Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Mốt - Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI MỐT
PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT
PHẦN HAI
Bạch Đức Thế Tôn! Chư Phật Như Lai bất khả tư nghị, công hạnh Bồ Tát không có ngằn mé, vì vậy nên nay tôi kính hỏi Đấng Như Lai Vô Thượng Pháp Vương đại từ đại bi, để đem lại sự lợi ích cho chúng sanh về pháp thậm thâm.
Thế nào gọi là Bồ Tát hạnh?
Dùng gì làm Anh lạc trang nghiêm mà công hạnh của Bồ Tát được thanh tịnh?
Làm sao có thể phá được tối ngu si?
Làm sao có thể dứt hết lòng nghi lầm?
Bồ Tát vì chúng sanh tu tâm từ bi thế nào?
Bồ Tát ùng hộ chúng sanh thế nào?
Thế nào là Bồ Tát hay tu Bồ Tát nghiệp, thiện nghiệp và bất thối nghiệp?
Nguyện Đức Như Lai xót thương tuyên dạy cho. Đại chúng trong Pháp Hội này đều có lợi căn trí huệ có thể hiểu lời Phật.
Có thể biết pháp giới, có thể thấu đạt pháp môn vô ngại sở hành của Bồ Tát, có thể phá hoại tất cả ma và nghiệp ma, có thể trừ hết lòng nghi, có thể hiểu cảnh giới thậm thâm của Phật, có thể biết chúng sanh giới và chúng sanh tâm tánh, có thể thấy vô lượng Chư Phật Thế Giới, có thể hộ trì Như Lai Vô Thượng chánh pháp, có thể được đại tự tại nơi tất cả pháp.
Đức Thế Tôn khen Đà La Ni Tự Tại Vương Đại Bồ Tát rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử có thể hỏi Đức Như Lai về những nghĩa thậm thâm, có thể hay thật hành vô lượng Phật hạnh, ông có thể biết hỏi Đức Phật như vậy.
Nay ông nên lắng nghe, Đức Như Lai sẽ vì ông mà tuyên nói nếu Bồ Tát thành tựu đầy đủ những công hạnh như vậy thì được đại tự tại nơi tất cả pháp.
Này thiện nam tử! Bồ Tát có bốn Anh lạc trang nghiêm, đó là giới Anh lạc trang nghiêm, tam muội Anh lạc trang nghiêm, trí huệ Anh lạc trang nghiêm và Đà La Ni Anh lạc trang nghiêm.
Giới Anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là đối với chúng sanh không có lòng làm tổn hại, nếu Bồ Tát không có tâm ác hại thì tất cả chúng sanh đều vui mừng thích thấy.
Còn có hai thứ, đó là đóng bít ác đạo và mở rộng cửa lành.
Còn có ba thứ, đó là thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh và ý thanh tịnh.
Còn có bốn thứ, đó là sở cầu đều được, sở nguyện đầy đủ, sở nguyện thành tựu, chỗ muốn thì đều có thể làm được.
Còn có năm thứ, đó là tín, giới, định, niệm và huệ.
Còn có sáu thứ, đó là chẳng phá giới, chẳng lậu giới, chẳng tạp giới, chẳng hối giới, tự tại giới, và vô lậu giới.
Còn có bảy thứ, đó bảy thanh tịnh: bố thí thanh tịnh, nhẫn nhục thanh tịnh, tinh tiến thanh tịnh, thiền định thanh tịnh, trí huệ thanh tịnh, phương tiện thanh tịnh và thiện phương tiện thanh tịnh.
Còn có tám thứ, đó là tám cụ túc: Vô tác cụ túc, địa cụ túc, bất vong tâm cụ túc, bất huởn cụ túc, chư căn cụ túc. Phật thế cụ túc, ly nạn cụ túc và thiện hữu cụ túc.
Còn có chín thứ, đó là bất động, bất úy, định trí, tịch tĩnh, chí tâm, thanh lương, kiết huởn, điều tâm và an trụ điều phục địa.
Còn có mười thứ, đó là thân thanh tịnh vì có đủ ba mươi hai tướng tốt, khẩu thanh tịnh vì lời nói không hai, ý thanh tịnh vì đã giải thoát, điền thanh tịnh vì làm cho chúng sanh đầy đủ phước đức.
Tâm thanh tịnh vì điều phục chúng sanh, cõi nước thanh tịnh vì giáo hóa chúng sanh, danh hiệu thanh tịnh vì được công Đức Như Lai, huệ thanh tịnh vì có đại thần thông, phương tiện thanh tịnh vì phá các ma chúng, và giới thanh tịnh vì có đủ pháp bất cộng.
Này thiện nam tử, các sự như vậy gọi là giới Anh lạc trang nghiêm.
Này thiện nam tử! Tam Muội Anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là vì chúng sanh mà tu tập từ tâm. Còn có hai thứ, đó là chất trực và nhu nhuyến. Còn có ba thứ, đó là chẳng hư dối, chẳng thô bạo và chẳng tà siểm. Còn có bốn thứ, đó là chẳng tham ái, chẳng sân hận, chẳng bố úy và chẳng si mê. Còn có năm thứ, đó là xa lìa năm cái chướng tam muội.
Còn có sáu thứ, đó là tu tập lục niệm tam muội. Còn có bảy thứ, đó là tu tập thất giác chi tam muội. Còn có tám thứ, đó là tu tập bát chánh đạo tam muội.
Còn có chín thứ, đó là Bồ Tát tu tập tâm bồ đề và tâm đại từ bi ở nơi tất cả chúng sanh mà tu tập niệm tâm xa lìa tất cả pháp ác dục có giác có quán tịch tĩnh hỉ lạc được Sơ Thiền, xa lìa giác quán nội tâmđược hỷ lạc chí tâm tư duy vô giác vô quán định sanh hỷ lạc được đệ Nhị Thiền, lìa hỷ tu xả đầy đủ niệm tâm không có phóng dật thân thọ an lạc được đệ Tam Thiền.
Xa lìa khổ lạc diệt trừ tâm ưu hỷ, chẳng phải khổ chẳng phải lạc tu tập xả niệm tịch tĩnh, niệm dược đệ Tứ Thiền, xa lìa sắc tướng tu tập vô lượng không tướng, xa lìa không tướng tu vô lượng thức tướng, xa lìa thức tướng tu Vô sở hữu tướng, xa lìa Vô sở hữu tướng tu Phi Tưởng Phi Phi Tưởng tướng và mặc dầu chưa thành tựu trí thiện quyền phương tiện, mà dùng sức tam muội giáo hóa chúng sanh.
Còn có mười thứ, đó là quán pháp không có sai lầm, thành tựu đầy đủ xa ma tha, tinh tiến không ngừng nghỉ, khéo biết rõ thời tiết, chí tâm thọ trì pháp lành, tâm tịch tĩnh, quán thân vô tướng, thường quán pháp giới và tâm được tự tại và chứng được Thánh tánh. Đây gọi là tam muội Anh lạc trang nghiêm.
Này thiện nam tử! Trí huệ Anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là tâm không còn nghi.
Còn có hai thứ, đó là xa lìa tâm nghi và xa lìa tâm sân.
Còn có ba thứ, đó là xa lìa vô minh, phá vỏ vô minh và làm ánh sáng lớn.
Còn có bốn thứ, đó là biết khổ, dứt tập, chứng diệt và tu hành đạo phẩm.
Còn có năm thứ, đó là giới tụ thanh tịnh, định tụ thanh tịnh, huệ tụ thanh tịnh, giải thoát tụ thanh tịnh và giải thoát tri kiến tụ thanh tịnh.
Còn có sáu thứ, đó là thanh tịnh bố thí Ba la mật có ba: Một là nội thanh tịnh quán pháp như huyễn. Hai là chúng sanh thanh tịnh quán pháp như mộng và ba là bồ đề thanh tịnh chẳng cầu quả báo.
Thanh tịnh giới Ba la mật có ba: Một là quán thân như bóng, hai là quán khẩu nhu vang và ba là quán tâm như huyễn.
Thanh tịnh nhẫn Ba la mật có ba: Một là nghe chê chẳng sân, hai là nghe khen chẳng mừng và ba là lúc bị chặt chém giết hại thường có thể quán pháp giới.
Thanh tịnh tinh tiến Ba la mật có ba: Một là chẳng tưởng, hai là vững chắc và ba là chẳng thấy pháp có tướng.
Thanh tịnh thiền Ba la mật có ba: Một là chẳng trụ trước các pháp, hai là tâm chẳng thối chuyển, ba là duyên cảnh thanh tịnh.
Thanh tịnh phương tiện Ba la mật có ba: Một là nhiếp lấy chúng sanh để cho được giải thoát, hai là thanh tịnh Đà La Ni để thọ trì chánh pháp và ba là sở nguyên thanh tịnh để tịnh Phật Quốc Độ.
Còn có bảy thứ trí huệ Anh lạc trang nghiêm, đó là tu tứ niệm xứ chẳng lấy chẳng chấp, tu tứ chánh cần chẳng xuất chẳng diệt, tu tứ thần túc thân tâm thanh tịnh, tu ngũ căn biết căn không có căn, tu ngũ lực hay phá phiền não, tu bồ đề phần biết pháp giới chân thật và tu tập Thánh Đạo không có khứ lai.
Còn có tám thứ, đó là tu tam muội chánh định để được rốt ráo thanh tịnh, tu tri để phá si ám, tu trí biết ngũ ấm để biết pháp tu, tu trí biết thập bát giới để hiểu pháp giới đồng hư không, tu trí biết thập nhị nhập để biết pháp tánh bình đẳng.
Tu trí biết mười hai nhân duyên để quán vô ngã và không có ngã sở, tu trí biết tứ Thánh Đế để phá bốn điên đảo kiến và tu trí phân biệt biết pháp giới để biết chân thật vậy.
Còn có chín thứ, đó là quán vô thường, quán vô thường khổ, quán khổ vô ngã, quán ăn bất tịnh, quán thế gian không gì đáng vui thích, quán trong vòng sanh tử có nhiều lỗi họa, quán giải thoát, quán lìa tham và quán tận diệt vậy.
Còn có mười thứ, đó là quán các pháp như ảo huyễn, quán các pháp như mộng, quán các pháp như dương diệm, quán các pháp như âm vang, quán các pháp như thân cây chuối, quán các pháp như mặt trăng trong nước, quán các pháp như bóng, quán pháp giới không có tăng giảm, quán các pháp không có đi hay ở và quán các pháp vô vi không có sanh diệt vậy. Đây là huệ Anh lạc trang nghiêm.
Này thiện nam tử! Đà La Ni Anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là chẳng mất niệm tâm.
Còn có hai thứ, đó là trước thì ghi nhận và sau thì rốt ráo có thể giữ vững.
Còn có ba thứ, đó là biết nghĩa, biết chữ và biết nói.
Còn có bốn thứ, đó là nói lời chân chánh, nói lời rõ ràng, nói lời vô ngại và nói lời không lầm lỗi.
Còn có năm thứ đó là ngũ y chỉ:
Y chỉ nơi nghĩa chẳng y chỉ nơi chữ, y chỉ nơi trí chẳng y chỉ nơi thức, y chỉ kinh liễu nghĩa mà chẳng y chỉ nơi kinh bất liễu nghĩa, y chỉ nơi chánh pháp mà chẳng y chỉ nơi người và y chỉ xuất thế chẳng y chi thế tục.
Còn có sáu thứ, đó là đúng như lời nói chân chánh mà làm, lời nói ra đều thành thiệt, phát ngôn được người thích nghe, lời nói đầy ý xót thương, lời nói sanh pháp lành và lời nói hạp thời tiết.
Còn có bảy thứ, đó là lời nói lợi ích, lời nói trang nghiêm, lời nói vô ngại, lời nói không trệ, lời nói không có hai, lời nói đã có biết trước và lời nói rõ ràng rành rẽ.
Còn có tám thứ, đó là biết lời nói của các địa phương, biết lời nói của các quỷ thần, biết lời nói của Chư Thiên, biết lời nói của các loài Rồng, biết lời nói của Thần Càn Thát Bà, biết lời nói của hàng A Tu La, biết lời nói của hàng Kim Sí Điểu và biết lời nói của các loài súc sanh.
Còn có chín thứ, đó là lời nói không e sợ, lời nói không rụt rè, lời nói không vấp váp, biết lời nói giải thoát, biết lời nói đúng pháp, biết lời nói rộng rãi, biết lời nóitheo thứ tự, biết lời nói thuyết vô thường và lời nói không cùng tận.
Còn có mười thứ, đó là lời nói phá lưới nghi, lời nói khai thị về pháp giới, lời nói khai thị về pháp môn, lời nói mở mang trí huệ, lời nói phá mê tối, lời nói hiểu mỗi mỗi chữ, lời nói khen ngợi Phật, lời nói quở trách phiền não, lời nói phân biệt căn tánh lợi hay độn và lời nói vi diệu khai thị công đức của Đức Phật. Đây là Đà La Ni Anh lạc trang nghiêm vậy.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này nên nói tụng rằng:
Bốn Anh lạc trang nghiêm
Hay trang nghiêm Đại Thừa
Là giới định trí huệ
Và Đà La Ni vô thượng
Làm cho ba nghiệp tịnh
Mọi người đều mến thích
Dứt hẳn ba ác đạo
Gọi là giới Anh lạc
Được đầy đủ sở nguyện
Được thân người thân Trời
Hay tu tập tinh tiến
Gọi là giới Anh lạc
Hay tu định vô thượng
Được hai thứ giải thoát
Thấy Niết Bàn vô thượng
Gọi là giới Anh lạc
Giới chẳng phá chẳng lậu
Vô thượng giới chẳng tạp
Hay được đại tự tại
Giới Anh lạc trang nghiêm
Giới tịnh hay tịnh thí
Giới tịnh hay tịnh nhẫn
Giới tịnh ngũ độ tịnh
Giới Anh lạc trang nghiêm
Tịnh giới tịnh ba cõi
Giới tịnh bất phóng dật
Vô úy tâm chẳng hối
Gọi là giới Anh lạc
Giới định được Thánh tánh
Cũng làm thân tâm tịnh
Nhập được vô biên định
Gọi là giới Anh lạc
Chẳng kính sợ chẳng động
Chắc được cõi thanh tịnh
Hay dứt dây phiền não
Gọi là giới Anh lạc
Hay điều người khó điều
Hay được danh tiếng lớn
Trang nghiêm tâm tự tại
Gọi là giới Anh lạc
Hay làm đúng như lời
Hay sạch miệng bốn nghiệp
Xa lìa các phiền não
Giới Anh lạc trang nghiêm
Hay thanh tịnh Phật Độ
Hay điều phục chúng sanh
Hay tu đại từ bi
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Chẳng làm các nghiệp ác
Tu các hạnh Bồ Tát
Được thập lực vô úy
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Hay nghiêm đại Niết Bàn
Hay được đại nhân quả
Từ tâm khắp chúng sanh
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Hay lìa lòng tham dối
Tu tập bốn nhiếp pháp
Dứt ái sân bố si
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Hay phá năm cái chướng
Tu tập đại niệm tâm
Trợ đạo chẳng phóng dật
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Đầy đủ hai phước trí
Đúng pháp tu duy nghĩa
Lạc hỷ trụ tịch tĩnh
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Với pháp không có nghi
Cũng không tâm si loạn
Chân thật hiểu Tứ Đế
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Trì giới tâm không chấp
Cũng chẳng lòng kiêu mạn
Chẳng thấy giới người giữ
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Vô thượng huệ tịnh định
Chẳng biết hai tịnh huệ
Hay rõ biết ba cõi
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Ý tịnh chẳng kiêu mạn
Thấy bất tịnh chẳng khinh
Biết pháp bất khả thuyết
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm trí
Trí cũng trang nghiêm huệ
Tự tha bồ đề tịnh
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Biết pháp như mộng huyễn
Chẳng nói pháp không có
Khéo tùy thuận thế gian
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm giới
Giới hay trang nghiêm huệ
Thân khẩu bồ đề tịnh
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Thấy pháp như thủy nguyệt
Cũng như nắng lúc nóng
Thuyết pháp xem như vang
Như thành Càn Thát Bà
Phi pháp chẳng làm pháp
Gọi là huệ Anh lạc
Huệ hay trang nghiêm nhẫn
Nhẫn cũng trang nghiêm huệ
Thân khẩu bồ đề tịnh
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Pháp Giới chẳng tăng giảm
Biết rồi điều chúng sanh
Chí tâm quán pháp thân
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm cần
Tinh tiến trang nghiêm huệ
Tâm định chẳng hối động
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm định
Định cũng trang nghiêm huệ
Hay thuyết thậm thâm pháp
Được vô thắng thần thông
Hay biết các phương tiện
Được vô thượng tổng trì
Pháp độ chúng sanh tịnh
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Biết các căn lợi độn
Phá phiền não các ma
Thân tâm được tự tại
Gọi Anh lạc trang nghiêm
Đạo không có khứ lai
Cũng không người khứ lai
Chẳng quá khứ vị lai
Chẳng hiện tại người tu
Chẳng phân biệt pháp giới
Hay tịnh tất cánh định
Biết các ấm nhập giới
Gọi tên huệ Anh lạc
Ấm nhập giới hư không
Không ngã không ngã sở
Sanh diệt do mười hai
Gọi là huệ Anh lạc
Biết thiệt đệ nhất nghĩa
Cũng biết ấm nhập giới
Với pháp chẳng tranh luận
Biết tam thế vô ngại
Phân biệt ba khối chúng
Vì họ nói ba thừa
Dùng Tam Bảo giáo hóa
Tu ba vô tướng định
Vô tướng biết nhất tướng
Chẳng huyễn biết như huyễn
Vô thuyết hay diễn thuyết
Thuyết không nơi bất không
Các pháp phi thường biến
Chẳng hủy hoại pháp giới
Vì nhân duyên hòa hiệp
Lưu bố trong pháp giới
Đây gọi là chân trí
Chẳng phân biệt pháp giới
Biết rõ động bất động
Biết rõ cạn và sâu
Biết rõ thường vô thường
Gọi là đại tịnh trí
Thường chẳng mất tịnh tâm
Biết rõ nơi pháp giới
Biết chữ cũng biết nghĩa
Nơi thế đế không tối
Nghe rồi hay thọ trì
Hiểu rõ tiếng mọi loài
Hay phá các tà đạo
Tu tập trí vô thượng
Y tứ y vô thượng
Là tổng trì Anh lạc
Phật nói tràng công đức
Trang nghiêm bồ đề tâm
Trong chúng vô úy thuyết
Hiểu rõ Thiên Thần ngữ
Hay phá các lưới nghi
Hay khai các pháp giới
Hay khen ngôi Tam Bảo
Khuyên người đồng cúng dường
Kề cận Phật và Tăng
Tu tập trí vô thượng
Phật nói bốn Anh lạc
Trang nghiêm Phật Bồ Tát
Nếu người chí tâm tin
Liền được Anh lạc này.
Lại này thiện nam tử! Đại Bồ Tát có tám ánh sáng lớn, do ánh sáng này mà hay phá được các sự tối tăm làm cho công hạnh của Bồ Tát thanh tịnh.
Những gì là tám?
Đó là niệm quang, ý quang, hành quang, pháp quang, trí quang, thiệt quang, thần thông quang và vô ngại trí quang vậy.
Niệm quang có tám:
Một là chẳng mất pháp lành quá khứ.
Hai là làm pháp lành vị lai.
Ba là nghe pháp chẳng quên.
Bốn là tư duy thiệt nghĩa.
Năm là chẳng bị sáu trần nhiễm hư.
Sáu là nhớ giữ chánh pháp như người giữ của, ngăn pháp ác và vì pháp lành mà giữ cửa thành thiện pháp.
Bảy là chẳng bị tà pháp gạt lầm và tám là có thể làm thêm lớn những pháp thuần thiện vậy.
Ý quang cũng có tám:
Một là nghĩa ý chẳng phải ý chữ.
Hai là trí huệ ý chẳng hình thức ý.
Ba là chánh pháp ý chẳng phải ý người.
Bốn là thiệt ý chẳng phải hư ý.
Năm là Bồ Tát ý chẳng phải Thanh Văn ý, chẳng phải Duyên Giác ý.
Sáu là thượng ý chẳng phải hạ ý.
Bảy là Phật ý chẳng phải thối thất ý và tám là lân mẫn ý chẳng phải hại ý vậy.
Hành quang cũng có tám:
Một là pháp hành.
Hai là nhất thiết hành.
Ba là chúng sanh hành.
Bốn là chúng sanh tâm hành.
Năm là thập nhị nhân duyên hành.
Sáu là quảng thuyết hành.
Bảy là công hạnh hành.
Tám là nhất thiết Phật Pháp hành vậy.
Pháp quang cũng có tám:
Một là thế pháp quang.
Hai là xuất thế pháp quang.
Ba là vô lậu pháp quang.
Bốn là vô vi pháp quang.
Năm là giải thoát pháp quang.
Sáu là tâm giải thoát pháp quang.
Bảy là tất cánh giải thoát pháp quang.
Tám là huệ phá vô minh pháp quang vậy.
Trí quang cũng có tám:
Một là nhập chánh trí quang.
Hai là Tu Đà Hoàn trí quang.
Ba là Tu Đà Hàm trí quang.
Bốn là A Na Hàm trí quang.
Năm là A La Hán trí quang.
Sáu là Bích Chi Phật trí quang.
Bảy là Bồ Tát trí quang.
Tám là Chánh Giác trí quang vậy.
Thiệt quang cũng có tám:
Một là chánh định hạnh.
Hai là được quả Tu Đà Hoàn.
Ba là quả Tư Đà Hàm.
Bốn là quả A Na Hàm.
Năm là quả A La Hán.
Sáu là quả Bích Chi Phật.
Bảy là Bồ Tát, Tám là Phật bồ đề vậy.
Thần thông quang cũng có tám:
Một là nhãn quang hay thấy chánh sắc.
Hai là nhĩ quang hay nghe chánh thanh.
Ba là niệm quang hay nhớ quá khứ vô số kiếp chúng sanh.
Bốn là tánh quang hay quan sát tâm tánh thanh tịnh của chúng sanh.
Năm là hư không quang dùng đại thần thông có thể đến vô lượng Thế Giới mười phương.
Sáu là phương tiện quang vì đủ có trí vô lậu.
Bảy là công đức trang nghiêm quang vì lợi ích tất cả chúng sanh.
Tám là trí huệ trang nghiêm quang vì phá lòng nghi lầm của tất cả chúng sanh vậy.
Vô ngại trí quang cũng có tám:
Một là trí quang.
Hai là ý quang.
Ba là huệ quang.
Bốn là Phật Quang.
Năm là chánh kiến quang.
Sáu là làm thanh tịnh tâm chúng sanh quang.
Bảy là giải thoát quang.
Tám là tất cánh quang vậy.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
Tu tập sáng niệm tâm
Chẳng quên nghiệp thiện ác
Thích nghe tán tụng Kinh
Tu tập chẳng phóng dật
Hay điều phục các căn
An trụ trong tịch tĩnh
Thêm lớn các pháp lành
Tu tập niệm quang minh
Hay ngăn dừng pháp ác
Như người giữ thành giỏi
Hay thủ hộ pháp thành
Chẳng cho bốn ma vào
Chẳng chạy theo âm thanh
Thường tư duy chân nghĩa
Gần kề thiện tri thức
Hỉ lạc trụ đúng pháp
Trí huệ vô biên thượng
Dứt hẳn các phiền não
Tà pháp chẳng động đươc
Đời ác chẳng sanh chê
Thành tâm niệm bồ đề
Chẳng nói tâm tiểu thừa
Thường thích nhớ thượng ý
Vì người phá hạ ý
Chẳng sợ ma phiền não
Tu tập tâm từ bi
Chẳng nghĩ hại chúng sanh
Được đủ trí quang lớn
Hay phá các lòng nghi
Hiểu rõ nghĩa thậm thâm
Biết phương tiện chân thật
Tu bốn trí vô ngại
Thích quán mười hai duyên
Là nhân của chúng sanh
Biết vô tác vô thọ
Hay tu pháp quang lớn
Hay biết các Phật Pháp
Tu hạnh thế xuất thế
Hay đến mười phương cõi
Biết rõ nghiệp Nhân Thiên
Tu tập trí vô thượng
Ba thừa về nhất thừa
Tu tập bát chánh đạo
Vì phá pháp ba đời
Như thiệt biết rõ rành
Pháp hữu lậu vô lậu
Lợi ích hàng Nhân Thiên
Dạy họ dứt hữu lậu
Biết rõ đúng chân thật
Pháp hữu vi vô vi
Tịch tĩnh quang vô ngại
Chẳng dính tướng hữu vi
Biết kiết nhập xuất duyên
Biết chúng tâm tánh tịnh
Nếu có đại thừa định
Liền biết pháp như vậy
Thích trụ tánh vô lậu
Xong bốn quả Sa Môn
Biết Bồ Tát đạo hạnh
Nên tu vô ngại trí
Phá tà tu thiệt quang
Vào chứng vô sở úy
Thích nói nghĩa chân thật
Vì phá pháp sanh tử
Nhãn nhĩ tịnh không chướng
Thấy nghe sắc thanh chánh
Quá khứ nhớ chẳng lầm
Cũng biết rõ tha tâm
Đến mười phương vô ngại
Biết pháp như hư không
Được vô lậu trí huệ
Vì điều phục chúng sanh
Đủ công đức trí huệ
Vì lợi ích chúng sanh
Ở trong vô lượng đời
Cầu hai trang nghiêm này
Thích thọ trì tịnh giới
Thích thủ hộ Phật Pháp
Tu tập chân thật quang
Vì trụ đúng chánh pháp
Phật nói Vô Lượng Quang
Để cho chúng sanh được
Có ai tin Kinh này
Liền được quang như vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Tám - Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Bốn Mươi Tám - phẩm Thành Biện
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Sáu Mươi - Kinh Bóng Vàng đáy Nước
Phật Thuyết Kinh Chuyển Pháp Luân Tồi Ma Oán địch Pháp