Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Sáu Mươi - Pháp Hội Nhật Mật Bồ Tát - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ SÁU MƯƠI
PHÁP HỘI NHẬT MẬT BỒ TÁT
PHẦN HAI
Này Hương Tượng Vương! Nếu người ác cõi ấy nghe hành này thì trong bảy năm tu từ bi tâm lìa bốn lỗi nơi miệng tu tập lục niệm. Người này lại phải tự tắm gội sạch sẽ mặc y phục mới sạch hướng về phương Đông chí tâm lễ lạy tụng đại hành Đà La Ni nhẫn đến bảy năm, tất cả các tội ác đêu tiêu diệt cả. Nếu có nữ nhân hay hành như vậy liền chuyển thân nữ thành thân nam, nhẫn đến được vô thượng bồ đề.
Liền nói Chú rằng:
Xá la na tỳ xà, thức xoa tỳ xà, mật đề tỳ xà, ba la ha na tỳ xà, luật đề tỳ xà, nhân đề lợi xà tỳ xà, bà la tỳ xà, bộ trừng già tỳ xà, tam ma đề tỳ xà, Đà La Ni tỳ xà, xoa đề tỳ xà, trường na tỳ xà, a lưu ba tỳ xà, đà ni xà tỳ xà, mạt lực già tỳ xà, a bí nhã tỳ xà, ba la đề tán tỉ đà tỳ xà, phục di tỳ xà, bí đà tỳ xà, ma ha mế la tỳ xà, ma ha già lưu na tỳ xà, ty lợi si tỉ tỳ xà, tát đoả tỳ xà, đà ma tỳ xà, đa ma tỳ xà, a lộ ca tỳ xà, ba lađề ba sa tỳ xà, ba la đề thủ lục ca tỳ xà, già già na tỳ xà, ma lưu đa tỳ xà, thủ nhã đa tỳ xà, ba la đề đa tỳ xà, a ni mật đa tỳ xà, cụ sa tỳ xà, cần giá na tỳ xà, a tỷ bà sa, a nâu na, a nâu na, a bà ha giá giá, giá giá la tỉ mâu, xoa xà tỉ mâu, a ma tỳ xà tỉ mâu, a tam mâu đà giá la tỉ mâu, xa đà tỉ mâu, a ca xá tỉ mâu, bộ ba xá ma tỉ mâu, a na bà sa tỉ mâu, a ha ha tỉ mâu, a la ba lã tỉ mâu, úc ba xá ma sa lợi la tỉ mâu, sá ha.
Hương Tượng Vương Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi thọ trì đọc tụng thơ tả đại hành Đà La Ni rồi qua Ta Bà Thế Giới.
Cõi ấy còn có vô lượng Đại Bồ Tát khởi định đồng bạch Phật Ngũ Công Đức rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn cùng qua Ta Bà Thế Giới kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai và nghe học Kinh Điển Đại Tập.
Đức Phật nói: Lành thay lành thay, các ông muốn qua cõi đó thì tuỳ ý, nay chánh là phải lúc. Các ông nên hoa làm thân Thiên Đế Thích. Hương Tượng Vương Đại Bồ Tát cùng đại chúng Bồ Tát đều biến thân làm Thiên Đế Thích cùng đến Ta Bà Thế Giới.
Đến nơi rồi, liền mưa các thứ hương xuống Ta Bà Thế Giới, đó là hương Ngưu Đầu Chiên Đàn, hương Kiên Ngạnh, hương Đa Ma La Bạt, hương Trầm Thuỷ, hương Đa Già La để cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật.
Hương Tượng Vương Đại Bồ Tát cúng Chúng Bồ Tát từ hư không xuống đầu mặt lễ Phật hữu nhiễu ba vòng ngồi qua một phía.
Tây Phương Thế Giới quá bốn mười hằng hà sa số Chư Phật Thế Giới, có Thế Giới tên là Kiên Tràng đủ ngủ trược, có Phật Hiệu là Cao Quý Đức Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn hiện đương tuyên nói pháp yếu giáo hoá chúng sanh.
Có một Bồ Tát tên là Quang Mật Công Đức ngước nhìn hư không thấy vô lượng Bồ Tát từ phương Tây đến đi thẳng qua phương Đông liền bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Có nhân duyên gì mà vô lượng Bồ Tát chúng từ phương Tây đến đi thẳng qua phương Đông?
Đức Phật Cao Quý Đức Vương nói: Này Quang Mật Công Đức! Phương Đông quá bốn mười hằng hà sa số Chư Phật Thế Giới có Thế Giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, do nhân duyên ấy nên Thích Ca Mâu Ni Như Lai vì các chúng sanh tuyên nói diệu pháp tên là Đại Tập phân biệt Tam Thừa để chẳng đoạn tuyệt chủng tánh Tam Bảo, để phá ma giới, để dựng Pháp Tràng, ấy tuyên nói Pháp Tràng Đà La Ni, nói rồi Chư Phật đều trở về bổn trụ xứ. Thích Ca Như Lai vì Chư Bồ Tát Chúng Thanh Văn phô diễn tuyên nói tứ vô ngại trí thanh tịnh phạm hạnh.
Nay ông có muốn qua cõi đó để thấy Đức Phật Thích Ca chăng?
Nay ta cũng muốn giữ dục cho Đức Phật ấy. Nói là dục ấy, đó là đoạn nghiệp Đà La Ni tuỳ vô nguyện định thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, hay dứt dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, mạn mạn, ngã mạn nhẫn đến tận trí vô sanh trí được vô thượng bồ đề.
Liền nói Chú rằng:
Xá na xá bà, ma xá na xá bà, a bà xoa xá, xoa táp xá bà, giá táp xá bà, thâu lô đa xá bà, kỳ lãng na xá bà, thị chúc bà, ca xà xá bà, ma na xá bà, xoa bà bí đà, giá táp ti lợi si tỉ xoa bà, thâu lô đa a bà xoa bà, kỳ lãng na để kỳ xoa bà, thị chúc bà do xoa bà, ca xa ca lã ma xoa bà, ma na ô xà xoa bà, a lộ ca nhã xà xoa bà, tần xà tán ca la ma xoa bà, an cừu lã khứơc già xoa bà, ma lưu ba tỳ xà xoa bà, xá ma ca xà xoa bà, xoa xà lã sa xoa bà, phiến đa tỳ sa lã xoa bà, na nô na, nê na nô na, a bà nê na nô na, na xà ba na di na nô na, y bàn đô đầu khê tả, sá ha.
Này Quang Mật Công Đức! Ông thọ trì Đà La Ni này qua Thế Giới Ta Bà, trước lễ Phật thăm hỏi mạnh khoẻ rồi tuyên đọc Chú ấy.
Quang Mật Công Đức Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì Đà La Ni ấy. Tôi dầu muốn qua đó mà lòng e sợ. Tại sao, tôi có từng nghe Đức Thế Tôn nói chúng sanh cõi Ta Bà thành tựu ác kiến nhiều tham sân si tuỳ theo lời nữ nhân hay mau tạo nghiệp Địa Ngục A Tỳ.
Đức Phật nói: Này Quang Mật Công Đức! Ông chẳng phải chính là đại Kim Sí Điểu ở tứ thiên hạ giữa hai giới Dục Sắc nơi cõi kia ngày hai mươi mốt khủng bố đại hải sáu vạn bốn ngàn ức các đại Long Vương khiến được quy y Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng phát tâm vô thượng bồ đề ư?
Bồ Tát nói: Thiệt như lời Phật dạy, bạch Đức Thế Tôn!
Đức Phật nói: Này Quang Mật Công Đức! Quốc Độ bị khô hạn, ông chẳng phải là Tượng Long, Mã Long, Kim Sí Điểu Long trong bảy ngày đêm tuôn mưa lớn và khủng bố các ác Long ư?
Bồ Tát nói: Thiệt như lời Phật vừa nói, bạch Đức Thế Tôn!
Đức Phật Cao Quý Đức Vương nói: Này Quang Mật Công Đức! Ở trong các ác Long như vậy mà ông còn chẳng e sợ, nay duyên cớ gì mà lại e sợ ư?
Bồ Tát nói: Bạch Đức Thế Tôn! Ví như người trí nghe xứ khác có nhiều bảo tàng bèn đến nơi ấy bươi tìm. Bươi lần lần thấy báu lòng rất vui mừng trọn không mỏi nhàm.
Nay tôi cũng vậy, nhân hỏi Phật được nghe thiệt ngữ. Nghe lời Phật rồi tôi được đại thế lực có thể chấp Phật ấn điều phục chúng sanh Cõi Ta Bà ấy.
Đức Phật nói: Lành thay lành thay, ta sẽ ban cho ông Đại Thần Chú hay tịnh các nghiệp, hay tịnh nhân duyên, hay tịnh điều phục, hay tịnh nơi dục, tịnh tăng trưởng, tịnh bình đẳng, tịnh ác phong, tịnh hành, tịnh vô minh, tịnh sanh tử, tịnh tất cả phiền não, tịnh tất cả pháp hữu vi tam giới, tịnh bỉ thử. Đây gọi là Thần Chú.
Này Quang Mật Công Đức! Chúng sanh cõi ấy được nghe Thần Chú này thì kiết sử thượng trung hạ đều mỏng kém, Sắc Giới, Vô Sắc Giới phiền não cúng kém mỏng, đều được siêu việt các nghiệp trong hằng hà sa số kiếp, tất cả ngũ đạo thân khẩu ý ác đều khiến thanh tịnh.
Nếu có người nghe học Chú này thọ trì đọc tụng nhẫn đến bảy ngày chí tâm chẳng quên, nên biết rằng người này tất cả tội ác đều tiêu diệt, trừ ngũ nghịch huỷ báng Kinh Điển Phương Đẳng Đại Thừa, chê bai Thánh Nhân, phạm bốn trọng tội. Người này cầu mong điều gì nhẫn đến bồ đề đều tuỳ ý liền được. Nếu người này muốn tu hành Đàn Ba La Mật nhẫn đến Bát Nhã Ba La Mật liền được thành tựu.
Này Quang Mật Công Đức! Chúng sanh nơi Thế Giới Ta Bà kia không có nhân duyên gì mà phải bị pháp quở trách, tại sao?
Vì mười phương Thế Giới các chúng sanh bị phạt đuổi đều đến sanh trong Thế Giới Ta Bà. Vì vậy mà họ hay tạo nghiệp ngũ nghịch huỷ báng Đại Thừa chê bai Thánh Nhân phạm bốn tội trọng. Do nhân duyên nghiệp ác như vậy nên họ sanh trong ba ác đạo thọ vô lượng khổ.
Đã thọ khổ rồi họ lại chẳng thể được pháp Thập Thiện, vì vậy mà họ lại sanh ở Ta Bà Thế Giới. Người ấy nếu trước có tu tập thiện căn như tín căn đến huệ căn thì trọn chẳng sanh vào Quốc Độ tệ ác.
Vì họ tạo nghiệp nhân ác nên sanh nơi ác Quốc Độ các căn thiếu khuyết tàn tật, thân người chẳng đủ, không có niệm tâm, những món cần dùng và các thứ uống ăn, y phục ngoạ cụ thuốc men phòng nhà đều khó được, thọ mạng ngắn ngủi ngủ thức chẳng yên, trí huệ thiện căn phược đức đều không đủ, sự lành tốt ít có.
Họ không có tâm từ bi ưa làm việc ác độc, ưa tu ác kiến, thích đọc sách tà luận, ưa tin bạn xấu ác, ưa phát nguyện xấu ác, thân nhiều bệnh dữ, nhiều sự việc ác, thường vui thích thêm lớn nhiều pháp tam ác đạo, kính thờ tà thần, bẩm tánh tệ ác, ưa cợt đùa ganh ghét, thành tựu đầy đủ các nghiệp bất thiện, ưa huỷ báng Tam Bảo, thích đi trong ba ác đạo.
Các chúng sanh như vậy nếu được nghe Thần Chú này rồi thì ở trong sanh tử họ sẽ sanh lòng hối rời lìa ác đạo tu tập tín căn đến huệ căn, họ cũng sẽ thích tu hành Sáu Ba La Mật thanh tịnh phạm hạnh, thêm thọ thêm phước, trừ bệnh ác khổ, trí huệ xí thạnh, thân hậu không giảm, tất cả thiện pháp không có hao tổn, thành tựu đầy đủ pháp Thập Thiện, thêm thạnh Tam Bảo, thích tu pháp hành. Thần Chú này có thể làm cho các chúng sanh đầy đủ vô lượng thiện pháp như vậy.
Này Quang Mật Công Đức! Các chúng sanh cõi Ta Bà của Phật Thích Ca Mâu Ni, nếu là người thọ trì cấm giới kính tin Tam Bảo thưa hỏi Diệu Pháp đọc tụng thơ tả được tâm hoan hỷ, do nhân duyên ấy liền được qua khỏi nghiệp ba ác đạo, nếu có tội trọng ácvị lai thì hiện tại thọ, hoặc hơi nhức đầu, hoặc mất tài vật, hoặc quyến thuộc hư lìa, danh xấu đồn xa, hoặc bị đánh mắng thì được trừ khỏi.
Thần Chú nay hay phá tất cả ác nghiệp đã có, hay làm lợi ích lớn cho chúng sanh, hay làm đại quang minh, được đại niệm tâm, làm đại tịch tĩnh.
Người này thường được Thập Phương Chư Phật, Chư Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác hộ niệm, được Thiên, Long, Quỷ, Thần thường ủng hộ.
Lúc lâm chung, người này thấy Thập Phương Chư Phật, nghe Phật Thuyết Pháp, Chư Phật khen rằng: Lành thay lành thay, nhà người đến sanh trong Quốc Độ tịnh diệu của ta, ta có thể khiến ngươi mau trụ bậc Thập Địa. Người này nghe lời Phật nói liền sanh lòng hoan hỷ.
Vì tâm hoan hỷ nên được thâm tín, do đây được sanh nơi Quốc Độ Tịnh Diệu. Sanh rồi liền lên bậc Thập Trụ được vô thượng bồ đề.
Này Quang Mật Công Đức! Ông nên thọ trì Thần Chú này đọc tụng thông thuộc qua Ta Bà Thế Giới, trước thăm hỏi lễ kính Thích Ca Mâu Ni Như Lai rồi sau tuyên đọc đó.
Đức Phật Cao Quý Đức Vương liền nói Chú rằng:
Khước già ba lợi xa đà, kiệt bà xoa tư, kiệt bà linh, bí đà ba lã bà già sai, xoa bà du kỳ, ba lã đề ha linh, xa ma na tư ca đề, tam ma mế già thọ tỉ, ha xoa xà na để, xoa bà bà kỳ, ni đà na xà tỉ, tam ma na xà tỉ, a đà xá xà xà tỉ, tỉ ba lã bà xà tỉ, tư xoa xà tỉ, tư nhã xà bà xà tỉ, xa lợi la cừu ha xà tỉ, sa la cừu ha xà tỉ, xí bà na câu thi, sa đà na câu bạc, tư bà đà na đề, tỉ bà ba lã la để, ưu ba ca la ma na đề, a na bà đá la xí, ba la đề ca lã mế na, ba ca tha thi, bà lô giá na bà mế ca lã tha đà linh, ca ma sa thi, a xá khước kỳ, na xà quân kỳ, bí đà bà ninh, cơ ly na bà ninh, lưu giá bà ninh, bà mế ma ca linh, xá lợi xà bà ninh, ma già xà tỉ, ha lợi câu na bà, na xà na mục xí, sa la xoa câu la, na xà na thọ linh, nhân đà la bà sa ninh, ô a, a bà a, a lã bà a, bà lã a bà lã lã, bà mế già đậu khê ni đề la Niết Bàn hi, sá ha.
Đức Cao Quý Đức Vương Như Lai nói Thần Chú xong, Quang Mật Công Đức Đại Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì Đa La Ni ấy sẽ qua Ta Bà Thế Giới tuyên đọc điều phục chúng sanh.
Còn có vô lượng Bồ Tát đại chúng đồng thanh nói: Lành thay lành thay, hôm nay chúng tôi cũng đều muốn qua Thế Giới đó.
Đức Phật nói: Đã phải lúc, các ông có qua đó thì nên biến làm thân Na La Diên. Quang Mật Công Đức Đại Bồ Tát và Đại Chúng Bồ Tát tất cả biến thân làm Na La Diên đồng đến Ta Bà Thế Giới. Đến rồi mưa cát vàng ròng mịn nhuyễn để cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni rồi từ hư không xuống đầu mặt kính lễ hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Phương Bắc quá tám vạn hằng ha sa số Thế Giới Chư Phật, có Thế Giới tên là Phổ Hương Thân đủ ngũ trược, Phật Hiệu là Đức Hoa Mật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn hiện tại vì chúng sanh thuyết pháp giáo hoá.
Có Bồ Tát tên là Hư Không Mật ngước nhìn hư không thấy vô lượng Bồ Tát từ Bắc phương đến đi thẳng qua phương Nam liền bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Có nhân duyên gì mà vô lượng Bồ Tát từ phương Bắc đến đi thẳng qua Nam phương?
Đức Phật nói: Này Hư Không Mật! Phương Nam quá tám vạn hằng hà sa số Thế Giới, có Thế Giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, có Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai hiện tại vì chúng sanh tuyên nói Diệu Pháp phân biệt Tam Thừa dựng pháp tràng rộng nói pháp tụ.
Thập Phương Chư Phật đều tập hội cõi ấy vì Chư Bồ Tát giải nói Bảo Tràng Đà La Ni rồi đều trở về bổn trụ xứ. Thích Ca Như Lai vẫn vì Đại Chúng Bồ Tát Thanh Văn tuyên nói pháp yếu có nhiều lời bí mật Cam Lồ. Nếu muốn nghe thì nên qua cõi đó.
Thích Ca Như Lai thường phát đại nguyện, nếu có Thập Phương Chư Bồ Tát đến nghe ta nói pháp liền được mười tám pháp bất cộng. Lại nguyện rằng lúc ta thành Phật rồi nguyện đất đai cõi ta có đủ thượng vị.
Chư Bồ Tát cõi ấy có đại niệm tâm tinh tiến trì giới trí huệ đầy đủ như ở Thế Giới thanh tịnh Chư Phật, tu tập đầy đủ thiền định, lúc nhập thiền định thân họ phóng quang minh hoặc sáng như một ngọn đèn nhẫn đến sáng như trăm ngàn vô lượng nhật nguyệt.
Họ đều tập hội nghe Phật thuyết pháp. Hoặc có Thập Phương Chư Bồ Tát Chúng khởi định đều đến cõi ấy kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai lắng nghe Đà La Ni du hí thần thông.
Này Hư Không Mật! Chúng sanh Thế Giới Ta Bà thọ mạng ngăn ngủi nhiều ác bệnh, trí huệ thiện căn phước đức thiện hành thảy đều kém mỏng, họ chẳng biết sợ ba ác đạo khổ, họ tham trước của cải tâm chẳng thanh tịnh, lòng nhiều tật đố không có tàm quý, ưa làm mười điều ác, các chúng sanh ấy.
Hoặc có tạp hành sau khi xả thân liền ở cõi ấy làm đại ác quỉ nhẫn đến làm ác ca na, phú đơn na, họ làm ác quỷ rồi thâu lấy vị đất nhẫn đến tất cả các vị dưa trái, lúa gạo, cỏ cây, ai ăn thứ ấy thì sanh ác bệnh thân mất thể lực.
Các ác quỷ ấy thường rình chúng sanh lúc sơ sanh lúc trưởng đại có thể cướp mất tánh mạng, đây cũng là một cớ mà chúng sanh cõi ấy đoản thọ.
Này Hư Không Mật! Trước kia lúc ta tu tập bồ đề đạo cũng thường phát nguyện tôi đời vị lai thường siêng tinh tiến chẳng thôi chẳng nghỉ cung kính cúng dường vô lượng Chư Phật nghe học Chánh Pháp thưa hỏi thâm nghĩa.
Tôi sẽ thế nào thủ hộ người ở thai khiến mẹ con kia sản sanh yên ổn. Hoặc Trời, Rồng Quỷ Thần, hoặc Quỷ La Sát, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, hoặc Câu Biện Trà, Lệ Lê Đa, Tỳ Xá Giá, Phú Đơn Na, Ca Đa Phú Đơn Na, Thọ Đa La, A Vệ Mạt La, hoặc nhất hành đến tứ hành, hoặc quỷ khởi thi.
Hoặc độc cổ, hoặc ác độc dược xúc thân tâm, các độc sự như vậy không làm tổn hại được mẹ con ấy, nhẫn đến lúc bú mớm ăn uống nuôi lớn khôn cũng chẳng làm hại được, cũng chẳng khiến tâm loạn trược được, cho đến trong giấc mộng cũng không làm tổn não được, thường hành Thập Thiện, thích bố thí, thích trì giới, với ba ác đạo lòng sanh bố uý, có chú dược nào hay xong những sự việc như vậy. Lúc bấy giờ vô lượng Phật liền ban cho ta tịnh Đà La Ni.
Do sức lực của Đà La Ni ấy khiến ta thuở trước trong vô lượng đời điều phục vô lượng vô số chúng sanh khuyên họ thật hành sáu Ba La Mật.
Trong vô lượng vô số đời trước ta thường nghĩ nhớ xứ nào có nữ nhân chửa nghén để phòng ngăn ác quỷ nhẫn đến độc dược.
Ta đến chỗ họ dạy Tam Quy Y. Dạy họ Tam Quy rồi tất cả ác quỷ độc dược chẳng làm hại được. Đứa con sanh ra thường được thiện tâm trí huệ đầy đủ thân thể không thiếu khuyết, lúc nó du hành thường được vô lượng thiện thần ủng hộ, diện mạo đoan chánh mọi người thích thấy, ưa tu từ bi, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, ở nơi tịch tĩnh thích tu thiền định, gần thiện tri thức có đủ trí huệ, phá các khổ não nhàm lìa sanh tử ưa mến Niết Bàn, tất cả Thiên Thần quỷ thích cúng dường.
Nếu nó phát tâm vô thượng bồ đề thì được bồ đề vô thượng, nếu phát tâm Bích Chi Phật thì được Bích Chi Phật Đạo, nếu phát tâm Thanh Văn thì được như thiệt nhẫn. Các chúng sanh ấy xa lìa hẳn ba ác đạo thường đi trong thiện đạo. Ta dùng vô lượng phương tiện như vậy điều phục chúng sanh vì vô thượng bồ đề.
Này Hư Không Mật! Nếu có chúng sanh bị bệnh rất nặng, lấy da sư tử tụng Chú này vào rồi trao cho người bệnh. Nếu không có da thì dùng thịt hoặc xương.
Nếu không có thịt xương sư tử thì dùng phẩn hoặc chỗ đất mà sư tử đái. Nếu không có phẩn có đất ấy thì tụng Chú cột gút hoặc làm sách bùa trao cho người bệnh, thì bệnh liền lành. Nếu cây không trổ hoa trái thì tụng chú vào nước mưa rồi xối tưới, cây ấy liền có bông trái.
Hoặc lúc hạn khô, tìm tim rùa tụng Chú năm biến đem đặt trong long tuyền thì Trời sẽ mưa lớn. Hoặc lúc mưa nhiều lũ lụt hại lúa mạ thành ấp tụ lạc, tìm da mãng xà tụng chú bảy biến đem đặt trong long tuyền thì mưa liền dứt.
Nếu Quốc Độ nhiều tướng quái dị, ác phong, ác vũ, ác tinh nhật nguyệt, thì nên bảy ngày tắm gội sạch sẽ ăn cháo sữa, trong bảy ngày đọc tụng Chú này thì các tướng quái di liền tiêu diệt.
Này Hư Không Mật! Nếu có người nghe Đà La Ni này thì bao nhiều phiền não đều nhẹ mỏng nhập chánh định tụ. Ta dùng vô lượng phương tiện như vậy điều phục chúng sanh khiến họ tu tập sáu Ba la mật nhẫn đến được vô thượng bồ đề.
Này Hư Không Mật! Đà La Ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh, hay dứt tất cả các ác trọng bệnh, hay thủ hộ tất cả nữ nhân thai nghén và kẻ ở trong thai, hay dứt tất cả kiết sử biết ấm nhập giới, xô dẹp bốn ma cảnh giới, hay làm cho tất cả Chư Thiên hoan hỷ, khiến các ác quỷ sanh ý tưởng tri túc, hay làm các ác long kinh sợ, hay phá tất cả các luận tà ác khiến hàng tứ tánh hoan hỷ.
Hay khiến nữ nhân trừ dứt tâm tham, khiến người đa văn niệm tâm vững chắc, người tọa thiền tâm được thiện tịch, hay trừ tất cả tướng xấu trong Quốc Độ, hay làm cho chủng tánh Tam Bảo không đoạn tuyệt, hay làm cho pháp giới tăng trưởng không giảm, hay làm cho Phật Pháp lưu bố khắp nơi, hay phá tất cả khối si vô minh, hay được tận trí vô sanh trí. Tất cánh hết khổ, đây gọi là Chú.
Đức Phật Đức Hoa Mật Như Lai liền nói Đà La Ni Chú:
Ma na xoa, a bà xoa, già la bà xoa, xà la xoa, ma ma na xoa, ma đà xoa, na đồ xoa, na đồ la hưu, tỉ bà na tra, khước già na tra, a tra na tra, cứu na tra, ba lợi cứu bà na tra, na đồ na tra, phú lợi ca na tra, ưu đa la na tra, già tỳ na tra, quân xà na tra, a mục khê na tra, giá phàm bà la na tra, khước kìm bà la na tra.
Phật ca la na tra, đế bà lưu đà lã na tra, ma la xà na tra, thi lợi câu bà na tra, kiêu đa tra, đa đồ la bà, ma lưu đa khước bà, đề hưu xoa, bà đề lã thù, toá ma na thù, bà ha na phú trí, tán đề lã xà bà, a ma ma xà bà, ma hưu la già xà la, a niết na, a niết na lã bà, a niết na xoa, a bà ha mạt lực già niết na xoa, y bàn đô đậu khư tả, sá ha.
Lúc Phật nói Chú ấy, trong đại chúng kia có sáu vạn ức người được như pháp Nhẫn. Lại có sáu vạn người nhập chánh định tụ.
Này Hư Không Mật! Nay ta dùng tịnh Đà La Ni nây giữ dục cho Phật Thích Ca Mâu Ni, ông nên thọ trì phúng tụng thơ tả. Hư Không Mật Đại Bồ Tát kính vâng lời Phật thọ trì thơ tả Đà La Ni ấy rồi cùng vô lượng Bồ Tát đến Ta Bà Thế Giới, tất cả đều biến thân làm Chuyển Luân Vương, dâng các thứ châu báu cúng dường Phật, đầu mặt kính lễ hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Vua Tần Bà Sa La thấy vô lượng Bồ Tát hoặc là Phạm Vương, hoặc là Thiên Đế Thích, hoặc là Na La Diên, hoặc là Chuyển Luân Vương, từ bốn phương đến tập hội, Vua liền đứng dậy cung kính chắp tay.
Nhật Mật Đại Bồ Tát ở trước Đức Phật nói kệ tán thán:
Trong các bậc Thánh rất thù thắng
Ban đại quang minh trừ ác kiến
Người hành chánh đạo cho pháp ấn
Xô diệt ác long và tứ ma
Dựng vững Pháp Tràng ban giải thoát
Dùng đuốc pháp sáng phá tối tăm
Thân cận thiện hữu tu tập định
Vì thương chúng sanh nói phước điền
Phật Pháp Tăng bảo rất khó được
Thân người lòng tin cũng còn khó
Được thiện hữu phá được phiền não
Chúng sanh đi tối chìm sông kiết
Như Lai thuyền sư hay cứu vớt
Bốn phương Chư Phật sai tôi đến
Nay trong đại hội nói giữ dục.
Nhật Mật Bồ Tát nói kệ ấy rồi, như ở bổn độ đã được bổn Phật Giáo giới đều nói y như vậy.
Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Này Xá Lợi Phất! Đà La Ni này là của tứ phương Chư Phật giữ dục để làm lợi ích cho các chúng sanh cõi này. Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả Đà La Ni này rồi ở trong hàng tứ chúng rộng phân biệt nói.
Nhật Mật Đại Bồ Tát nói kệ tán thán:
Như Lai chân thật biết pháp giới
Dạy ma chúng sanh đạo chánh trực
Nếu người chân thật sanh tín tâm
Người này hay phá ba ác đạo
Cúng dường Như Lai một hương hoa
Vô lượng đời thọ vô thượng lạc
Trong vô lượng đời thân đầy đủ
Cũng được vô thượng chân trí huệ
Nếu một lần nghe tổng trì này
Liền trừ diệt được các phiền não
Được hàng nhân Thiên thường cúng dường
Chứng được vô sanh và tận trí.
Đức Thế Tôn bảo bốn đại chúng Bồ Tát rằng: Này chư thiện nam tử! Nếu các ông thích ở Thế Giới này thì tuỳ ý tu tập các thiện pháp đã có. Bốn Đại Bồ Tát và đại chúng Bồ Tát liền tuỳ ý nhập định, Đã nhập định rồi thân phát quang minh, hoặc như một ngọn đèn sáng nhẫn đến hoặc như ánh sáng vô lượng nhật nguyệt.
Thừa Phật thần lực, A Nhã Kiều Trần Như suy nghĩ rằng: Nay nếu ta hỏi Phật một nghĩa nhân đó hoặc Phật sẽ phân biệt nói rộng bốn Đà La Ni như vậy, tiếng nói của Phật ắt được nghe khắp Ta Bà Thế Giới, chúng sanh nghe rồi dứt lòng nghi, ở trong hướng pháp được đại quang minh đến bờ kia nhập chánh định tự chẳng đoạ ác đạo, tất cả đều hành pháp thuần thiện. Suy nghĩ rồi Tôn Giả từ chỗ ngồi đứng dậy kính ý yên lặng chắp tay mà đứng.
Đức Phật nói: Này Kiều Trần Như! Có phải ông muốn hỏi Phật đại nghĩa ư?
Tôn giả nói: Bạch Đức Thế Tôn! Đúng vậy, tôi muốn thưa hỏi duy nguyện Thế Tôn hứa cho.
Đức Phật nói: Này Kiều Trần Như! Nay ông biết phải lúc. Phật sẽ phá hoại tất cả điều nghi.
Tôn giả nói: Bạch Đức Thế Tôn! Như trong Kinh Phật nói có hai thứ là ái và sĩ phu đi trong sanh tử. Thế nào là ái, là sĩ phu.
Cớ chi Phật nói hai thứ này đi trong sanh tử?
Đức Phật nói: Lành thay lành thay, này Kiều Trần Như! Ông khéo phát lời hỏi ấy, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh. Đây là biết phải lúc mà hỏi, đây là hỏi đáp đúng. Lắng nghe lắng nghe, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Này Kiều Trần Như! Ái có ba thứ, đó là dục ái, sắc ái và vô sắc ái. Còn có ba thứ là hữu ái, đoạn ái và pháp ái.
Thế nào là dục ái?
Nói là dục ấy gọi là phóng dật, phóng dật nhân duyên là tham xúc, do xúc nhân duyên thì sanh tưởng lạc, lạc tưởng nhân duyên thì đôt cháy thân tâm, vì đốt thân tâm nên ưa làm thập ác nghiệp, thập ác nhân duyên thì hay tăng trưởng ba ác đạo khổ, nếu thọ thân người thì nghèo cùng khốn khổ. Vì tham nhân duyên nên thọ sanh trong ngũ đạo, sanh trong loài dê nhiều thọ khổ não.
Dầu thọ khổ mà tâm không có tàm quý chẳng biết hối hận. Nêu nhân chút ít thiện được sanh làm người thì lòng ái tăng trưởng. Vì ái tăng trưởng nên thân khẩu bất tịnh tạo gây vô lượng tội ác nặng nhẫn đến tội ngũ nghịch.
Do nhân duyên này lại sa địa ngục thọ đại khổ não. Tất cả thọ khổ đều nhân tâm ái. Vì vậy nên Như Lai nói chánh pháp để giải thoát tâm ái, quở trách tham dục.
Nếu có chúng sanh nghe lời quở trách lòng dục rồi, xem dục như ngọn lửa, như cây đại độc, như độc bồn hành xí, như dao bén, như giặc ác, như Chiên Đà La, như hoàn sắt nóng, như mưa đá ác, như gió ác, như độc xà, như oán thù, như quỷ La Sát nơi đồng hoang, như kẻ giết hại, như phẩn, như mả mồ.
Nếu có người hay quán sát như vậy thì người này có bao nhiêu sự ái cùng tham, ái nhị, ái trước, ái trạch, ái nhiệt, ái tăng thảy đều trừ diệt. Dứt ái rồi niệm pháp, thích pháp, học pháp, thọ pháp, thủ pháp, siêng cầu pháp, cất chứa pháp, tịnh pháp, hành pháp, quy y nơi pháp.
Người này lâm chung được pháp niệm. Nhân sức pháp niệm liền nghe thập phương Chư Phật tuyên nói pháp yếu giáo hoá chúng sanh. Nghe pháp rồi lòng hoan hỷ. Vì hoan hỷ nên thấy sắc thân Chư Phật.
Người này xả thân sanh Quốc Độ thanh tịnh không có ba ác đạo, thường cùng thượng thiện nhân chung ở, đầy đủ trí huệ, xả thí, tinh tiến, tu tập từ bi điều phục chúng sanh, dứt phiền não tập khí, đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Ví như hộp hương thơm đựng y phục, y phục đều thơm mà hộp hương không giảm hơi thơm.
Này Kiều Trần Như! Nếu các chúng sanh do sức thiện nguyện sanh Quốc Độ thanh tịnh cùng thượng hữu đồng sự nghiệp thiện tự tăng thiện pháp mà thiện của thượng thiện hữu cũng không giảm bớt. Vì vậy nên có thiện nam thiện nữ muốn tự lợi lợi tha và cộng lợi thường nên cần cầu y dựa các thiện hữu. Nếu có người hay quán sát tướng của dục tham như vậy, thì nên biết người ấy chẳng lâu sẽ được vô thượng bồ đề.
Tôn giả nói: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là thiện hữu?
Đức Phật nói: Này Kiều Trần Như! Thiện hữu ấy là Chư Phật Chư Bồ Tát chư A La Hán. Lại thiện hữu ấy là thân Phật ta đây. Tại sao, vì ta thường thương xót tất cả chúng sanh, hay nói những lỗi hoạ của dục tham, vì vậy nên đại chúng phải học lời của ta.
Lời Phật nói trọn không có hai, không có hư vọng, chẳng có lưỡng thiệt, chẳng phải vô nghĩa, chẳng phải thô ác. Là lời thành thiệt, lời từ lời bi, lời an lạc chúng sanh.
Nay Phật nói tội lỗi của dục tham các ông phải nên thọ trì. Đã thọ trì rồi thoát khỏi ba ác đạo mau được vô thượng bồ đề.
Lúc bấy giờ Ta Bà Thế Giới tất cả chúng sanh đồng thanh nói: Bạch Đức Thế Tôn! Duy nguyện tuyên nói tội lỗi của dục tham. Nay chúng tôi sẽ chí tâm thọ trì.
Đức Phật nói: Này các thiện nam tử! Dục có bốn thứ là sắc dục, hình dục, thiên dục và dục dục.
Thế nào là sắc dục?
Sắc do Tứ Đại tạo ra, hàng phàm phu chẳng thấy là không có ngã không có chúng sanh nên sanh tưởng điên đảo thấy tướng nam, tướng nữ, tướng thượng sắc, tướng hạ sắc, thấy sắc này đáng yêu, sắc này đáng ghét. Nhân vì điên đảo thấy tướng nam nữ nên làm cho tham dục chưa sanh thì sanh sanh rồi thì tăng trưởng.
Người này do đó mà xa lìa thiện căn và thiện tri thức, chẳng thể thủ hộ khéo thân khẩu ý nghiệp. Vì vậy nên gọi là khối ác pháp. Tại sao, vì chẳng thể quán sát dục giải thoát vậy.
Do nghĩa này nên tăng ba ác đạo thọ các thân địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trong vô lượng đời thọ đại khổ não đều do tham dục. Tham dục nhân duyên khiến dục tăng trưởng.
Nếu có người trí quán sát nữ sắc thấy tướng bất tịnh da thứa, thịt xương, gân cốt, máu mủ mạch lạc, thấy vậy rồi tâm thích tu tập quán tưởng ấy.
Như quán sát nữ thân, quán sát nam thân cũng như vậy. Như quán sát người gần, quán sát người xa cũng vậy. Như quán sát người này quán sát người kia cũng vậy. Như quán sát người quán sát mình cũng vậy. Người ấy nếu có thể tu tập pháp tâm này thì ở nơi tham ái mau được giải thoát.
Quán sát thân này gân cốt lóng đốt dính liền nhau tâm theo thân hành, bấy giờ buộc tâm trụ tại trán chừng bằng trái táo. Tâm thích tu tập tướng như vậy rồi thì thân được tịch tĩnh, chẳng thấy ác tướng, chẳng thấy ác sự, chẳng thấy ác duyên. Đây gọi là Xa ma tha, gọi là tâm tịch tĩnh.
Thế nào gọi là thân tịch tĩnh?
Người này nhập định diệt nhập tức. Đã không có nhập tức thì nào có xuất tức. Đây thì gọi là thân tâm tịch tĩnh. Thân tâm tịch tĩnh tức là Xa ma tha nhân duyên vậy.
Người này quán thân bao nhiêu lóng xương lìa tan như cát bụi bị gió thổi. Thấy rồi liền sanh ý tưởng không rỗng không có vật, quán nơi hư không. Đây thì gọi là thân tâm tịch tĩnh. Đây gọi là nhân Xa ma tha định mà được giải thoát.
Tôn Giả nói: Bạch Đức Thế Tôn! Tướng hư không ấy có là tướng hữu vi chăng?
Đức Phật nói: Này Kiều Trần Như! Hư không là tướng hữu vi.
Tôn Gỉa nói: Bạch Đức Thế Tôn! Hư không nếu là tướng hữu vi thì là tự tướng hay là tha tướng?
Đức Phật nói: Này Kiều Trần Như! Nếu có thể quán sát tất cả pháp giới và hữu vi giới, đây gọi là tự tướng. Tại sao, vì nếu có thề quán sắc tịch tĩnh ấy liền thấy Phật thân.
Tại sao, nếu người quán xương có thể thành cát bị gió thổi, người này có thể phá sắc tham sắc dục, có thể thâm quán sát sắc dục thiệt tánh, chỗ thấy của người này đều như hư không, thập phương các sắc rỗng không như lưu ly, trong ấy lại thấy vô lượng Chư Phật, thấy mười phương cũng như vậy. Lại thấy Như Lai đủ ba mươi hai tướng tám mươi hảo. Thấy thập phương Thế Giới Chư Phật cũng như vậy.
Người này nếu được hối pháp sanh tử liền tự tư duy, ta sẽ hội Phật, hư không như vậy ai làm ra sẽ thế nào diệt?
Tư duy như vậy rồi tự biết rằng ta đã hỏi rồi ta đã biết rồi. Tánh hư không không có tác gỉa, đã không có tác gỉa thì làm sao diệt.
Nói là hư không ấy, không có giác quán, không có vật, không có số, không có tướng mạo, không xuất, không diệt. Tất cả các pháp cũng như vậy. Lúc quán như vậy, người này được quả A Na Hàm.
Người A Na Hàm dứt hết tâm tham dục. Chỉ có năm sự chưa trừ diệt được, đó là sắc ái, vô sắc ái, diệu, mạn, vô minh.
Người này nếu được thấy thân Như Lai bèn suy nghĩ như vậy: Ta nên biết số. Lúc ấy người này quán ít thấy ít quán nhiều thấy nhiều.
Lại suy nghĩ Chư Phật như vậy từ xứ nào đến?
Liền suy nghĩ rằng Chư Phật như vậy không từ đâu lại, đi cũng không chỗ đến. Tâm Tam Giới của ta, tâm này nhân nơi thân. Ta theo giác quán muốn nhiều thấy nhiều muốn ít thấy ít. Chư Phật Như Lai ấy tức là tâm ta.
Tại sao?
Vì theo tâm mà thấy, tâm là thân ta, ta là hư không. Ta nhân giác quán thấy vô lượng Phật. Ta dùng giác tâm thấy Phật biết Phật. Tâm chẳng thấy tâm, tâm chẳng biết tâm.
Ta quán pháp giới tánh không vững chắc, tất cả các pháp đều từ giác quán nhân duyên mà sanh. Vì vậy mà tất cả bao nhiêu tánh tướng tức là hư không. Tánh hư không cũng là không.
Nếu có người sơ phát bồ đề tâm thì nên quán vô lượng các pháp nhân duyên. Người này nếu phát tâm cầu Thanh Văn liền được vô tướng tam muội hiến vô minh kia dứt hẳn tịch tĩnh, cũng chứng được tùy thuận không nhẫn. Người này nếu thấy hư không là không liền được thân tâm tịch tĩnh.
Đây gọi là không giải thoát môn, lấy quả A La Hán không khó. Người này nếu lại tu hành diệt định giải thoát, để diệt vô lượng các pháp nhân duyên.
Lúc nói pháp ấy, có chín vạn chín ngàn ức chúng sanh được tu định nhẫn. Tám vạn bốn ngàn chúng sanh được tu không nhẫn. Sáu vãn chúng sanh được không tam muội giải thoát môn. Hai vạn chúng sanh được hiện kiến Chư Phật tam muội. Tám vạn bốn ngàn chúng sanh được quả A La Hán. Vô lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn.
Đức Phật phán tiếp: Lại này Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tự quán thân mình làm tướng bất tịnh mà không điều phục được tự tâm mình. Người này nên tiếp quán tử thi, hoặc sắc xanh bầm, hoặc thúi rã, hoặc màu đỏ, hoặc sình trương, hoặc rời rã, hoặc xương trắng như võ ốc, nên quán kỹ tâm mình thích trụ chỗ nào, biết rồi thì trụ tâm nơi tướng ấy.
Như quán thân người quán thân mình cũng vậy, hoặc sắc xanh bầm nhẫn đến như vỏ ốc, như ngày ban đêm cũng vậy. Như đêm ban ngày cũng vậy. Như quá khứ vị lai cũng vậy. Như vị lai quá khứ cũng vậy.
Lúc bấy giờ nếu thấy vật ngoài hoặc cỏ, cây, người, vật, tạp vật đều quán xương trắng. Quán như vậy nhẫn đến mạng chung chẳng sanh tâm tham. Người này hiện tại hay lìa ái dục, đời khác cũng lìa.
Người này nếu có thể được tu không Đà La Ni thì có thể quán xương làm tướng lìa tan như cát vi trần. Hoặc nơi mình nơi người chẳng thấy tướng sắc như vi trần, liền chứng được tướng hư không, thấy tất cả sắc như thanh lưu ly. Thấy rồi lại quán hư không sắc vàng.
Có thể quán sắc vàng, ác đỏ, sắc trắng, nhiều màu, màu lưu ly. Nếu thấy đất và nước cũng như lưu ly, người này có thể thấy tất cả đại địa như chừng bằng bốn ngón tay. Nếu muốn lay động liền lấy ngón tay chân nhấn đó khiến động, tùy ý gần xa nhẫn đến cả đại địa cây cối núi sông đều bị lay động.
Hoặc quán các dòng nước làm nhiều thứ màu, hoặc hoa phân đà lợi, hoa ưu bát la, hoa câu vật đầu, hoa ba đầu ma, trên mặt nước tự ý đi đứng ngồi nằm. Quán tất cả núi làm nhiều thứ màu, hình nó dịu mềm như bông đâu la rồi ở trong đó đi đứng ngồi nằm.
Lại tự quán thân nhẹ bay như gió. Tác quán như vậy rồi có thể đi đứng ngồi nằm trên hư không. Người này lại nhập hỏa quang tam muội, thân phóng ra các thứ quang minh sắc vi diệu, lại di nhập viêm ma ca định, trên thân ra nước dưới thân ra lửa.
Lam Đại Thần biến như vậy rồi suy nghĩ rằng: Ta sẽ thế nào được thấy Chư Phật?
Lúc ấy tùy phương diện được quán sát đều được thấy Phật quán nhiều thấy nhiều quán ít thấy ít. Thấy rồi lại suy nghĩ Chư Phật ấy không từ đâu lại đi cũng không chỗ đến. Tâm Tam Giới của ta, tâm ấy theo thân, ta theo giác quán muốn nhiều thấy nhiều muốn ít thấy ít.
Chư Phật Như Lai tức là tâm ta. Tại sao, vì theo tâm mà thấy vậy. Tâm ấy tức là thân ta, ta tức là hư không. Ta nhân giác quán thấy vô lượng Phật. Ta do giác tâm mà thấy Phật biết Phật. Tâm chẳng thấy tâm tâm chẳng biết tâm.
Ta quán pháp giới tánh không vũng chắc, tất cả các pháp đều từ giác quán nhân duyên mà sanh, vì vậy nên pháp tánh tức là hư không hư không tánh cũng là rỗng không. Ta nhân tâm ấy thấy xanh vàng đỏ trắng tạp sắc và hư không.
Làm thấy biến ấy rồi, cảnh được thấy như gió không có chân thật. Đây thì gọi là chung đồng người phàm phu như thiệt Đà La Ni.
Người này lại suy nghĩ rằng: Nếu có hư không tức là không có thủ không có giác quán, không thể tuyên nói được. Như tâm ta rời lìa tướng quán hư không, cũng quán tâm tướng chẳng có tác là viễn ly, lìa tất cả các chẳng tác phát tâm. Giả sử có phát liền diệt.
Vì tâm duyên diệt nên tâm ấy bèn diệt, tịnh thân khẩu ý tu tập diệt định. Người này lâu dài cột tâm tại định, từ diệt định khởi nhập vào Niết Bàn. Đây gọi là chẳng chung đồng người phàm phu như thiệt Đà La Ni.
Thế nào gọi là cộng phàm phu nhân như thiệt Đà La Ni?
Nếu người ấy hay suy nghĩ như vậy: Ta tùy ý quán sắc thì liền thấy sắc, sắc ấy tức là tâm ta, tâm ta tức là sắc. Như ta rời xa tất cả sắc tướng mà quán hư không tướng. Người ấy lúc bấy giờ tu hư không tướng. Đây gọi là cộng phàm phu nhân như thiệt Đà La Ni.
Thế nào gọi là bất cộng phàm phu nhân như thiệt Đà La Ni?
Người ấy nếu suy nghĩ như vậy: Sắc tức là hư không. Ta do sắc nhân duyên như vậy được thấy hư không. Tánh hư không gọi là không chướng ngại, là trụ xứ của gió.
Gió như vậy nhân tứ đại sanh, sắc tướng này của ta cũng nhân tứ đại khởi. Hư không với gió và sắc tướng bình đẳng không sai biệt. Tất cả pháp tánh, tánh tự không tịch, tự tánh và tha tánh cũng không tịch.
Hư không ấy tức là không sanh không diệt. Lúc quán như vậy cột niệm Như Lai. Niệm Như Lai rồi thấy trong hư không có vô lượng Phật, liền chứng được quả A Na Hàm. Đây gọi là bất cộng phàm phu nhân như thiệt Đà La Ni vậy.
Người ấy lại suy nghĩ rằng: Hư không ấy tức là ta, tức là ta tịnh, tức là tâm ta, ta không có sắc, như hư không vô biên cũng vô biên. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt Đà La Ni.
Nếu người ấy suy nghĩ rằng: Trong tất cả pháp không có ta không có sở hữu ta. Nói hư không ấy tức là không có ta, sắc không có ta. Nếu niệm Như Lai liền thấy Như Lai. Như Lai ấy tức là ta vậy. Ta thấy Phật rồi được quả Sa Môn đến quả A La Hán. Đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt Đà La Ni.
Người ấy nếu quán ta tịnh tức là hư không xứ, hư không tức là tâm ta, nếu hay dứt hẳn tất cả phiền não tức là tịnh tâm, nếu hay tu tập Bát Chánh Đạo thì gọi là tịnh tâm, hay tu như vậy thì có thể được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt Đà La Ni.
Nếu người ấy quán sắc, quán sắc tướng tức là phân biệt tướng, phân biệt tướng ấy tức là sân hận tướng, sân hận tướng ấy tức là sanh tử tướng. Nay ta vì đoạn dứt tướng sanh tử mà quán tâm tướng rỗng không. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt Đà La Ni.
Người ấy lại quán ta tức là tịch tĩnh, nay ta cũng chưa dứt giác quán. Nếu ta quán ta, ta như hư không, ta ta ấy tức là khổ, nhân sanh ra khổ tức gọi là tập, khổ và tập ấy là pháp đoạn dứt được đây gọi là diệt, quán sát khổ tập và diệt ấy đây gọi là đạo. Được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt Đà La Ni.
Người ấy lại suy nghĩ rằng: Ta cớ chi quán hư không, hư không ấy tức là ta của ta. Nếu xa lìa quán hư không kế đến quán thức xứ. Như quán hư không, quán thức xứ cũng vậy. Như hư không vô biên, thức xứ cũng vô biên. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt Đà La Ni.
Nếu người ấy quán thức tức là khổ, biết sở nhân của khổ gọi đó là tập, khổ và tập ấy đoạn dứt được đây gọi là diệt, quán khổ tập diệt đây gọi là đạo. Được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt Đà La Ni vậy.
Người ấy lại quán thức xứ tức là giác quán ghẻ chốc phiền não. Như ta xa lìa không xứ thức xứ tu vô tưởng xứ. Tu vô tưởng rồi được vô tưởng định. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt Đà La Ni.
Người ấy nếu quán thức xứ tức là pháp ghẻ chốc khổ não. Như ta xa lìa quán thức tướng kế quán vô tưởng tướng. Nói vô tưởng ấy tức là không có ta của ta. Quán như vậy rồi liền được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Đây gọi là bất cộng phàm phu nhân như thiệt Đà La Ni vậy.
Người ấy nếu có thể quán vô tưởng xứ ấy tức là tế tưởng. Nếu ta xa lìa vô tưởng xứ mà quán phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Đây gọi là cộng phàm phu nhân như thiệt Đà La Ni.
Người ấy nếu quán Phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy là đại khổ não xứ có thể dứt có thể được giải thoát. Lúc quán như vậy được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Đoạn hẳn tất cả dục tham, sắc tham và vô sắc tham, rời lìa phàm phu gọi là được hiệu Thánh Nhân. Dứt hẳn nhân của ba ác đạo. Đây gọi là như thiệt Đà La Ni vậy.
Đây là dục được Chư Phật kia sai Nhật Mật Đại Bồ Tát mang đến, có thể dứt tất cả kiết sử phiền não, tất cả ác kiến, ngã kiến, thủ kiến, giới kiến, thường kiến, đoạn kiến, thọ mạng kiến, sĩ phu kiến, tác kiến, thọ kiến, sắc kiến, xúc kiến, xuất kiến, tứ đại kiến, hay đoạn dứt các kiến như vậy.
Đà La Ni ấy khéo có thể rõ thấu ấm nhập giới, hay tịnh các kiến, hay kiến người thọ trì vĩnh viễn thọ an lạc, trở hoại chúng ma, điều phục ác ma, làm cho Chư Thiên hoan hỷ, phá A Tu La, điều Ca Lâu La, hay đem lại sự vui mừng cho Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, hay dứt ác đạo.
Hay khiến người Tọa Thiền ưa thích tịch tĩnh, hay chữa tất cả các ác trọng bệnh, hay phòng tất cả các ác đấu tụng, hay tăng Pháp Giới, hay hộ Tam Bảo, hay được tận trí và vô sanh trí, phá hoại khối vô minh.
Lúc nói pháp ấy, có vô lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, vô lượng chúng sanh được quả A La Hán, vô lượng chúng sanh được Đà La Ni ấy, vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề, vô lượng chúng sanh được Vô sanh nhẫn.
Tôn Giả Kiều Trần Như bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào gọi là Liên Hoa Đà La Ni được người trí thọ trì đọc tụng thơ tả được lợi ích lớn chẳng ưa Tam Giới được vô tướng giải thoát môn, đều có thể dứt các phiền não, bảy lần thọ thân nhân Thiên, dầu ở Dục Giới mà chẳng bị dục ái nhiễm ô, thường được Chư Thiên và thế nhân cung kính. Đà La Ni ấy trước đây được Nhật Mật Đại Bồ Tát tuyên nói.
Đức Phật nói: Này Kiều Trần Như! Liên Hoa Đà La Ni mà ông hỏi đó, chẳng phải là chỗ biết của Thanh Văn và Duyên Giác, Đà La Ni này nhẫn đến mười tám pháp hành bất cộng.
Này Kiều Trần Như! Giả sử ta ở trong vô lượng kiếp nói Đà La Ni ấy trọn chẳng hết được, cũng làm cho người nghe sanh tâm mê muộn. Đà La Ni ấy chỉ có Phật hay nói được, chỉ có Phật hay nghe được. Tại sao, vì Đà La Ni ấy khó biết khó hiểu, ba Đà La Ni khác cũng vậy.
Tôn Gỉa nói: Bạch Đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai sẽ nói hư không không hành Đà La Ni.
Đức Phật nói: Này Kiều Trần Như! Chí tâm lắng nghe Phật sẽ vì ông mà tuyên nói.
Này Kiều Trần Như! Nếu có chúng sanh vì nhân duyên phóng dật mà sanh tâm xúc dục, người này chẳng biết chỗ giải thoát, lưu chuyển sanh tử trong vô lượng đời ở ba ác đạo thọ đại khổ não.
Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh thọ vô lượng khổ não như vậy nên sanh lòng thương xót siêng năng chẳng nghỉ dứt, tu khắp các trợ bồ đề Đạo.
Tu tập các hành pháp rồi được vô thượng bồ đề tuyên nói khổ giải thoát. Chúng sanh nghe rồi liền được thoát khổ. Khổ giải thoát ấy tức là Sơ Quả đến quả A La Hán.
Này Kiều Trần Như! Thế nào gọi là xúc dục?
Nói xúc dục ấy là hai thân hiệp nhau. Nhân vì hai thân chung hiệp mà sanh cảm xúc. Nhân xúc sanh thọ lạc, nhân lạc thọ sanh khổ thọ. Vì khổ nhân duyên nên sanh tử khổ não nhân đó màng sanh.
Này Kiều Trần Như! Như bốn độc xà dùng bốn nhân duyên có thể hại chúng sanh, đó là nhìn thấy, hà hơi, cắn mổ và chạm xúc. Dục cũng như vậy, có kiến nhân duyên, văn nhân duyên, niệm nhân duyên và xúc nhân duyên. Do bốn nhân duyên ấy làm cho các chúng sanh xa lìa tất cả các thiện căn bổn, ở trong sanh tử thọ đại khổ não.
Này Kiều Trần Như! Thế nào gọi là xúc dục giải thoát?
Nếu Tỳ Kheo có thể quán bạch cốt suy nghĩ như vậy: Sắc ấy là sở tạo của tứ đại. Được tứ đại tạo ra là vô thường tánh nó không bền chắc là pháp ly tán, là do thịt máu xương. Người trí sao lại ở nơi thân như vậy mà sanh tướng sạch tốt. Quán như vậy rồi với tất cả tịnh sắc mười phương đều liền được tướng chẳng nên thích.
Tỳ Kheo ấy lại suy nghĩ rằng: Ta thích tu tập tướng chẳng nên thích ấy thì dứt trừ tất cả phiền não sanh lão bệnh tử. Đây gọi là Xa ma. Nếu quán xương trắng nhẫn đến xương đầu thì gọi là bà xá na. Đã được Tỳ bà xá na và Xa ma tha ấy rồi quán sát tức nhập xuất.
Thấy hơi ra liền suy nghĩ rằng: Hơi gió ấy từ nơi nào lại đi đến chỗ nào. Lúc quán như vậy xa lìa thân tướng sanh ra không tướng. Chẳng thấy nội thân đây gọi là nội không. Chẳng thấy vật sở hữu cà sắc tướng ngoài, đây gọi là ngoại không.
Quán nội không và ngoại không rồi lại suy nghĩ rằng: Nay ta tu tập tướng nhập tức rồi làm lợi ích lớn, có thể phá hoại tất cả nội ngoại các sắc. Ta phá hoại nội ngoại sắc tướng như vậy đều là nhập tức quánnhân duyên vậy. Do nhân duyên ấy khiến tôi chẳng thấy nội ngoại các sắc. Ta không có sắc tướng tức là hư không lực.
Nay ta quyết định biết tất cả các pháp không có chỗ đi không có chỗ đến. Quán như vậy thì tất cả giác quán đều dứt hẳn. Lại quán thức ấy biết là tất cả giác quán nhân duyên, ta nên xa lìa tâm ý thức hành.
Tại sao?
Vì nếu có sanh thì biết quyết định diệt. Lúc quán như vậy được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Hoặc được như Pháp Nhẫn hoặc được bồ đề. Nếu quán sát giác quán là tướng diệt liền được diệt định.
Đây gọi là bất cộng phàm phu hư không Đà La Ni. Đà La Ni thành tựu vô lượng công đức, dứt hẳn vô lượng các khổ não lớn.
Lúc nói pháp ấy, chín vạn hai ngàn chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, sáu vạn chúng sanh được quả A La Hán, chín vạn chín ngàn chúng sanh được hư không Đà La Ni, tám vạn chúng sanh được quả Bích Chi Phật, tám ngàn ức chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề, vô lượng chúng sanh được tâm bất thối.
Tôn Giả Kiều Trần Như bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Phật Cao Quý Vương Như Lai ban cho dục tùy vô nguyện Đà La Ni. Duy nguyện Như Lai phân biệt giải nói.
Đức Phật nói: Này Kiều Trần Như! Ông nên chí tâm lắng nghe nay ta dẽ tuyên nói đó.
Này Kiều Trần Như! Có các chúng sanh bị súc dục trói buột chẳng giải thoát được. Người này nên quán vô nguyện giải thoát.
Người ấy suy nghĩ rằng: Dục dục, sắc dục và vô sắc dục, xúc dục, giải dục, các dục như vậy nhân giác quán sanh các hành nhân duyên. Các hành như vậy không có tác giả không có thọ giả nhân gió mà sanh.
Thân khẩu hành của ta cũng nhân phong mà sanh. Nhân nơi gió này mà thân được tăng trưởng. Nhân nơi gió này mà khẩu được tăng trưởng. Như ta quán gió ấy tức là hơi thở vào ra.
Quán kỹ tất cả lỗ lông từ phong nhân duyên. Lại quán tất cả vật bất tịnh. Lại quán thân này lúc chết, thây ấy không còn gió vào ra.
Lại suy nghĩ rằng: Thân khẩu hành của ta nhân phong nhân duyên. Nếu không có phong thì không có thân khẩu hành nhân duyên. Do cớ ấy nên lúc này được không tam muội tu tập tăng trưởng nhân vì tu tập nên có thể dứt dục tham đến xúc dục. Quán như vậy rồi được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Hoặc phát tâm vô thượng bồ đề.
Lúc bấy giờ Thiện Ý Giác Quán Bồ Tát Ma Ha Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu người Thanh Văn tu bất tịnh tướng, thành tựu tướng ấy rồi thì có những tướng gì?
Đức Phật nói: Này Thiện Ý Giác Quán! Nếu người ấy vì phá hoại kiết sử dục tham mà tu bất tịnh tướng, cột tâm giữa mày mà quán xương thân mình, đây gọi là một tướng. Nếu quán xương thân mình và xương thân người thì gọi là hai tướng.
Lại quán tất cả đều là bất tịnh đây gọi là ba tướng. Người này hay quán khổ tập, đều sạch gọi là Xa ma tha, được tướng noãn pháp.
Người ấy lúc quán bạch cốt như vậy thấy trí mình như ngọn đèn sáng, quán thân bốn hành nhẫn đến vi trần, đây gọi là đảnh pháp. Quán tứ Chân Đế đây gọi là Thanh Văn. Bất tịnh quán thành tựu chứng được Xa ma tha định đây gọi là tướng quán bạch cốt.
Lúc quán tướng ấy được bát chánh đạo. Nhân bát chánh đạo được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Ma Vương Khủng Bố Bồ Tát - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Hiền Ngu - Phẩm Năm Mươi Ba - Phẩm đàn Nhị Kỳ
Phật Thuyết Kinh Phương đẳng Bát Nê Hoàn - Phẩm Sáu - Phẩm Hiện Các đức Phật
Phật Thuyết Kinh Chư Pháp Vô Hành - Phần Tám
Phật Thuyết Kinh đại Bi - Phẩm Hai - Phẩm Thương Chủ
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Ba Mươi Bảy - Phẩm Lục Trọng - Phần Ba