Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Sáu - Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI SÁU
PHÁP HỘI VÔ NGÔN BỒ TÁT
PHẦN MỘT
Như vậy tôi nghe Đức Thế Tôn lúc ấy vẫn ở trong Đại Bảo Phường Đình giữa hai Cõi Dục Giới và Sắc Giới, cùng hàng đại chúng vây quanh thuyết pháp. Bấy giờ trong thành Vương Xá nhà của Sư Tử Tướng Quân sanh một con trai.
Lúc trai ấy vừa sanh ra, trên hư không có đông Chư Thiên nói rằng: Này Đồng Tử! Phải nên niệm pháp, tư duy nơi pháp. Lúc phát ngôn chớ nói thế sự. Thường nên tuyên nói pháp xuất thế. Thường phải giữ miệng, cẩn thận lời nói, nói ít. Chớ sanh giác quán nơi thế sự. Phải y nơi nghĩa, chớ y văn tự.
Lúc Đồng Tử nghe lời Chư Thiên nói liền chẳng còn kêu khóc không có tướng trẻ nít, cho đến bảy ngày sắc mạo vui vẻ thấy người mừng rỡ mắt chưa từng nháy.
Có người bảo cha mẹ Đồng Tử rằng trẻ này bất tường chẳng nên nuôi dưỡng, tại sao, vì nó câm không hề lên tiếng vậy.
Cha mẹ Đồng Tử nói: Con trai chúng tôi dầu câm chẳng phát ra tiếng, nhưng thân nó có đủ các tướng, hình thể không thiếu chỗ nào. Do đây nên biết trẻ này ắt có phước đức chẳng phải là người bất tường bạc phước. Nhân vì trẻ ấy không phát ra tiếng nên đặt tên cho nó là Vô Ngôn.
Đồng Tử Vô Ngôn lần lần trưởng đại như trẻ lên tám, đi đến đâu đều được mọi người thích nhìn. Hễ chỗ nào có thuyết pháp chuyển pháp luân thì Đồng Tử Vô Ngôn đều thích đến nghe, mà miệng không hề nói. Do thần lực của Phật, Vô Ngôn Đồng Tử cùng cha mẹ và quyến thuộc tôn thân đến Đại Bảo Phường Đình.
Đến nơi rồi thấy Phật, Đồng Tử lòng rất vui mừng lễ kính cúng dường hữu nhiễu ba vòng chắp tay đứng yên. Đồng Tử gồm thấy Chư Bồ Tát từ mười phương đến lòng thêm mừng rỡ.
Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Đồng Tử con trai của nhà Sư Tử Tướng Quân thân căn đầy đủ mà chẳng nói được.
Là do ác nghiệp nhân duyên gì mà gây nên như vậy?
Đức Phật nói: Này Xá Lợi Phất! Nay ông chớ nên nói như vậy, chớ nên khinh Đồng Tử này. Tại sao, vì Đồng Tử này là một vị Đại Bồ Tát đã ở chỗ vô lượng vô biên Chư Phật vun trồng thiện căn bất thối chuyển nơi đạo vô thượng bồ đề.
Lúc Đồng Tử này sanh ra, có nhiều Chư Thiên đến bảo rằng: Lành thay Đồng Tử! Nên niệm chánh pháp nên tư duy chẳng pháp, chớ có tuyên nói sự việc thế gian, nên thường tuyên nghĩa xuất thế, thường phải giữ miệng, cẩn thận lời nói, ít nói, chớ có giác quán nơi thế sự. Nên y nơi nghĩa chớ y văn tự.
Này Xá Lợi Phất! Đồng Tử này tuân lời Chư Thiên nên không nói mà yên lặng tư duy được Tứ Thiền.
Này Xá Lợi Phất! Vô Ngôn Bồ Tát thị hiện thân như vậy thì có thể điều phục vô lượng chúng sanh nên yên lặng không nói.
Này Xá Lợi Phất! Nay Phật nói Kinh Đại Tập thậm thâm này, Vô Ngôn Bồ Tát có thể ở trong Kinh Điển này lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh.
Lúc ấy Vô Ngôn Bồ Tát dùng sức nguyện của mình thần thôngđạo lực của mình làm cho hàng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều riêng thấy trong bàn tay hữu của mình có hoa sen lớn như vòng xe đầy đủ sắc hương tươi đẹp đệ nhất được người thích thấy, trên mỗi hoa đài đều có một Bồ Tát ngồi kiết già đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân hình.
Hiện đại thần thông như vậy rồi, Vô Ngôn Bồ Tát chắp tay cúi đầu xướng rằng: Nam Mô Phật Đà, Nam Mô Phật Đà. Các Bồ Tát ngồi trên đài hoa sen cũng đồng xướng Nam Mô Phật Đà, Nam Mô Phật Đà.
Tiếng xướng ấy vừa dứt thì cả Đại Địa trong mười hằng hà sắc thế gian chấn động sáu cách. Chư Thiên trong hư không dùng các thứ hoa hương kỹ nhạc cúng dường Đức Phật.
Vô Ngôn Bồ Tát do Phật thần lực và nguyện lực của mình cùng Chư Bồ Tát đồng vọt lên hư không cao bằng bảy cây đa lại hướng ngay về phía Đức Phật mà nói kệ rằng:
Như Lai không sắc thị hiện sắc
Cũng lại nơi sắc không nhiễm trước
Nếu có chúng sanh nhập Phật Pháp
Thế nào sẽ biết sắc chân thiệt
Trong khối phi sắc có Như Lai
Cũng chẳng rời sắc có Như Lai
Như Lai đã rời các sắc tướng
Vì thương chúng sanh mà hiện sắc
Như Lai vì thương các chúng sanh
Dùng các tướng hảo trang nghiêm sắc
Thiệt không sắc tướng vì chúng nói
Vì vậy Như Lai khó nghĩ bàn
Chánh Pháp Như Lai không văn tự
Rời văn tự rồi không có tiếng
Không có văn tự không nói được
thậm thâm tịch tĩnh không giác quán
Như Phật ngày trước ở đạo thọ
Giác ngộ các pháp cũng như vậy
Pháp ấy không chữ không âm thanh
Cũng không tạo tác không nói được
Các pháp như vậy không tướng mạo
Cũng vì xa lìa tất cả tướng
Tất cả các pháp nếu vô tướng
Như Lai thế nào mà diễn nói
Như Lai đầy đủ đại từ bi
Thế nên thương xót làm lợi ích
Pháp chẳng nói được mà diễn nói
Cũng biết chân thiệt chẳng nói được
Như Lai biết rõ chẳng nói được
Cũng biết âm thanh tánh không tịch
Chân thiệt biết rõ tất cả nghĩa
Vì vậy gọi Phật Đấng Chánh Giác
Những pháp được nói gọi Thế đế
Như Lai chân thiệt biết rõ đó
Thế đế chẳng ngoài tánh có không
Chẳng tạo tác được không thời kỳ
Chân thiệt không có sắc tướng mạo
Vì chúng nên hiện các thứ sắc
Biết pháp không pháp Đấng Vô Thượng
Vì chúng sanh nên diễn nói pháp
Lúc tôi sơ sanh được Trời bảo
Vì vậy nín lặng không nói tăng
Chí tâm niệm pháp tư duy pháp
Vì vậy chẳng thấy sắc và tiếng
Nếu được nhập vào thâm pháp giới
Bấy giờ không có các sắc thanh
Nếu xa lìa được các tâm nghiệp
Thì được xa lìa các khẩu nghiệp
Không có ngôn thuyết tức là lời
Dầu có ngôn thuyết cũng không lời
Lời chẳng phải làm chẳng phải nói
Vì bổn tánh ngôn ngữ tịch tĩnh
Nay tôi chí tâm niệm bồ đề
Cũng lại chí tâm tu bồ đề
Nay tôi nói lời vô thượng này
Quyết định sẽ được chân thiệt đạo
Tâm tôi chẳng được đạo bồ đề
Khẩu và khẩu hành cũng chẳng được
Vô thượng bồ đề tức rỗng không
Tánh ấy bổn lai thường tịch tĩnh
Như tánh bồ đề thanh cũng vậy
Chẳng thấy chẳng lấy pháp tánh vậy
Như vậy thanh âm chẳng thấy được
Bồ đề được cầu cũng như vậy
Vì bồ đề nên có tu hành
Hành ấy cũng không có chỗ đến
Như vậy hành ấy không chỗ đến
Nên chỗ bồ đề chẳng phải chỗ
Sáu Ba la mật như bồ đề
Tất cả thiện pháp cũng như vậy
Tất cả ngữ ngôn không ngữ ngôn
Trong không ngữ ngôn hay thuyết ngữ
Nếu có bố thí diệu âm thanh
Chủ bố thí ấy và tài vật
Bình đẳng bố thí tức bồ đề
Tất cả thảy đều bất khả thuyết
Nếu bố thí ấy miệng nói được
Thể bồ đề lẽ ra nói được
Tánh thể bồ đề như hư không
Tất cả âm thanh cũng như vậy
Nếu nơi tâm hay chân thiệt biết
Biết rồi hay tuyên thuyết âm thanh
Tùy biết thanh ấy diệt chỗ nào
Tức là bồ đề chân thiết tướng
Nếu hay xa nghiệp thân khẩu ý
Tất cả phiền não cũng lìa xa
Tức là tất cả Ba la mật
Là thiệt pháp tánh được Phật nói
Bố thí chẳng ở trong bồ đề
Bồ đề chẳng ở trong bố thí
Hai pháp như vậy tức âm thanh
Cũng không chỗ trụ không chỗ đến
Nếu hay biết được như vậy thảy
Tức là chân thiệt đại bồ đề
Nếu lúc bố thí chẳng kiêu mạn
Tức là thí chủ đại vô thượng
Hộ trì cấm giới tức là thanh
Không có hình sắc không chỗ đến
Các pháp chẳng sanh cũng chẳng diệt
Tức là tướng trì giới vô thượng
Cấm giới như vậy không năng tác
Cũng lại không nghiệp thân khẩu ý
Chẳng sanh chẳng diệt chẳng tạo tác
Thế nào gọi được là cấm giới
Vì lưu bố phát ra âm thanh
Chúng sanh đặt tên gọi cấm giới
Biết các cấm giới thanh cũng vậy
Hai pháp như vậy đều vô lậu
Vì được miện nói là cấm giới
Nên nói các loại thứ trang nghiêm
Âm thanh cũng không các trang nghiêm
Chân thiệt biết là vô sở hữu
Thân nghiệp khẩu nghiệp và tâm nghiệp
Hay hồi giới này hướng bồ đề
Cấm giới âm thanh và bồ đề
Hai pháp như vậy như hư không
Nếu hay chân thiệt biết như vậy
Người này thì hành chỗ giới hành
Thì hay đến được giới bỉ ngạn
Chỗ ấy thậm thâm khó thấy được
Nói nhẫn âm thanh tức là không
Tánh không không xứ không tạo tác
Nhẫn nhục với không là hai pháp
Không có sai biệt như hư không
Tiếng nhẫn nhục chẳng phải sắc tướng
Chẳng nhìn thấy được không xứ sở
Nếu hay tướng tu tập tâm bình đẳng
Tức là tướng nhẫn chân thiệt vậy
Nhẫn nhục dầu là niệm niệm diệt
Mà cùng sắc than thường đi chung
Tất cả văn tự đều vô lậu
Chúng sanh đạt tên gọi nhẫn nhục
Nếu hay điều phục than khẩu ý
Đâu là nhẫn nhục tối vô thượng
Nêu hay nhẫn người nhẫn nhục
Đây cũng là nhẫn nhục vô thượng
Nếu có chúng sanh nghiền than mình
Lóng đốt nát nhỏ như hột mè
Xem thân dường như gỗ cỏ khô
Đây thì gọi là thân nhẫn nhục
Lúc nghe ác khẩu tiếng mắng chửi
Tâm niệm chẳng động trụ đúng pháp
Quán sát âm thanh như hư không
Đây là vô thượng khẩu nhẫn nhục
Nếu hay thông đạt nhân phiền não
Xa lìa tất cả các phiền não
Đây thì gọi là tâm nhẫn nhục
Chẳng bị phiền não làm nhiễm ô
Như nhẫn nhục là tánh bồ đề
thân khẩu ý nghiệp cũng như vậy
Nếy hay hồu nhẫn hướng bồ đề
Đây thì gọi là được bồ đề
Nếu có chúng sanh siêng tinh tiến
Hoặc thượng trung hạ hoặc thô tế
Trong vô lượng kiếp tu tập đó
Vô sở đắc cũng vô cứu cánh
Nếu người tinh tiến vô sở đắc
Nên gọi bồ đề vô sở đắc
Nếu hay chẳng được tất cả pháp
Tức là vô thượng cần tinh tiến
Nếu hay tinh tiến được như vậy
Chẳng tăng chẳng giảm như hư không
Như vậy tức là đại Bồ Tát
Siêng hành tinh tiến vô sở úy
Tất cả các thiền không có họp
Không có tạo tác không chỗ đến
Nếu hay tư duy tất cả pháp
Tức là chân Thiền Ba la mật
Xa lìa tất cả các ác sắc
Ác thân ác khẩu cũng xa lìa
Hay tiêu tất cả các phiền não
Tức là chân Thiền Ba la mật
Nếu hay quán tâm chân thiệt tánh
Trong tất cả pháp cũng chẳng thấy
Nếu hay vô tâm xa rời tâm
Tức là chân Thiền Ba la mật
Nếu hay quán tâm và bồ đề
Tức là vô thượng chân thiệt thấy
Nếu hay như vậy chân thiệt thấy
Chứng được bồ đề chẳng khó khăn
Nếu hay thấy biết không văn tự
Tất cả các pháp không sanh diệt
Nếu người xem thấy được như vậy
Đây thì gọi là đại trí huệ
Dầu là miệng nói đại trí huệ
Trí huệ cũng chẳng ở miệng tiếng
Nếu biết miệng tiếng thiệt không tiếng
Tức là chân tánh của trí huệ
Nếu pháp không trụ đây trụ kia
Trung gian cũng lại không chỗ trụ
Tất cả pháp tánh không chỗ trụ
Đây là vô thượng đại trí huệ
Không có văn tự không có hành
Không có tướng mạo không có tánh
Không có hai tướng thủ xả thảy
Đây gọi vô thượng đại trí huệ
Nếu quán tất cả Ba la mật
Tánh nó bình đẳng như hư không
Đây thì gọi là không bình đẳng
Hay quán tất cả pháp bình đẳng
Nếu hay bình đẳng tất cả pháp
Cũng hay quán chúng sanh bình đẳng
Đều hay bình đẳng quán Chư Phật
Trí huệ được đó không bình đẳng
Nếu Chư Bồ Tát người có trí
Hay quán pháp vô đẳng như vậy
Thì được vô thượng bồ đề quả
Cũng như Tiên Phật đã chứng được.
Lúc Vô Ngôn Bồ Tát nói kệ ấy, có một vạn hai ngàn nhẫn nhục do tha chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề, sáu vạn Bồ Tát được vô sanh nhẫn.
Chư Bồ Tát trong hoa đài đều đứng dậy đầu mặt lễ Phật, rồi dùng diệu Liên Hoa cung kính cúng dường lên Vô Ngôn Bồ Tát miệng tuyên lời rằng: Tôi là người biết ơn, nay đây tôi báo ơn.
Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn!
Có nhân duyên gì mà Bồ Tát này nói: Tôi là người biết ơn nay tôi báo ơn?
Đức Phật nói: Này Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát này đều nhân nơi Vô Ngôn Bồ Tát mà phát bồ đề tâm, vì vậy nên đồng lên tiếng nói: Tôi là người biết ơn, nay tôi báo ơn. Nay Chư Bồ Tát ấy lại nhân nơi Vô Ngôn Bồ Tát mà được nghe thọ Kinh Điển Đại Tập thậm thâm này gồm đến đây thân cận nhìn thấy cúng dường nơi ta.
Vô Ngôn Bồ Tát bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi có chỗ nghi nay muốn thưa hỏi. Ngưỡng mong Đức Như Lai thương xót hứa cho.
Đức Phật nói: Này Vô Ngôn! Tùy ý ông hỏi, Phật sẽ vì ông mà nói.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Vô Ngôn Bồ Tát: Thưa Đại Sĩ! Nếu không có ngôn ngữ sao lại hỏi được?
Vô Ngôn Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức! Tất cả các pháp thảy đều vô ngôn tự vô thuyết, tại sao, vì tất cả chúng sanh tánh vô ngôn vậy. Do nơi giác quán mà có âm thanh phát ra, nếu không có giác quán thì làm sao có âm thanh làm sao nói được làm sao có văn tự.
Thưa Đại Đức! Luận về trong giác quán không văn tự không ngôn thuyết, lìa rời giác quán cũng không có âm thanh văn tự, thể của giác quán tức chẳng phải giác quán. Tôi làm văn tự cũng chẳng giác quán.
Tôi nhân nơi giác quán mà có công đức lớn. Nếu hay quán thâm pháp như vậy thì gọi là thập nhị nhân duyên. Nếu pháp từ duyên sanh tức là rỗng không tịch tĩnh thì không có tướng nhất định. Nếu có chân thiệt biết như vậy tức là chân thiệt biết rõ pháp tánh.
Thưa Đại Đức! Các pháp đều từ nhân duyên hòa hiệp. Mà trong hòa hiệp thiệt không có tác giả không có sanh không có xuất. Vì vậy mà các pháp không có chủ không có âm không có thanh không có tâm không có giác quán chẳng phải không giác quán.
Tại sao, vì điên đảo nhân duyên mà có sanh có diệt. Vì vậy nên nếu có hỏi có nghe có giải nói đều chẳng hiệp chẳng tan là nhất tướng là vô tướng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba