Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba Mươi Bảy - Phẩm Nói Tướng Bát Nhã - Phần Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM BA MƯƠI BẢY

PHẨM NÓI TƯỚNG BÁT NHÃ  

PHẦN NĂM  

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh. Vì sáu phép thần thông chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì năm loại mắt chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh, vì sáu phép thần thông chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh. Vì sáu phép thần thông rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh. Vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười lực Phật chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh. Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh. Vì tánh luôn luôn xả chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không quên mất chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh. Vì tánh luôn luôn xả rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh. Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì trí nhất thiết chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh. Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh. Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà La Ni rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh. Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả Dự Lưu chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh. Vì quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả Dự Lưu chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh, vì quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự Lưu rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh. Vì quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc Giác chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị Độc Giác chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc Giác rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì hư không chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì hư không chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì hư không rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân nào đối với bát nhã Ba la mật đa này, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy vì người diễn nói thì thiện nam tử, Thiện Nữ Nhân ấy, sáu căn không bệnh, tứ chi đầy đủ, thân không suy yếu cũng không chết yểu, thường được vô lượng trăm nghìn Thiên Thần cung kính vây quanh, đi theo hộ niệm.

Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân ấy, vào mỗi tháng nhằm ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày rằm đọc tụng tuyên thuyết bát nhã Ba la mật đa này, khi ấy chúng Trời Tứ Đại Vương, Trời Ba Mươi Ba, Trời Dạ Ma, Trời Đổ Sử Đa, Trời Lạc Biến Hóa, Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Phạm Chúng, Trời Phạm Phụ, Trời Phạm Hội, Trời Đại Phạm, Trời Quang.

Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang, Trời Cực Quang Tịnh, Trời Tịnh, Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh, Trời Biến Tịnh, Trời Quảng, Trời Thiểu Quảng, Trời Vô Lượng Quảng, Trời Quảng Quả, Trời Vô Phiền, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện Hiện, Trời Thiện Kiến, Trời Sắc Cứu Cánh các chúng Trời ấy, đều tụ tập đến chỗ pháp sư này để nghe và thọ trì bát nhã Ba la mật đa.

Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân ấy do đọc tụng tuyên thuyết bát nhã Ba la mật đa sâu xa ở trong đại hội vô lượng ấy, mà được công đức thù thắng vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể suy lường.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, thiện nam tử, Thiện Nữ Nhân nào, đối với bát nhã Ba la mật đa này, thọ trì đọc tụng, như lý tư duy, vì người diễn nói, thì thiện nam tử, Thiện Nữ Nhân ấy, sáu căn không bệnh, tứ chi đầy đủ, thân không suy yếu cũng không chết yểu, thường được vô lượng trăm nghìn Thiên Thần cung kính vây quanh, theo sau hộ niệm.

Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân ấy, mỗi tháng vào ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày rằm đọc tụng tuyên thuyết bát nhã Ba la mật đa này, khi ấy chúng Trời Tứ Đại Vương cho đến Trời Sắc Cứu Cánh đều tập trung đến chỗ Pháp Sư này để nghe và thọ trì bát nhã Ba la mật đa.

Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân ấy, do đọc tụng, tuyên thuyết bát nhã Ba la mật đa sâu xa ở trong đại hội vô lượng ấy mà được công đức thù thắng vô lượng, vô số, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể suy lường.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì bát nhã Ba la mật đa này là kho báu lớn, vì bát nhã Ba la mật đa này là kho báu lớn nên có khả năng cứu thoát vô lượng, vô biên hữu tình khỏi sự bần cùng đại khổ của địa ngục, bàng sanh, quỉ giới, loài người và Chư Thiên có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của dòng họ lớn Sát Đế Lợi, dòng họ lớn Bà La Môn, dòng họ lớn Trưởng Giả, dòng họ lớn Cư Sĩ.

Có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của chúng Trời Tứ Đại Vương, Trời Ba Mươi Ba, Trời Dạ Ma, Trời Đổ Sử Đa, Trời Lạc Biến Hóa, Trời Tha Hóa Tự Tại.

Có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí khoái lạc của Trời Phạm Chúng, Trời Phạm Phụ, Trời Phạm Hội, Trời Đại Phạm, Trời Quang, Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang, Trời Cực Quang Tịnh, Trời Tịnh, Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh, Trời Biến Tịnh, Trời Quảng, Trời Thiểu Quảng, Trời Vô Lượng Quảng, Trời Quảng Quả, Trời Vô phiền, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện Hiện, Trời Thiện Kiến, Trời Sắc Cứu Cánh.

Có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của trời không vô biên xứ, trời thức vô biên xứ, trời vô sở hữu xứ, trời phi tưởng phi phi tưởng xứ. Có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của quả Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc Giác. Có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của quả vị giác ngộ cao tột.

Vì sao?

Vì trong kho báu lớn bát nhã Ba la mật đa ấy rộng nói khai thị Mười Thiện Nghiệp Đạo, bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Rộng nói khai thị bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo, ba pháp môn giải thoát, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, bốn Thánh đế ngôi báu Phật, Pháp, Tăng.

Rộng nói khai thị bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã, xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật đa, mười địa Bồ Tát, tất cả hạnh Đại Bồ Tát, pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa.

Pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Rộng nói khai thị năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Tất cả pháp môn Đà La Ni, tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Đối với vô lượng pháp lớn quí báu như thế, vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ sanh vào dòng họ lớn Sát Đế Lợi, dòng họ lớn Bà La Môn, dòng họ lớn Trưởng Giả, dòng họ lớn Cư Sĩ. Vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ sanh vào Trời Tứ Đại Vương cho đến Trời Tha Hóa Tự Tại.

Vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ sanh vào Cõi Trời Phạm Chúng cho đến Trời Sắc Cứu Cánh. Vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ sanh vào Cõi Trời Không Vô Biên Xứ cho đến Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ đắc quả Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán. Vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ đắc quả vị Độc Giác. Vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ chứng nhập chánh tánh ly sanh của Bồ Tát. Vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Vì nhân duyên này nên bát nhã Ba la mật đa ấy được gọi là kho báu lớn.

Này Thiện Hiện! Trong kho báu lớn bát nhã Ba la mật đa như thế, chẳng nói một mảy may pháp có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh, có thủ, có xả.

Vì sao?

Vì không có một mảy may pháp có thể sanh, có thể diệt, có thể nhiễm, có thể tịnh, có thể thủ, có thể xả.

Này Thiện Hiện! Trong kho báu lớn bát nhã Ba la mật đa như thế, không nói có pháp nào là thiện, là chẳng phải thiện, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu lậu, là vô lậu, là có tội, là vô tội, là tạp nhiễm, là thanh tịnh, là hữu vi, là vô vi.

Này Thiện Hiện! Vì nhân duyên này nên bát nhã Ba la mật đa ấy được gọi là kho báu pháp lớn vô sở đắc.

Này Thiện Hiện! Trong kho báu lớn bát nhã Ba la mật đa như thế, chẳng nói mảy may pháp nào là có thể nhiễm ô.

Vì sao?

Vì không có mảy may pháp nào có thể nhiễm ô.

Này Thiện Hiện! Vì nhân duyên này nên bát nhã Ba la mật đa ấy được gọi là kho báu pháp lớn không nhiễm ô.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa không khởi tưởng, không phân biệt, không thủ đắc, không lý luận thế này: Ta đang hành bát nhã Ba la mật đa, ta đang tu bát nhã Ba la mật đa, thì Đại Bồ Tát ấy có khả năng tu hành bát nhã Ba la mật đa như thật, cũng có khả năng gần gũi, lễ kính phụng sự Chư Phật, từ Cõi Phật này đến Cõi Phật khác cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Chư Phật Thế Tôn, du hóa khắp các Cõi Phật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Cõi Phật, tu các hạnh Đại Bồ Tát, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế đối với tất cả pháp chẳng thuận, chẳng trái, chẳng dẫn, chẳng bỏ, chẳng thủ chẳng xả, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng một, chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi, chẳng vào, chẳng ra, chẳng tăng, chẳng giảm.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng vượt Cõi Dục, chẳng ở Cõi Dục. Chẳng vượt Cõi Sắc, chẳng ở Cõi Sắc. Chẳng vượt Cõi Vô Sắc, chẳng ở Cõi Vô Sắc.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với Bố Thí Ba la mật đa chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã, xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật đa chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với pháp không nội chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới.

Pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với chân như chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với Thánh đế khổ chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với bốn tịnh lự chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với tám giải thoát chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với bốn niệm trụ chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với pháp môn giải thoát không chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với mười địa Bồ Tát chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với năm loại mắt chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với sáu phép thần thông chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với mười lực Phật chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với pháp không quên mất chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với tánh luôn luôn xả chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với trí nhất thiết chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với quả Dự Lưu chẳng cùng chẳng bỏ. Đối với quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với quả vị Độc Giác chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với tất cả hạnh Đại Bồ Tát chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, chẳng cùng pháp Thanh Văn, chẳng bỏ pháp Dị sanh, chẳng cùng pháp Độc Giác, chẳng bỏ pháp Thanh Văn, chẳng cùng pháp Chư Phật, chẳng bỏ pháp Đôc giác, chẳng cùng pháp vô vi, chẳng bỏ pháp hữu vi.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Hoặc Phật xuất thế, hoặc không xuất thế, các pháp như thế thường hằng không biến đổi. Tất cả Như Lai Đẳng Giác hiện quán pháp tánh, pháp giới, pháp định, pháp trụ. Bậc Đẳng Giác đã tự hiện quán rồi vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị, phân biệt rõ ràng, khiến cùng ngộ nhập, lìa các vọng tưởng phân biệt điên đảo.

Bấy giờ, vô lượng trăm ngàn Thiên Tử ở trong hư không, vui mừng nhảy nhót, đem các hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng sẵn có ở Cõi Trời, mùi thơm vi diệu và các loại hương bột rải trên Đức Phật, cùng nhau vui mừng, đồng thanh xướng rằng: Chúng con hôm nay ở Châu Thiệm Bộ thấy Phật chuyển pháp luân mầu nhiệm lần thứ hai. Trong đây có vô lượng trăm nghìn Thiên Tử nghe nói bát nhã Ba la mật đa cùng lúc chứng đắc vô sanh pháp nhẫn.

Bấy giờ, Phật Bảo cụ thọ Thiện Hiện! Pháp luân như thế chẳng phải chuyển lần thứ nhất, chẳng phải chuyển lần thứ hai.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với tất cả pháp, chẳng do chuyển, chẳng do hoàn mà xuất hiện thế gian.

Vì sao?

Vì vô tánh tự tánh không?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì những pháp nào vô tánh tự tánh không nên bát nhã Ba la mật đa như thế đối với tất cả pháp, chẳng do chuyển, chẳng do hoàn mà xuất hiện thế gian?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bát nhã Ba la mật đa và tánh của bát nhã Ba la mật đa là không vậy. Vì tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa và tánh của tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật đa là không.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội và tánh của pháp không nội là không. Vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn.

Pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không.

Này Thiện Hiện! Vì chân như và tánh của chân như là không. Vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không.

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không. Vì Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không.

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự và tánh của bốn tịnh lự là không. Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không.

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát và tánh của tám giải thoát là không. Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ và tánh của bốn niệm trụ là không. Vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo và tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là không.

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không và tánh của pháp môn giải thoát không là không. Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không.

Này Thiện Hiện! Vì mười địa và tánh của Bồ Tát mười địa Bồ Tát là không.

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không. Vì sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật và tánh của mười lực Phật là không. Vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng là không.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không. Vì tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết và tánh của trí nhất thiết là không. Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không. Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không.

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự Lưu và tánh của quả Dự Lưu là không. Vì quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán và tánh của quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán là không.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc Giác và tánh của quả vị Độc Giác là không.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát và tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát là không.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật và tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật là không.

Này Thiện Hiện! Vì những pháp ấy vô tánh tự tánh không nên bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với tất cả pháp chẳng do chuyển, chẳng do hoàn mà xuất hiện thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa của Đại Bồ Tát là đại bát nhã Ba la mật đa, vì đạt đến tự tánh không của tất cả pháp, tuy đạt được tự tánh của tất cả pháp đều không nhưng các Đại Bồ Tát nhân bát nhã Ba la mật đa này mà chứng quả vị giác ngộ cao tột và chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng.

Tuy chứng quả vị giác ngộ nhưng không có đối tượng chứng đắc, chứng pháp không chứng chẳng thể nắm bắt được. Tuy chuyển pháp luân nhưng không có đối tượng chuyển, pháp chuyển, pháp hoàn chẳng thể nắm bắt được. Tuy độ hữu tình nhưng không có đối tượng độ, pháp thấy, chẳng thấy, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Trong bát nhã Ba la mật đa như thế, việc chuyển pháp luân rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, vì tất cả pháp đều vĩnh viễn chẳng sanh.

Vì sao?

Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện lại có thể có việc năng chuyển và năng hoàn.

Bạch Thế Tôn! Đối với bát nhã Ba la mật đa này, nếu có khả năng tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng như thế, khiến dễ ngộ nhập thì gọi là thiện tịnh tuyên thuyết bát nhã Ba la mật đa.

Trong đó hoàn toàn không có người nói và người nhận. Đã không có người nói và người nhận thì các người chứng cũng chẳng thể nắm bắt được, vì không có người chứng, cũng không có người đắc Niết Bàn. ở trong pháp bát nhã Ba la mật đa khéo nói này, cũng không có phước điền, người cho, người nhận và vật cho đều là tánh không.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần