Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Năm - Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát - Phần Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI NĂM

PHÁP HỘI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT  

PHẦN NĂM  

Này Sanh Nghi! Lúc ấy trong Quốc Độ Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát độ có một Chuyển Luân Thánh Vương tên là Chúng Thiên Quán đảnh thống lãnh cả cõi Đại Thiên.

Thánh Vương ấy ở chỗ Chư Phật đã từ lâu vun trồng cội công đức, thành tựu lợi căn trí huệ oai đức, có ba vạn sáu ngàn Vương Tử tất cả đều hóa sanh ngồi kiết già trong hoa sen, cũng từ lâu trồng căn lành ở chỗ Chư Phật quá khứ.

Bấy giờ Đức Phật Tịnh Nhất Thiết Nguyện Oai đức Thắng Vương Như Lai cùng hàng Trời người đại chúng vi nhiễu đi đến chỗ ở của Thánh Vương.

Có chúng Bồ Tát vô lượng vô số chẳng phải các toán sư và đệ tử của toán sư mà có thể tính biết.

Đức Phật ấy thọ một trăm ngàn kiếp, mỗi kiếp thời gian dài ngắn như kiếp hiền ở đây. Chúng sanh cõi ấy trải qua ngần ấy kiếp số mà gọi là một kiếp.

Thánh Vương Chúng Thiên Quán đảnh thỉnh Đức Phật Tịnh Nhất Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai và đại thừa Tăng trong bốn mươi trung kiếp, mỗi trung kiếp ấy thời gian dài ngắn như một trung kiếp tại đây, thọ sự cúng dường thích ý những món ăn uống ngon lành, những y phục, ngọa cụ, phòng nhà, đền đài, vườn tược, rừng cây, ao tắm v.v… tất cả món cần dùng.

Để cúng dường Đức Phật, Thánh Vương Chúng Thiên Quán đảnh trang nghiêm một Tiểu Thiên Thế Giới làm ngôi nhà đẹp, đất toàn bằng lưu ly bảo, tường thành bao quanh bằng các thứ báu hiệp thành.

Cột nhà ấy bằng gỗ xích chiên đàn và gỗ Ưu Đà La Sa La chiên đàn xen chạm cẩn với báu xa cừ. Ngôi nhà báu đẹp trang nghiêm dường ấy rất đáng ưa thích.

Đức Phật Tịnh Nhất Thiết Nguyện Oai đức Thắng Vương Như Lai sau giờ ăn giữa ngày, từ tam muội dậy, ở trong ngôi nhà ấy vì đại chúng thuyết pháp.

Thánh Vương ấy còn trang nghiêm một ngôi nhà lớn rộng bằng một tứ thiên hạ, muốn Đức Thế Tôn và đại thừa Tăng thọ thực trong đó, mỗi ngày cần dùng vật thực giá trị bằng khối trân bảo như tòa núi lớn.

Trong thời gian bốn mươi trung kiếp cúng dường Phật và Bồ Tát Tăng, Thánh Vương Chúng Thiên Quán đảnh thường chuyên nhất niệm chưa từng phóng dật chẳng làm việc gì khác, thường dùng tất cả món thích dùng để cúng dường Phật và Tăng.

Làm công đức trong thời gian ấy, Thánh Vương cũng chẳng phát nguyện chẳng cầu mong sự gì cả. Mãn bốn mươi trung kiếp ở ngày sau rốt, Thánh Vương đem ba y vô giá cúng dường Phật và Bồ Tát Tăng. Ngày ấy sau giờ ăn giữa ngày, Đức Thế Tôn ấy vì đại chúng nói rộng Diệu Pháp.

Lúc ấy vì nghe pháp, Thánh Vương và hàng thị tùng cùng đến chỗ Phật.

Đức Phật Tịnh Nhất Thiết Nguyện Oai đức Thắng Vương Như Lai biết Thánh Vương công đức thuần thục kham nghiệm hữu dụng, Đức Phật ngồi yên bất động trên tòa sư tử suốt bảy ngày bảy đêm không có ý tưởng ăn uống nói Kinh đại thừa tên là Nhiếp Bồ Tát Tịnh Hạnh Bất Thối Chuyển Luân Phương Tiện Thánh Vương Chúng Thiên Quán đảnh và hàng đại chúng trong bảy ngày bảy đêm nghe pháp cũng không có ý tưởng ăn uống.

Đức Thế Tôn ấy nói pháp như vậy muốn cho đại chúng nghe thọ trì hết chẳng quên mất.

Trong bảy ngày đêm Thánh Vương Chúng Thiên Quán đảnh tâm chẳng phân tán theo Phật nghe pháp vui mừng hớn hở thân tâm vui thích, đứng dậy lễ chân Phật hữu nhiễu bảy vòng rồi gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên Phật thâm tâm thuần chí phát tâm vô thượng bồ đề nói kệ rằng:

Tôi phát tâm vô thượng

Thỉnh triệu các quần sanh

Người không cứu tôi cứu

Đời tối tôi khai sáng

Chẳng vì một pháp hành

Chẳng vì cúng một Phật

Chẳng vì một chúng sanh

Tôi nguyện độ không thừa

Khổ sanh già bệnh chết

Kẻ bị khổ bức não

Tất cả chớ sầu lo

Tôi thề sẽ độ họ

Tham sân si mạn trùm

Thất đạo tạo nghiệp ác

Chánh pháp trừ tà nghiệp

Dẫn đến thành vô úy

Chúng sanh đọa tam đồ

Chỗ nạn chịu các khổ

Bền chí chớ lo sợ

Tôi đến ban vô úy

Bị vô minh si che

Chẳng biết môn giải thoát

Vì họ tôi đốt đuốc

Được sáng đến Niết Bàn

Bị bốn dòng cuốn trôi

Chìm đắm chẳng được bờ

Tôi tạo thuyền thắng pháp

Cho họ khỏi các dòng

Ở sanh tử đói khát

Ăn hết phước lành trước

Vì họ làm Đạo Sư

Sẽ khiến đến an vui.

Thánh Vương Chúng Thiên Quán đảnh nói kệ xong, Thế Giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát độ liền chấn động sáu cách, có ánh sáng chiếu khắp nơi.

Thánh Vương phát đạo tâm rồi được Bồ Tát tam muội tên là Bất Thối bồ đề tâm, do sức tam muội ấy nên thường được thấy Chư Phật vô ngại, cho đến trong chiêm bao các phiền não cũng chẳng hiện hành, từ đó về sau, tâm Thánh Vương chẳng cùng chung với tật đố, chẳng cùng chung với phá giới, chẳng cùng chung với sân hận, chẳng cùng chung với giải đãi, chẳng cùng chung với tán loạn, chẳng cùng chung với ngu si.

Vì nghe pháp nên trọn đời Thánh Vương thường hầu hai bên Đức Thế Tôn, cũng thường giáo hóa ba vạn sáu ngàn Vương Tử khiến phát tâm vô thượng bồ đề, cũng giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh khác khiến họ phát bồ đề tâm.

Này Sanh Nghi! Thánh Vương Chúng Thiên Quán đảnh thuở xa xưa ấy nay chính là Bồ Tát Hư Không Tạng vậy. Còn chư Vương Tử và đại chúng được Thánh Vương giáo hóa khiến phát bồ đề tâm ấy thì nay là Chư Đại Bồ Tát đại lực tinh tiến đại trí huệ đang nghe pháp đây vậy.

Này Sanh Nghi! Hư Không Tạng từ lúc phát tâm đến nay trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp hành Bồ Tát Đạo.

Hư Không Tạng Bồ Tát từ lúc phát tâm về sau chưa từng mất tâm bồ đề, chưa từng thai sanh, thường gặp Chư Phật nghe pháp và cúng dường Chúng Tăng, ở chỗ Chư Phật thọ trì chánh pháp nhiếp thủ kiên trì chưa từng thất niệm, hay khéo phân biệt thật hành đầy đủ.

Lúc sơ phát tâm rồi được bậc thậm thâm nan giải Bồ Tát Sơ Địa, hay làm các sự bố thí thành tựu đại bi, được không hí luận phát siêng tinh tiến không hề nhàm mỏi, học tất cả các sách luận, biết tất cả thế pháp, thành tựu đức tàm quí, được niệm lực kiên cố.

Bồ Tát ấy trụ bậc Sơ Địa trong vô lượng A tăng kỳ bất khả xưng, bất khả lượng, bất khả tư nghị, bất khả thuyết bất khả thuyết A tăng kỳ kiếp hay thanh tịnh thuần chí đầy đủ hành đàn Ba la mật, với các chúng sanh thường hành đại bi, siêng tu pháp tứ nhiếp tất cả Ba la mật và các pháp trợ đạo, thành tựu dục tinh tiến bất phóng dật đều tùy thuận đàn Ba la mật.

Bồ Tát ấy trụ bậc Sơ Địa thường siêng hầu hạ cúng dường Chư Phật siêng cầu phương tiện giáo hóa chúng sanh tịnh Phật Quốc Độ.

Bồ Tát ấy trụ bậc Sơ Địa được nhập tất cả các bậc địa trí huệ quang minh mà chẳng quá Sơ Địa, sau đó mới thành tựu vô lượng công đức trí huệ tư lương, được Như Lai lực trì bất thối thần thông đã lìa các chướng ngại của chư địa.

Rời từ bậc Sơ Địa nhập Bồ Tát đệ Nhị địa, trụ vô lượng A tăng kỳ kiếp thanh tịnh bậc Nhị Địa tu Thi Ba la mật.

Nhẫn đến Bồ Tát đệ Thập Địa vì tất cả chúng sanh, mỗi địa trải qua kiếp số cũng như vậy. Trong mỗi mỗi địa quá vô lượng A tăng kỳ kiếp thành tựu Bồ Tát hạnh, vì các chúng sanh hiện làm Phật Sự mà chẳng bỏ Bồ Tát sơ hành.

Này Sanh Nghi! Ít có Bồ Tát nào có thể thật hành thậm thâm bất tư nghị thù thắng bất tán loạn thuần chí siêng tu tinh tiến như Hư Không Tạng Bồ Tát đã thật hành thành tựu như vậy.

Sanh Nghi Bồ Tát nói với Hư Không Tạng Bồ Tát: Hi hữu Đại Sĩ bèn có thể hoằng thệ nguyện như vậy ở trong đại thừa, trụ lâu nơi sanh tử không có mỏi mệt.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Sanh Nghi Bồ Tát: Thưa Đại Sĩ! Như đại địa này chuyên chở núi sông đá vách cây cối lùm rừng tất cả thảo mộc trăm thứ lúa đậu và các loại chúng sanh, nó có mỏi mệt chăng?

Sanh Nghi Bồ Tát đáp rằng: Không hề có mỏi mệt, thưa Đại Sĩ.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: Tâm của đại thừa như đại địa, vì thuần chí thành tựu nên thật hành Bồ Tát hạnh không hề có mỏi mệt.

Như đại địa, đại thuỷ, đại phong thường làm tất cả phận sự vẫn không hề mỏi mệt, như hư không chứa trì tất cả đại địa, đại thủy, đại phong, hư không không có ý chỉ không có chướng ngại cũng không có mỏi mệt.

Tâm của đại thừa như hư không. Do sức bát nhã Ba la mật tập hợp tất cả Phật Pháp không hề có lười bỏ mỏi mệt cũng như vậy.

Tại sao?

Vì Bồ Tát biết tất cả các pháp tướng mà được thành tựu không có ai sanh ai làm ai thọ. Do nhân duyên hiệp lại mà có làm ra. Các pháp được làm ra cũng không có thiệt, vì bổn tế rỗng không, vì bổn tế rời lìa vậy nên thiệt không có thành tựu, vì tự tánh rỗng không nên không có sanh không có diệt.

Vì biết tất cả pháp tánhtướng như vậy nên không thấy có pháp gì là có thể sanh ra sự mỏi mệt và cũng không có ai là người mỏi mệt.

Tại sao?

Vì Bồ Tát biết tất cả các pháp không có hai, biết tánh sanh tử bình đẳng với tánh Niết Bàn, biết tánh Niết Bàn bình đẳng với tánh tất cả các pháp, biết tánh tất cả các pháp bình đẳng với vô tánh, cũng chẳng dựa cậy chẳng trụ trước.

Biết tất cả pháp quá khứ và vị lai đều không có tự tánh, Bồ Tát do định lực và nguyện lực nên chẳng khởi định mà có thể hiện tất cả việc làm.

Sanh Nghi Bồ Tát nói với Hư Không Tạng Bồ Tát: Ngưỡng mong Đại Sĩ nói rõ tam muội hành nghiệp của đại thừa.

Sao gọi là tam muội?

Sao gọi là hành tam muội nghiệp?

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: Có tám vạn bốn ngàn môn tam muội. Các môn tam muội này có thể tổng nhiếp tất cả môn tam muội khác.

Những gì là tám vạn bốn ngàn môn tam muội?

Bồ Tát có tam muội tên là bất vong bồ đề tâm, hay thành tựu hạnh chẳng tán loạn.

Có tam muội tên hàng phục, hay thanh tịnh thuần chí.

Có tam muội tên bất hiển hành, hay cứu cánh thành tựu bất thối việc được làm.

Có tam muội tên vô y, hay tăng tiến thành tựu cứu cánh.

Có tam muội tên vô cấu, hay thành tựu tự tâm.

Có tam muội tên chiếu diệu, hay khai thị thiện pháp.

Có tam muội tên chân tịnh, hay quá tất cả ma nghiệp.

Có tam muội tên dũng xuất, trọn chẳng bị các luận thuyết ngoại đạo chế phục.

Có tam muội tên xả ly, hay điều phục tất cả phiền não kiết sử.

Có tam muội tên hồi phục, hay khiến tất cả nhập vào đạo chân thiệt.

Có tam muội tên chuyển tiến, hay lìa Thanh Văn địa và Bích Chi Phật địa.

Có tam muội tên là Lạc Du, hay chẳng nhàm sanh tử.

Có tam muội tên Xu Hướng, hay từ một địa đến một địa.

Có tam muội tên Di Dịch, hay thành tựu vui đẹp đại chúng.

Có tam muội tên Vô Ngại Quang, hay khiến tất cả chúng sanh thành tựu tâm bình đẳng.

Có tam muội tên Tri Sở Tác, hay thuận tất cả sở tác không trái nghịch.

Có tam muội tên Sư Tử Tướng, hay thành tựu đại chúng vô sở úy.

Có tam muội tên Tâm Dũng, hay hàng phục tứ ma.

Có tam muội tên Liên Hoa Trang Nghiêm, hay thành tựu chẳng nhiễm thế pháp.

Có tam muội tên Quang Trang Nghiêm, hay chiếu khắp Chư Phật Thế Giới.

Có tam muội tên Thanh Lương, hay dứt lìa tắng ái.

Có tam muội tên Tràng Tướng, hay thành tựu tất cả Phật Pháp quang minh.

Có tam muội tên Cự Vương, hay thành tựu đại trí huệ quang minh.

Có tam muội tên Nhật Quang, hay thành tựu đoạn trừ vô minh tối tăm.

Có tam muội tên Tập Đức, hay thành tựu biện từ vô tận.

Có tam muội tên Na La Diên, hay thành tựu thân kim cương.

Có tam muội tên Kiên Cố, hay thành tựu tâm chẳng điệu động.

Có tam muội tên Di Lâu Tràng, hay thành tựu vô kiến đảnh tướng.

Có tam muội tên Kiên Tự Tại, hay thành tựu cứu cánh bổn nguyện.

Có tam muội tên Kim Cương Thổ, hay thành tựu bất thối thần thông.

Có tam muội tên Kim Cương Tràng, hay thành tựu thăng lên Đạo Tràng.

Có tam muội tên Dụ Như Kim Cương, khéo hay soi suốt tất cả các pháp.

Có tam muội tên Hành Vương, hay thấy biết tâm hành tất cả chúng sanh.

Có tam muội tên Huệ Vương, hay thành tựu thắng trí biết các căn đầy đủ hoặc chưa đầy đủ.

Có tam muội tên Tùy Loại, hay thành tựu tùy chúng sanh tánh mà vì họ thuyết pháp.

Có tam muội tên Tu Nhất Thiết Thân, hay thành tựu Pháp Thân.

Có tam muội tên Bất Thuấn, hay thành tựu vô ngại thấy Chư Như Lai.

Có tam muội tên Vô Tranh, hay được phân biệt tất cả nhân duyên.

Có tam muội tên Vô Cấu Luân, hay thành tựu chuyển Diệu Pháp luân.

Có tam muội tên Điện Quan, hay biết được nhân duyên các pháp.

Có tam muội tên Thiện Phân Biệt, hay biết các giới đều đồng một giới.

Có tam muội tên Trang Nghiêm Vương, hay thành tựu các tướng hảo.

Có tam muội tên Tùy Giải Vương, hay dùng một âm thanh đáp tất cả.

Có tam muội tên Bất Phân Biệt Pháp Giới, hay biết tất cả tam muội đồng một tam muội.

Có tam muội tên Kiên Cố, hay được bất thối nơi các pháp tánh.

Có tam muội tên Bất Khả Hoại, hay biết các pháp đồng với pháp tánh.

Có tam muội tên Vô Chung, hay biết bổn tế chẳng phải tế.

Có tam muội tên Vô Tác, hay thành tựu như hư không có biến đổi.

Có tam muội tên Vô Động, hay biết các pháp bình đẳng như hư không.

Có tam muội tên Tịnh Trụ, hay thành tựu các Ba la mật.

Có tam muội tên Thiện Nhiếp, hay thành tựu tứ nhiếp pháp.

Có tam muội tên Đẳng Hạnh, hay thành tựu bốn phạm hạnh.

Có tam muội tên Vô Ngại Quán, hay thành tựu các pháp trợ đạo.

Có tam muội tên Hải Ấn, hay tổng trì tất cả pháp được Chư Phật nói.

Có tam muội tên là Khôn, hay dứt trừ tất cả giác quán.

Có tam muội tên Vô Nguyện, hay thành tựu tất cả tịnh nguyện.

Có tam muội tên Quyết Liễu, hay được thành tựu vô sanh pháp nhẫn.

Có tam muội tên Bất Thoát, hay được thành tựu chẳng mất pháp đã được nghe.

Có tam muội tên Vô Ế, hay dùng thiện thuyết làm vui đẹp chúng sanh.

Có tam muội tên Đắc Phong, hay được thành tựu bảo thủ.

Có tam muội tên Pháp Vân, hay mưa tất cả các pháp môn.

Có tam muội tên Bảo Trang Nghiêm, hay được thành tựu chẳng dứt Tam bảo thắng chủng.

Có tam muội tên Vô Tỉ, hay thành tựu các sự nghiệp do trí làm ra.

Có tam muội tên Hư Không Môn, hay được rời lìa tất cả chướng ngại.

Có tam muội tên Trí Ấn, hay được biết khắp tất cả các pháp.

Có tam muội tên Hiện Kiến Chư Phật, hay được thành tựu Như Lai công đức.

Có tam muội tên Tuyển Trạch Tịch Tĩnh Như Ý, hay được thành tựu rời lìa nơi bổn tế.

Có tam muội tên Phân Biệt Nhất Tướng Pháp Môn, hay được thành tựu đời vị lai nói pháp môn nhất tướng.

Có tam muội tên Liễu Tri Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Tánh, hay được thành tựu hiểu rõ tất cả Kinh Sách.

Có tam muội tên Tập Chư Công Đức, hay được nhuận ích tất cả chúng sanh.

Có tam muội tên Du Hí Thần Thông, hay được thành tựu bất tư nghị giải thoát.

Có tam muội tên Tự Giác, hay nhập vào tạng bí mật của Như Lai.

Có tam muội tên Thủ Lăng Nghiêm, có thể ở trong Bồ Tát địa cho đến thị hiện đại Niết Bàn.

Có tam muội tên Biến Chí, hay được thành tựu thị hiện thọ sanh các nơi các xứ.

Có tam muội tên Quán Đảnh Vương, hay được thành tựu Bồ Tát sở hành không còn dư.

Có tam muội tên Vô Thắng, hay được thành tựu Như Lai thập lực.

Có tam muội tên Vô Tận, hay được thành tựu tứ vô sở úy.

Có tam muội tên Vô Đẳng Đẳng, hay được thành tựu Phật bất cộng pháp.

Có tam muội tên Nguyện Vương, hay được thành tựu pháp Thanh Văn tự lợi lợi tha công chẳng luống uổng.

Có tam muội tên Vô Cấu Ấn, hay được hiền tiền giác liễu Chư Phật Pháp.

Có tam muội tên Thiện Tri Giác, hay thành tựu nhất thiết trí không có sót dư.

Có tam muội tên tận Vô Biên, hay thành tựu tất cả Phật Sự thọ hành không dư thừa.

Có tam muội được nói ở trên làm đầu cho tám vạn bốn ngàn môn tam muội. Mỗi mỗi tam muội dùng vô lượng A tăng kỳ trăm ngàn vạn ức tam muội là quyến thuộc.

Thưa Sanh Nghi Đại Sĩ, các tam muội ấy hay biết rõ các pháp sở hành của tám vạn bốn ngàn loại chúng sanh, cũng hay hiển hiện tám vạn bốn ngàn pháp tụ.

Đây là lược nói Bồ Tát hạnh và phần ít Pháp Tạng của Chư Phật. Nhưng Bồ Tát hạnh có vô lượng vô biên và Pháp Tạng của Chư Phật thì bất khả tư nghị vậy.

Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có một vạn sáu ngàn Bồ Tát được nhu thuận nhẫn và vô lượng tam muội hiện ra. Còn có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề.

Đức Thế Tôn khen rằng: Lành thay, lành thay! Hư Không Tạng khéo nói pháp môn tam muội ấy, khéo nói thành tựu Như Lai. Như chính thân ông được chứng được hiện hành, pháp ấy chẳng từ người mà được.

Sanh Nghi Bồ Tát chắp tay hướng về Hư Không Tạng Bồ Tát mà bạch rằng: Hi hữu Đại Sĩ có thể thành tựu công đức bất khả tư nghị như vậy, chẳng từ người khác mà được nhập vào cảnh giới thắng trí Như Lai. Tôi cũng nguyện thích muốn làm cho tất cả chúng sanh được Pháp Giới Như Lai bất khả tư nghị ấy.

Lúc bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi Phất hỏi Sanh Nghi Bồ Tát: Thưa Đại Sĩ! Ai vì Ngài mà đặt cho tên Sanh Nghi ấy?

Sanh Nghi Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chính bồ đề tâm đặt tên Sanh Nghi cho tôi.

Tại sao như vậy?

Vì người chẳng phát bồ đề tâm thì ở trong Phật Pháp trọn chẳng sanh nghi. Người mà phát tâm vô thượng bồ đề thì đối với tất cả Phật Pháp sanh nghi hoặc, tại sao, vì người ấy muốn được biết rõ hiện tiền tất cả Phật Pháp.

Ví như Thái Tử của Vua Quán đảnh Sát Đế Lợi thành tựu tướng Vua đáng nên làm Quốc Vương, kế sau Vua cha phải nối ngôi vua, vì vậy mà Thái Tử ấy luôn luôn thường hỏi pháp trị nước, như là tôi sẽ làm thế nào giám lãnh quốc sự.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát cứu cánh tâm vô thượng bồ đề, kế sau Đức Như Lai cũng phải nối ngôi tôn quí Vô Thượng Pháp Vương, cũng luôn luôn thường suy nghĩ hỏi han những pháp tương ưng nhất thiết trí, như là tôi sẽ phải thế nào thọ trì Pháp Phật vô thượng, vì vậy mà ở nơi Phật Pháp thường sanh nghi. Vì nhân duyên ấy nên do nơi bồ đề tâm mà lập nên tên Sanh Nghi này vậy.

Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Tôi từ xưa đến nay chẳng nhớ có lúc nào gặp Chư Phật, đại thừa, chư thiện tri thức mà chẳng thưa hỏi Phật Pháp vi diệu, thế nên tôi chân thiệt tên là Sanh Nghi vậy.

Lúc bấy giờ Hư Không Tạng Đại Bồ Tát bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Cảnh giới Chư Phật bất khả tư nghị, những pháp nên làm của đại thừa cũng vô lượng. Vì vậy nên pháp hành ấy chẳng thể dùng ít thệ trang nghiêm được, chẳng thể dùng ít ngôn thuyết để nói được, chẳng thể dùng tiểu thừa đạo mà thành tựu được.

Lành thay Đức Thế Tôn! Ngưỡng mong Như Lai nói Bồ Tát đại thệ trang nghiêm và đạo trang nghiêm. Bồ Tát do đại thệ trang nghiêm và đạo trang nghiêm mà có thể thừa đại thừa hành chân thiệt tối thượng xuất thế đạo. Vì sẽ được xuất thế đại thừa vô thượng thành tựu nhất thiết tự nhiên đại trí, dầu chưa thành nhất thiết trí mà có thể làm Phật Sự lợi ích chúng sanh.

Đức Phật nói: Lành thay, lành thay! Này Hư Không Tạng! Lắng nghe lắng nghe khéo suy nghĩ đó, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói đại thừa đại thệ trang nghiêm thừa trang nghiêm và đạo trang nghiêm.

Này Hư Không Tạng! Bồ Tát có hai mươi pháp trang nghiêm để tự trang nghiêm, Bồ Tát trang nghiêm rồi có thể thừa đại thừa.

Những gì là hai mươi pháp?

Nếu có Bồ Tát cứu cánh phát tâm vô thượng bồ đề với tất cả chúng sanh phát tối thắng đại bi, sanh lòng lợi ích chúng sanh. Sanh lòng lợi ích chúng sanh rồi thì có thể trang nghiêm vô thượng đại thệ.

Sao gọi là đại thệ trang nghiêm?

Vì độ người chưa được độ mà đại thệ trang nghiêm ngồi ghe thuyền lớn vậy.

Vì giải rõ cho người chưa được rõ mà đại thệ trang nghiêm thoát hư vọng điên đảo vậy.

Vì an ổn người chưa an mà đại thệ trang nghiêm an ở vô úy đạo vậy.

Vì người chưa được Niết Bàn khiến họ được Niết Bàn mà đại thệ trang nghiêm xả bỏ ngũ ấm gánh nặng vậy.

Vì siêng thường cung cấp đủ cho chúng sanh mà đại thệ trang nghiêm tinh tiến chẳng giải đãi vậy.

Vì chẳng bỏ vô lượng sanh tử mà đại thệ trang nghiêm chẳng mỏi nhàm vậy.

Vì vui đẹp tất cả Chư Phật mà đại thệ trang nghiêm hiện tiền cúng dường cung kính vậy.

Vì thọ trì tất cả Phật Pháp mà đại thệ trang nghiêm chẳng dứt giống Tam Bảo vậy.

Vì thọ trì chẳng quên pháp được nghe mà đại thệ trang nghiêm được Đà La Ni tổng trì vậy.

Vì khéo thuyết pháp vui đẹp tất cả chúng sanh mà đại thệ trang nghiêm được biện tài vô ngại vậy.

Vì tập họp vô lượng công đức tư lương mà đại thệ trang nghiêm thành tựu tướng hảo vậy.

Vì vui đẹp tất cả thiện tri thức mà đại thệ trang nghiêm kiên cố sở hành vậy.

Vì ngăn tâm tán động mà đại thệ trang nghiêm sanh các thiền giải thoát tam muội vậy.

Vì ở chỗ A Lan Nhã xả ly thân mạng mà đại thệ trang nghiêm được lục thần thông vậy.

Vì muốn Đại Sư tử hống không có kinh sợ mà đại thệ trang nghiêm hiện tiền được vô ngã pháp vậy.

Vì muốn đến tất cả Thế Giới mà đại thệ trang nghiêm muốn biết tất cả pháp như ảo huyễn như chiêm bao như bóng tượng vậy.

Vì chiếu khắp nghiêm sức tất cả Thế Giới mà đại thệ trang nghiêm thanh tịnh cấm giới thọ trì thành tựu lực dụng vậy.

Vì thành tựu Như Lai Thập lực mà đại thệ trang nghiêm đầy đủ các Ba la mật vậy.

Vì thành tựu Tứ vô sở úy mà đại thệ trang nghiêm như sở thuyết hành vậy.

Vì được trọn đủ mười tám pháp bất cộng mà đại thệ trang nghiêm như pháp Bồ Tát địa được nghe chẳng hí luận vậy.

Đây là hai mươi pháp Bồ Tát đại thệ trang nghiêm. Do sức trang nghiêm ấy nên có thể thừa đại thừa. Bồ Tát dùng sức tự trang nghiêm ấy dứt nhân duyên ác đạo, đây gọi là trang nghiêm. Đầy đủ thiện pháp được Chư Phật hộ trì, đây gọi là trang nghiêm.

Tùy chỗ nào muốn đến liền được Vãng Sanh, đây gọi là trang nghiêm. Xả bỏ tất cả bào thai hay hóa sanh trước Chư Phật, đây gọi là trang nghiêm.

Hay được thân khẩu ý ba nghiệp vô tranh, đây gọi là trang nghiêm. Trụ hạnh bất phóng dật được Chư Thiên và thế nhân cung kính, đây gọi là trang nghiêm. Khéo thông đạt ba môn giải thoát mà chẳng dứt thiệt tế, đây gọi là trang nghiêm.

Tất cả vô ngã pháp đều được hiện tiền mà vẫn chẳng bỏ đại thệ trang nghiêm, đây gọi là trang nghiêm. Đây là Bồ Tát đầy đủ đại thệ trang nghiêm.

Thế nào gọi là trang nghiêm Bồ Tát thừa?

Này Hư Không Tạng! Thừa là nói vô lượng vậy, là vô biên vậy, là khắp cùng tất cả như hư không rộng lớn dung thọ tất cả chúng sanh vậy. Chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật nên gọi là đại thừa.

Còn nữa, thừa ấy dùng chánh an trụ tứ nhiếp pháp làm vành, dùng chân tịnh thập thiện nghiệp làm căm, dùng tịnh công đức tư lương làm cốt, dùng kiên cố thuần chí cứu cánh làm chốt ốc, dùng thiện thành tựu các thiền giải thoát tam muội làm trục càng thùng xe, dùng tứ vô lượng tâm làm khéo đẩy xe.

Dùng thiện tri thức làm người ngự xe, dùng biết thời biết phi thời làm phát động, dùng tiếng vô thường khổ không vô ngã là sách tiến, dùng dây báu thất giác làm cương, dùng tịnh ngũ căn làm dây chằng cột, dùng đại bi ngay thẳng làm tràng.

Dùng tứ chánh cần làm trục, dùng tứ niệm xứ làm an lành, dùng tứ thần túc làm tiến mau, dùng thắng ngũ lực làm giám trận, dùng bát chánh đạo làm tiến thẳng, với tất cả chúng sanh vô ngại huệ minh làm hiên mui, dùng vô trụ lục Ba la mật hồi hướng nhất thiết trí, dùng vô ngại tứ đế vượt đến bờ kia, đây là đại thừa vậy.

Thừa này là sở thọ của Chư Phật, là sở quán của Thanh Văn và Bích Chi Phật, là sở thừa của tất cả Bồ Tát, là chỗ đáng được kính lễ của Thiên đế Thích, Phạm Thiên và Hộ Thế Tứ Thiên Vương, là chỗ đáng cúng dường của tất cả chúng sanh.

Là chỗ đáng ngợi khen của tất cả người trí, là chỗ đáng hướng về của tất cả thế gian, tất cả kẻ oán ghét chẳng thể khinh chê được, tất cả các ma chẳng thể phá hoại được, tất cả ngoại đạo chẳng thể trắc lượng được.

Tất cả thế trí chẳng thể tranh được, thừa này thù thắng không có gì hơn được, được các hiền thánh thủ hộ, thừa này tùy nguyện có thể đến tất cả Phật Giới, vì vậy mà thừa này chiếu sáng khắp nơi vì có thể phóng màn lưới quang minh, thừa này có tiếng lớn vì hay xuất sanh các pháp môn.

Thừa này chí ý mạnh cứng vì chẳng thối hườn, thừa này bền vững vì chẳng biếng trễ, thừa này đứng thẳng vì chẳng khuynh động, thừa này các sự việc đều đủ vì hay thỏa mãn tất cả nguyện lành, đây gọi là đại thừa các đại thệ trang nghiêm vậy.

Bồ Tát thừa đại thừa này rồi thì có thể từ một bậc địa đến một bậc địa, đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể xả bỏ lỗi hoạn của các địa, đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể xả bỏ các ma nghiệp, đây là sự trang nghiêm của thừa này.

Có thể hóa độ các chúng sanh, đây là sự trang nghiêmcủa thừa này. Có thể tịnh Phật Thế Giới, đây là sự trang nghiêm của thừa này.

Có thể hiện Bồ Tát thần biến, đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể độ sanh tử khát lớn, đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể nhập vào cảnh giới Như Lai, đây là sự trang nghiêm của thừa này.

Này Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm đạo?

Bồ Tát đại thệ trang nghiêm và thừa đại thừa rồi xả bỏ tất cả tà đạo. Xả bỏ tà đạo rồi hướng đến chánh đạo chân thiệt đến nhất thiết trí.

Sao gọi là chánh đạo?

Đó là chẳng bỏ thiện pháp vậy, là hành đại nguyện chẳng thối chuyển bồ đề đạo vậy, là siêng tu tinh tiến căn lành chẳng mất vậy, là hành bất phóng dật bất động thuần chí, chẳng chìm nơi sở tác quyết có thể cứu cánh ngưỡng nắm lấy pháp trên, cầu công đức tư lương chẳng hề cho là đầy đủ, cầu trí huệ tư lương trọn chẳng phế bỏ, đây là Bồ Tát chánh đạo vậy.

Còn nữa, này Hư Không Tạng! Bồ Tát Đạo ấy là Tứ Thiền, tứ vô lượng tâm, tứ không định, ngũ thần thông, tam phước nghiệp, tam học, lục ưng kính, lục niệm, tứ nhiếp pháp, tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần, bát thánh đạo phần, tam giải thoát môn, biết ấm phương tiện, biết giới phương tiện, biết nhập phương tiện, biết tứ đế phương tiện, biết nhân duyên phương tiện, đây gọi là đạo.

Bồ Tát thành tựu đạo phương tiện này đều có thể tùy thuận nhập vào Lục Ba la mật đạo. Tại sao, vì Bồ Tát Lục Ba la mật đạo chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Đạo này là chỗ được khen ngợi của tất cả Chư Phật, từ miệng Như Lai phát ra thành tựu phương tiện.

Bồ Tát biết được thiệt tánh tất cả pháp thì có thể trụ xuất thế gian Lục Ba la mật Thánh đạo.

Thế nào là trụ?

Nếu có Bồ Tát thành tựu tự nhiên huệ phương tiện mà cầu bồ đề, ở trong thân ngũ thọ ấm này vì như thiệt giác tri mà cầu bồ đề, Bồ Tát này biết sắc vô thường mà hành bố thí, biết sắc khổ, biết sắc vô ngã, biết độn, biết sắc vô trí, biết sắc như huyễn ảo, biết sắc như thủy nguyệt, biết sắc như mộng, biết sắc như bóng, biết sắc như vang.

Biết sắc như vòng lửa quay, biết sắc không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng, biết sắc không có chủ không có dưỡng dục, biết sắc là rỗng không, là vô tướng, là vô nguyện, biết sắc là vô tác, là vô sanh, là vô khởi, là vô xuất, biết sắc là vô hình, là tịch tĩnh, là ly, là vô chung, là không có thành tựu đồng với hư không, biết sắc như tánh Niết Bàn, Bồ Tát biết sắc uẩn như vậy mà hành bố thí.

Lúc hành bố thí như vậy, vì thí ly nên Bồ Tát biết sắc cũng ly, vì sắc ly nên bố thí cũng ly. Vì sắc và thí đều ly nên biết nguyện cũng ly, vì nguyện ly nên biết sắc và thí cũng ly.

Vì sắc thí và nguyện ly nên biết bồ đề cũng ly, vì bồ đề ly nên biết sắc thí và nguyện cũng ly, do đó mà biết tất cả pháp đồng tánh bồ đề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian đàn Ba la mật vậy. Như với sắc uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Bồ Tát biết thức vô thường nên hành bố thí, biết thức khổ, vô ngã, là độn, là vô trí, như huyễn ảo, như dã mã, như thủy nguyệt, như mộng, như bóng, như vang, như vòng lửa quay, không có tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, không có chủ, không có dưỡng dục, biết thức rỗng không.

Không có tướng, không có nguyện, là vô tác, vô sanh, vô khởi, vô xuất, biết thức không có hình, là tịch tĩnh, là ly, biết thức không có chung, không có thành tựu cùng hư không bình đẳng, biết thức đồng tánh Niết Bàn, Bồ Tát biết thức uẩn như vậy mà hành bố thí.

Bồ Tát lúc hành bố thí như vậy, vì thí ly nên biết thức cũng ly, vì thức ly nên biết thí cũng ly, vì thức và thí ly nên biết nguyện cũng ly, vì nguyện ly nên biết thức và thí cũng ly, vì thức thí nguyện ly nên biết bồ đề cũng ly, vì bồ đề ly nên biết thức thí và nguyện cũng ly, mà biết tất cả pháp đồng tánh bồ đề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian đàn Ba la mật vậy.

Còn nữa, này Hư Không Tạng! Bồ Tát biết sắc vô thường mà hộ nơi cấm giới, nhẫn đến biết sắc như tánh Niết Bàn mà hộ nơi cấm giới. Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Bồ Tát biết thức vô thường mà hộ cấm giới, nhẫn đến biết thức uẩn như Niết Bàn tánh mà hộ nơi cấm giới.

Vì giới ly nên Bồ Tát biết thức cũng ly, vì thức ly nên biết giới cũng ly, nhẫn đến biết tất cả pháp đồng bồ đề tánh. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Thi Ba la mật vậy.

Như đàn và Thi Ba la mật, Sằn Đề, Tỳ Lê Gia, Thiền Ba la mật cũng vậy.

Bồ Tát biết sắc vô thường mà hành bát nhã, nhẫn đến biết sắc uẩn như Niết Bàn tánh mà hành bát nhã. Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Bồ Tát biết thức vô thường mà hành bát nhã, nhẫn đến biết thức uẩn như Niết Bàn tánh mà hành bát nhã.

Vì bát nhã bình đẳng nên Bồ Tát biết thức bình đẳng, vì thức bình đẳng nên biết bát nhã bình đẳng, vì bát nhã và thức bình đẳng nên biết nguyện bình đẳng, vì nguyện bình đẳng nên biết bát nhã và thức bình đẳng, vì biết bát nhã thức và nguyện bình đẳng nên biết bồ đề bình đẳng.

Vì biết bồ đề bình đẳng nên biết bát nhã thức và nguyện cũng bình đẳng. Do đây mà biết tất cả pháp đồng tánh bồ đề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian bát nhã Ba la mật vậy.

Bồ Tát xuất thế gian Ba la mật đạo này đều có thể nhiếp thủ tất cả các đạo, nên phải biết rằng tất cả các đạo đều nhiếp vào trong ấy cả.

Tại sao gọi đó là xuất thế gian ư?

Này Hư Không Tạng! Ngũ thọ ấm gọi là thế gian. Bồ Tát khéo phân biệt ngũ ấm, quán nó vô thường nhẫn đến như tánh Niết Bàn rồi, biết trong đạo ấy không có thế gian và pháp thế gian, biết đạo ấy là vô lậu là xuất thế gian không có buộc dính, đây gọi là xuất thế gian. Đây gọi là Bồ Tát đạo vậy.

Còn nữa, này Hư Không Tạng! Đạo ấy, đó là như thiệt cầu tất cả các pháp phân biệt lựa chọn chẳng thấy tất cả các pháp nối nhau chứa nhóm, không có hai không có khác, nên gọi là đạo.

Mà đạo ấy thì không có ghét thương, vì không có ghét thương nên gọi là bình đẳng, vì tư duy quan sát các thừa khác nên gọi là rộng lớn, vì bỏ lìa siểm khúc nên gọi là ngay thẳng, vì bỏ lìa tâm vạy vò nên gọi là không có gian, vì dứt trừ các cái chướng nên gọi là không có buộc trói trệ ngại, vì bỏ lìa quan niệm dục tham sân hại nên gọi là không có bụi dơ, vì chẳng thọ nhận sắc, thanh, hương, vị, xúc nên gọi là an vui, vì bỏ lìa phiền não chúng giặc nên gọi là vô úy.

Vì có thể đến Niết Bàn nên gọi là xuất yếu, vì thành tựu định tịch tĩnh nên gọi là thanh tịnh thủy huệ, vì khéo hiểu biết nên gọi là thường sáng, vì khéo tu tâm từ nên gọi là vui mát, vì chẳng bỏ đại bi nên gọi là tiến không nhàm, vì thường hành hỉ nên gọi là vui vẻ, vì thành tựu tâm xả nên gọi là không có lầm lỗi, vì thuận pháp tứ nhiếp nên gọi là giàu lớn.

Vì thành tựu sức thí món ăn Ba la mật nên được nhất thiết trí biện tài, vì được Chư Phật khéo hộ trì nên gọi là qua khỏi pháp hành tứ ma, vì chẳng bỏ bổn nguyện nên gọi là tiến không trệ ngại, vì vượt qua dòng các phiền não nên gọi là vô thượng, vì tất cả thế gian không có gì có khả năng hàng phục được nên gọi là không có đáp đối.

Đạo ấy thành tựu các công đức như vậy và vô lượng công đức khác. Tất cả Bồ Tát Đại Sĩ do thừa đạo ấy nên có thể qua lại giáo hóa vô lượng chúng sanh, đây là trang nghiêm. Không có phiền não mà hiện vào phiền não, đây là trang nghiêm.

Quán vô sanh mà chẳng chứng thiệt tế, đến môn không vô tướng vô tác mà hay giáo hóa những chúng sanh hành các kiến, các tướng, các nguyện, đây là trang nghiêm. Hiện nhập Thanh Văn, Duyên Giác Niết Bàn mà chẳng bỏ sanh tử, đây là trang nghiêm.

Hiện thọ sanh các loài mà chẳng động pháp tánh, hiện nói tất cả ngôn giáo mà chẳng động vô ngôn, đây là trang nghiêm. Hay hiện tất cả Phật Sự mà chẳng bỏ Bồ Tát hạnh, đây là trang nghiêm.

Đây là Bồ Tát đại thệ trang nghiêm, đại thừa trang nghiêm và đạo trang nghiêm vậy.

Bồ Tát dùng đại thệ trang nghiêm để tự trang nghiêm nên có thể thừa đại thừa thuận xuất thế gian Thánh Đạo, dầu chưa được nhất thiết trí mà vì chúng sanh có thể hiện làm Phật Sự.

Lúc ấy trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Bảo Đức hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát: Bạch Đại Sĩ! Ngài đã tu xuất thế gian thành đạo này rồi chăng?

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: Đã tu, thưa Đại Sĩ!

Bảo Đức Bồ Tát hỏi: Ngài tu thế nào?

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: Như được thanh tịnh đạo, tôi tu như vậy.

Bảo Đức Bồ Tát hỏi: Thế nào là thanh tịnh đạo?

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: Thưa Đại Sĩ! Vì ngã tịnh nên đạo tịnh.

Bảo Đức Bồ Tát hỏi: Thế nào là ngã tịnh?

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: Như tam thế tịnh.

Bảo Đức Bồ Tát hỏi: Thế nào là tam thế tịnh?

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: Sắc thuở quá khứ tịnh vì sắc bổn tế không có đến vậy. Sắc thuở vị lai cũng tịnh vì sắc vị lai không có đi vậy. Sắc thuở hiện tại cũng tịnh vì sắc hiện tại không trụ vậy. Đây là tam thế tịnh.

Thọ tưởng hành nhẫn đến thức cũng như vậy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần