư tử
Khất thực nuôi thân thường biết đủ
Như loài chim bay không chứa cất
Chẳng thích sanh Trời và nhân gian
Chỉ cầu Đạo bồ đề vô thượng
Riêng đi không bạn chỉ một mình
Hằng chẳng sợ sệt như sư tử
Sợ các phiền não như thú dữ
Nếu được lợi dưỡng lòng chẳng mừng
Thấy các chúng sanh luôn phóng dật
Từ bi thệ nguyện phá lỗi ấy
Vì tôi cứu hộ các chúng sanh
Nên thường hăng say siêng tinh tấn
Phàm có phát ngôn luôn thương mến
Với kẻ ghét thương luôn cười mỉm
Chẳng dính tất cả như gió thoảng
Chỉ nên cầu nơi hạnh trượng phu
Thường ưa tu tập không vô tướng
Xem pháp hữu vi như ảo hóa
Điều phục các căn ý lớn rộng
Đi đứng luôn ưa pháp cam lộ
Thường y Phật Giáo hành đại đạo
Hằng thường thanh tịnh nơi nội tâm
Cầu Đà La Ni và biện tài
Mang gánh các khổ cầu bồ đề
Bồ Tát thường quán công hạnh ấy
Hiện tiền lợi ích sanh hoan hỷ
Nếu chẳng ưa thích đạo bồ đề
Người này không ác gì chẳng tạo.
Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát:
Bồ Tát có bốn thứ pháp đọa lạc:
Một là chẳng cung kính người khác.
Hai là bội ơn siểm khúc.
Ba là nhiều cầu lợi dưỡng danh vọng.
Bốn là trá hiện hành tốt khoe mình giỏi.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Đối với cha mẹ và Sư Trưởng
Họ thường kiêu mạn không cung kính
Trái quên ân dưỡng lòng siểm khúc
Các căn tán loạn nhiều ngu si
Luôn nhớ lợi dưỡng chẳng thôi ngớt
Siểm khúc trá hiện tướng tinh tấn
Tự nói trì giới và khổ hạnh
Không ai có được như mình cả
Ác khẩu lời thô ưa tranh đấu
Thường tìm lỗi người chẳng thôi dứt
Họ luôn xa rời hạnh Sa Môn
Làm ruộng canh tác và buôn bán
Chư Tỳ Kheo trong đời vị lai
Vứt bỏ công đức và giới hạnh
Vì lòng tật đố và đấu tranh
Làm tổn hư mất chánh pháp Phật
Họ cách bồ đề rất xa vời
Họ cũng xa rời bảy thánh tài
Chống trái tám đường chánh giải thoát
Trôi lăn năm loài trong sanh tử.
Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!
Có bốn thứ pháp chướng đạo:
Đó là bất tín, giải đãi, ngã mạn và sân hận.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Bất tín giải đãi lòng ám độn
Lòng thường ngã mạn và sân hận
Thấy Chư Tỳ Kheo hành nhẫn nhục
Đuổi xua ra khỏi các Chùa Tháp
Nếu được lợi dưỡng lòng hoan hỷ
Đều nói ta là người thường trụ
Luôn tìm mọi cách vạch lỗi người
Người nào có tội tôi trị phạt
Những người như vậy xa chánh pháp
Ganh ghét công đức đọa tam đồ
Chán ghét pháp diệu của Chư Phật
Người này sẽ vào trong lửa lớn
Người này gây ác chẳng thôi dứt
Quyết sẽ chịu đủ khổ trong khổ
Thế nên Bồ Tát cầu bồ đề
Chớ để phải hối đọa ác đạo
Vô lượng ức kiếp Phật mới hiện
Để làm lợi ích cho chúng sanh
Bồ Tát đã được thân cõi lành
Phải bỏ phóng dật cầu giải thoát.
Nói kệ xong, Đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: Này thiện nam tử!
Phải bỏ bốn hạng người chẳng được gần kề họ:
Một là chẳng được gần kề ác tri thức.
Hai là chẳng được gần kề người chấp kiến.
Ba là chẳng được gần kề kẻ báng pháp.
Bốn là chẳng được gần kề người tham lợi dưỡng.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Hay xa ác tri thức
Gần kề thiện tri thức
Đạo bồ đề tăng trưởng
Như trăng lần tròn đầy
Xa lìa kẻ chấp kiến
Chấp ngã chấp thọ giả
Bỏ đi như độc
Để cầu nên Phật Đạo
Chê bai Phật chánh pháp
Vị cam lồ tịch tịnh
Nếu muốn cầu bồ đề
Phải tránh như phẩn dơ
Xa lìa tham lợi dưỡng
Cũng bỏ người ác hạnh
Hạng ấy chẳng nên gần
Như tránh hố lửa lớn
Nếu muốn hành phục ma
Chuyển pháp Luân Vô Thượng
Muốn cầu lợi đệ nhất
Mau xa ác tri thức
Bỏ ái và ghét xấu
Lợi danh cũng xa tránh
Muốn cầu đạo vô thượng
Thường tu trí của Phật.
Đức Thế Tôn nói kệ xong, lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát có bốn thứ pháp thọ khổ đời sau:
Một là khinh mạng người có trí.
Hai là thường ôm lòng tật đố.
Ba là ở nơi tất cả pháp không có lòng tin.
Bốn là ở nơi pháp tịnh trí thường nghi không nhẫn thọ mà cầu lợi dưỡng.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Người hầu gần Phật bậc có trí
Tất cả Trời người phải cúng dường
Mà lại cống cao lòng kiêu mạn
Do đó sẽ thọ vô biên khổ
Với pháp tịnh trí không tin nhận
Lợi dưỡng được cầu đều phi pháp
Thường hoài kiêu mạn và cống cao
Thấy người có trí không cung kính
Ở trong Phật Pháp không tin hiểu
Với chúng Hiền Thánh cũng chẳng tin
Người này thường đi trong ác đạo
Sanh làm thân người nhiều ngu si
Họ bỏ thọ mạng nhơn gian rồi
Ở Đại Địa ngục chịu khổ lớn
Nơi đây kiếp tận sanh phương khác
Súc sanh ngạ quỉ cũng như vậy
Nếu người muốn cầu được làm Phật
Thành thắng trượng phu hết các khổ
Thường phải xa rời nghiệp tam đồ
Tu các công đức thành Chánh Giác.
Nói kệ xong, Đức Phật lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát:
Có bốn thứ trói buộc Bồ Tát:
Một là khinh mạn người khác.
Hai là nơi thiền định thế tục có lòng ưa thích chẳng cầu cứu cánh.
Ba là chẳng gìn giữ tâm mình, trí huệ chưa thành mà phóng dật.
Bốn là vì cầu lợi dưỡng mà vào nhà người khác.
Trên đây là bốn thứ trói buộc Bồ Tát.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Luôn luôn khinh mạn người
Ưa thích thế gian thiện
Tham trước các kiến phược
Như voi lún bùn sâu
Ưa vào nhà bạch y
Thường có lòng phóng dật
Tối ngu không trí huệ
Hạnh ấy tên trói buộc
Muốn dứt khổ sanh tử
Xa rời hẳn tam giới
Phải bỏ lòng kiêu mạn
Thường hành đạo Bồ Tát
Chịu lấy vô biên khổ
Vứt bỏ các sự vui
Cũng rời lìa thương ghét
Thành Phật không nhiễm trước
Bồ Tát phải thường tu Lục Độ
Các địa các trí các lục thảy
Tất cảc công đức nếu thành tựu
Thì được thoát khỏi lưới sanh tử
Phật ở vô lượng kiếp xa xưa
Vì các chúng sanh cầu bồ đề
Thường hành bố thí để điều phục
Bỏ lìa ân ái tu chánh đạo
Hằng chẳng xa rời chỗ vắng vẻ
Khổ hạnh ốm gầy cầu bồ đề
Phấn khởi tinh tấn không lười biếng
Cầu được trí trượng phu tối thắng
Thấy các chúng sanh tại Tam Giới
Luân chuyển năm loài chịu sanh tử
Thương xót tất cả khởi đại bi
Do đó mà cầu bồ đề Đạo
Bỏ lìa con cưng và thê thiếp
Cũng bỏ của cải bảy báu thảy
Thọ mạng Quốc Độ và Đại Địa
Để cầu bồ đề Phật trí huệ
Thuở xưa Phật ở núi rừng tốt
Làm tiên tu hành tên nhẫn nhục
Bị Vua Ca Lợi xẻo tai mũi
Máu biến làm sữa không lòng hờn
Thuở xưa từng làm con hiếu thảo
Yêu mến cúng dường cha và mẹ
Bị tên độc kẻ ác bắn trúng
Bấy giờ cũng không lòng oán giận
Chẳng tiếc mạng sống nhảy gộp cao
Để cầu lời lành Chư Phật dạy
Bấy giờ cũng không thấy thân mạng
Chỉ để thành đại sự bồ đề
Thuở xưa thương xót các thú đói
Thí thịt thân mình cho tám cọp
Bấy giờ Chư Thiên ở hư không
Khen rằng lành thay đại trượng phu
Thuở xưa ưa làm đại thí chủ
Từng làm tịnh hạnh Bà La Môn
Vì thương chúng sanh khổ đói nghèo
Vào biển cầu tìm châu như ý
Rồi bị thần biển cướp lấy mất
Bấy giờ ta cố tát biển cả
Liền được bảo châu về Diêm Phù
Dùng cứu giúp chúng sanh nghèo thiếu
Cũng từng làm Vua tên Tô Ma
Cho đến mất mạng chẳng nói dối
Các Vua do ta được giải thoát
Tiếng tăm vang dội khắp mười phương
Xưa ta từng thấy người nghèo cùng
Ta đang làm Vua đem thân thí
Khiến họ giàu to nhiều của báu
Nên ta được hiệu thí tất cả
Xưa ta từng làm Vua Thi Tỳ
Chim câu kinh sợ đáp lòng ta
Ta đem thân mình thay mạng chim
Cho chim thoát khỏi sự khủng bố
Xưa ta làm Vua tên Sư Tử
Thân mạng bệnh nặng thầy cho thuốc
Có người bệnh đến xin thuốc ấy
Ta chẳng tiếc thân cho họ trước
Xưa ta tu hành vì chúng sanh
Làm Vương Tử tên Tô Đạt Noa
Có người đến xin con và vợ
Ta chẳng hề tiếc đều cho cả
Từng làm Bồ Tát tên Nghiêm Xí
Vì cảm hóa tài đức Quốc Vương
Trải qua tám vạn bốn ngàn năm
Cố gắng tinh tấn mới cảm hóa
Cũng làm Vương Tử tên Tịnh Oai
Tự đốt thân mình cúng Tháp Phật
Cung kính cúng dường Đấng Thập Lực
Vô Thượng Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn
Từng làm Quốc Vương tên Nguyệt Quang
Có người phạm chí tên Khả Úy
Theo ta cầu xin trọn cái đầu
Ta liền mau mắn đem đầu thí
Lại làm Quốc Vương tên Phước Đức
Ở trong các tụ lạc phố phường
Chứa đầy thuốc men và thực phẩm
Để ban cho tất cả chúng sanh
Từng làm Quốc Vương tên Nhật Tịnh
Kỹ nữ xinh đẹp đủ ngàn người
Chuỗi ngọc bảy báu trang nghiêm đầu
Hoa hương đẹp thơm dùng nghiêm sức
Cũng đem bố thí cho mọi người
Lại làm Quốc Vương tên Tri Túc
Tay chân dịu mềm như bông tơ
Sắc đẹp sạch trong như hoa sen
Cũng đem bố thí các chúng sanh
Lại làm thương chủ tên Tịnh Nhãn
Đem năm trăm người tìm bảy báu
Các quỉ La Sát hiện mỹ nữ
Thương chủ cứu thoát cả đoàn người
Từng làm Vương Tử tên Phước Diệm
Thê thiếp kỹ nữ đến số ức
Thân hình xinh đẹp như Thiên Nữ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng Vô Tưởng - Chương Một - Nói Về đại Chúng - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Bổn Sư - Phẩm Hai - Phẩm Pháp Hai - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ha Lê - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thâu Lũ Na - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tập Nhất Thiết Phước đức Tam Muội - Phần Tám
Phật Thuyết Kinh Phật Bổn Hạnh - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm Hiện Nhũ Bộ Lực - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã - Phẩm Ba Mươi Ba - Phẩm Thủ Hạnh